Trong suốt quá trình tiến hóa của tâm thức nhân loại, chưa từng có một bậc giác ngộ nào lạ lùng như Bồ Đề Đạt Ma – một nhân vật hiếm có, độc đáo và đầy thu hút. George Gurdjieff cũng chỉ có vài phần gần giống, nhưng không gần lắm – và cũng chỉ vài phần thôi, không phải tất cả.
Có nhiều giác giả trên thế gian này, nhưng Bồ Đề Đạt Ma nổi bật như đỉnh Everest. Cách hiện hữu, cách sống và cách bày tỏ chân lý của ông ấy là hoàn toàn khác biệt, không một ai sánh được. Ngay cả thầy của ông ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng không thể sánh được với Bồ Đề Đạt Ma ở vài điểm. Hẳn Đức Phật cũng thấy khó “tiêu hóa” được con người này.
Bồ Đề Đạt Ma đi từ Ấn Độ đến Trung Quốc để truyền đạt thông điệp của Đức Phật. Mặc dù cách nhau cả ngàn năm nhưng đối với Bồ Đề Đạt Ma và đối với những người giống như ông ấy, không hề có sự ngăn cách về thời gian, không gian – đối với Bồ Đề Đạt Ma, Đức Phật luôn hiện hữu. Có khoảng cách một ngàn năm giữa Đức Phật và Bồ Đề Đạt Ma, nhưng trên thực tế lại chẳng có khoảng cách nào về mặt chân lý. Xét về khía cạnh luân hồi, Đức Phật đã nhập diệt một ngàn năm khi Bồ Đề Đạt Ma chào đời, nhưng ở tâm điểm, họ vẫn bên nhau. Bồ Đề Đạt Ma nói về những tinh hoa của Đức Phật, dĩ nhiên là theo cách riêng của ông ấy. Ngay cả Đức Phật cũng thấy nó lạ lùng.
Đức Phật là người học rộng, tinh thông, và vô cùng duyên dáng. Bồ Đề Đạt Ma thì hoàn toàn ngược lại. Đó không phải là con người, mà là một con sư tử. Ông ấy không phát ra tiếng nói mà là tiếng gầm. Ông ấy thô ráp chứ không có nét duyên dáng như Phật Thích Ca Mâu Ni. Ông ấy không được mài dũa lấp lánh như kim cương; ông ấy chỉ mới đi ra từ mỏ đá, hoàn toàn thô sơ, chưa qua mài dũa, đánh bóng. Đó là vẻ đẹp của Bồ Đề Đạt Ma. Đức Phật thì sở hữu một vẻ đẹp uyển chuyển, tao nhã. Bồ Đề Đạt Ma cũng có vẻ đẹp của riêng mình, giống như vẻ đẹp của một tảng đá – mạnh mẽ, cứng cáp và bền bỉ.
Đức Phật cũng tỏa ra sức mạnh, nhưng đó là sức mạnh tĩnh lặng, giống như một lời thì thầm, một làn gió dịu mát. Bồ Đề Đạt Ma là cơn bão, là sấm chớp. Đức Phật nhẹ nhàng đến trước cửa nhà bạn, ngài thậm chí không gõ cửa, và bạn cũng sẽ không nhìn thấy bước chân của ngài. Nhưng khi Bồ Đề Đạt Ma tìm đến nhà bạn, ông ấy sẽ làm rung chuyển cả nền móng của ngôi nhà.
Đức Phật sẽ không đánh thức bạn ngay cả khi bạn đang ngủ. Còn Bồ Đề Đạt Ma ư? Ông ấy sẽ dựng bạn dậy từ nấm mồ! Ông ấy sẽ đập thật mạnh, hành động như một thợ nề. Chỉ khác về cách biểu đạt so với Đức Phật nhưng thông điệp thì hoàn toàn giống nhau. Ông ấy cúi đầu trước Đức Phật như trước một người thầy. Ông ấy không bao giờ nói: “Đây là thông điệp của tôi”, mà ông ấy nói: “Đây là thông điệp của Phật Tổ. Tôi chỉ là người đưa tin. Tôi không sở hữu gì cả bởi vì tôi không có gì cả. Tôi chỉ là một ống trúc rỗng được Đức Phật lựa chọn làm thành ống sáo. Họ ca hát; tôi chỉ là phương tiện để họ ca hát”.
***
Ra đời cách đây mười bốn thế kỷ, Bồ Đề Đạt Ma là con trai của vua xứ Pallava, một đế chế hùng mạnh ở miền Nam Ấn Độ. Ông là hoàng tử thứ ba, nhưng sau khi chứng kiến mọi thứ diễn ra – Bồ Đề Đạt Ma vốn thông minh hơn người – ông đã quyết định từ bỏ chốn hoàng cung. Ông không chống lại thế giới nhưng chưa sẵn sàng lãng phí thời gian của mình cho những điều tầm thường. Tất cả những gì ông ấy muốn là hiểu được bản chất của chính mình, bởi vì nếu không biết được bản chất đó, bạn phải chấp nhận cái chết.
Trên thực tế, tất cả những người tìm kiếm chân lý đều chống lại cái chết. Bertrand Russell khẳng định rằng nếu không có cái chết, sẽ không có tôn giáo. Có ít nhiều sự thật trong phát biểu đó. Tôi không hoàn toàn đồng ý bởi vì tôn giáo là một lục địa mênh mông. Nó không chỉ là cái chết, mà còn là sự tìm kiếm phúc lành, tìm kiếm chân lý, tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống; nó còn hàm chứa nhiều thứ khác nữa. Nhưng hẳn là Bertrand Russell nói đúng: nếu không có cái chết, rất ít, rất hiếm người quan tâm đến tôn giáo. Cái chết là nguồn động lực to lớn.
Khi từ bỏ hoàng cung, Bồ Đề Đạt Ma nói với vua cha: “Nếu phụ thân không thể cứu nhi thần khỏi cái chết, vậy đừng ngăn cản. Hãy để nhi thần đi tìm kiếm điều gì đó vượt ra ngoài cái chết”. Đó là những ngày tháng tươi đẹp, đặc biệt ở phương Đông. Vua cha suy nghĩ trong giây lát rồi nói: “Ta sẽ không ngăn cản con, bởi vì ta không thể ngăn cản cái chết đến với con. Con hãy ra đi và ta chúc phúc cho con. Thật buồn nhưng đó là vấn đề của ta, đó là tình cảm quyến luyến của ta. Ta luôn hy vọng con sẽ là người kế vị, sẽ là một vị hoàng đế của Pallava hùng mạnh, nhưng con đã chọn điều gì đó lớn lao hơn. Ta là phụ thân của con, sao ta có thể ngăn cản con được? Và con đã hỏi theo cách thật đơn giản mà ta chưa từng nghĩ đến. Con hỏi ‘Nếu phụ thân có thể cứu nhi thần khỏi cái chết, nhi thần sẽ không rời khỏi hoàng cung, nhưng nếu phụ thân không thể, vậy thì đừng giữ nhi thần lại’”. Bạn có thể thấy được tầm vóc của Bồ Đề Đạt Ma, một con người thông minh tuyệt đỉnh.
Và điều thứ hai tôi muốn bạn ghi nhớ là mặc dù Bồ Đề Đạt Ma là một Phật tử nhưng trong chừng mực nào đó, ông ấy còn vươn cao hơn cả Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Chẳng hạn như Phật Thích Ca Mâu Ni e ngại thụ pháp điểm đạo cho nữ giới nhưng Bồ Đề Đạt Ma đã nhận điểm đạo từ một phụ nữ đã chứng ngộ. Người đó tên là Pragyatara. Có lẽ không ai còn nhớ đến người này; chính nhờ Bồ Đề Đạt Ma mà tên của người phụ nữ ấy vẫn còn được nhắc đến, nhưng chỉ cái tên thôi, ngoài ra không có gì khác. Chính bà đã ra lệnh cho Bồ Đề Đạt Ma đi sang Trung Quốc. Phật giáo đã xuất hiện tại Trung Quốc sáu trăm năm trước khi Bồ Đề Đạt Ma đặt chân đến đất nước này. Có điều gì đó thật kỳ diệu, chưa từng xảy ra ở bất cứ đâu, vào bất cứ thời điểm nào – thông điệp của Đức Phật lập tức chiếm trọn lòng tin của người Trung Quốc.
Lúc bấy giờ, người Trung Quốc đã quá mệt mỏi dưới sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo Khổng Tử. Khổng Tử vốn chỉ là một nhà đạo đức, rất khắt khe về đạo đức, không biết gì về những bí ẩn nội tại của cuộc sống. Trên thực tế, ông ấy phủ nhận bất cứ điều gì ẩn chứa bên trong. Mọi thứ đều ở bên ngoài; hãy tinh chỉnh nó, đánh bóng nó, nuôi dưỡng nó, khiến cho nó trở nên xinh đẹp nhất.
Ngoài Khổng Tử, chúng ta còn có Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử, nhưng họ không phải là thầy mà là những nhà thần bí. Họ không thể tạo ra phong trào chống lại Khổng Tử ngay trong lòng của người dân Trung Quốc. Cho nên có một lực hút vô hình. Không ai có thể sống thiếu linh hồn, và một khi bạn nghĩ rằng linh hồn không tồn tại, cuộc sống của bạn bắt đầu mất hết ý nghĩa. Linh hồn là một khái niệm mang tính hợp nhất, nếu thiếu nó, bạn sẽ bị loại ra khỏi sự tồn tại và cuộc sống vĩnh hằng. Giống như khi bị lìa khỏi thân cây, nhánh cây chắc chắn sẽ chết – nó mất hết mọi nguồn dưỡng chất – chính ý nghĩ rằng không có linh hồn bên trong bạn, không có tâm thức, sẽ chia cắt bạn ra khỏi sự tồn tại. Người đó bắt đầu co rút lại, người đó bắt đầu cảm thấy khó thở.
Khổng Tử là một người rất duy lý. Các nhà thần bí như Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử đều biết rằng những việc mà Khổng Tử đang làm là chưa hợp lý nhưng họ không phải là thầy. Họ vẫn hoạt động trong cộng đồng của mình với vài đồ đệ.
Khi đến Trung Quốc, Phật giáo ngay lập tức chạm đến tâm hồn của người dân nơi đây… như thể họ đã khao khát hàng bao thế kỷ, và Phật giáo đã xuất hiện như là một đám mây đem mưa tới. Nó làm dịu cơn khát với quy mô rộng lớn đến mức điều gì đó ngoài sức tưởng tượng đã xảy ra.
Cơ Đốc giáo đã khiến nhiều người cải đạo, nhưng sự cải đạo đó chưa thể gọi là tôn giáo. Cơ Đốc giáo cải đạo cho người nghèo, người đói, người ăn xin, trẻ mồ côi không phải bằng tác động tâm linh mà bằng cách cho họ thức ăn, quần áo, chỗ ở, giáo dục. Nhưng tất cả những điều đó không liên quan gì đến tâm linh. Hồi giáo cũng đã cải đạo cho vô số người, nhưng bằng thanh kiếm: hoặc phải theo đạo Hồi, hoặc phải chết. Quyết định là ở nơi bạn.
Việc cải đạo diễn ra tại Trung Quốc là một quá trình mang tính tôn giáo duy nhất trong toàn bộ lịch sử của nhân loại. Phật giáo chỉ giảng giải chính mình, và vẻ đẹp của thông điệp đó được dân chúng lĩnh hội. Họ đã khát khao có được nó, họ đã chờ đợi điều gì đó tương tự. Toàn thể dân chúng, tại một trong những quốc gia đông dân nhất thế giới, đã chuyển sang đạo Phật. Sáu trăm năm sau, khi Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc, đã có ba mươi ngàn ngôi đền, chùa thờ Phật, và hai triệu nhà sư Phật giáo tại đất nước này. Hai triệu nhà sư không phải là một trong số nhỏ, nó chiếm khoảng 5% tổng dân số Trung Quốc lúc bấy giờ.
Pragyatara đã bảo Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc bởi vì những người đến trước đó đã có ảnh hưởng to lớn mặc dù không ai trong số họ được giác ngộ. Họ là những học giả vĩ đại, những con người rất kỷ luật, rất ân cần, tĩnh tại và giàu lòng trắc ẩn, nhưng không ai trong số họ được giác ngộ. Và giờ Trung Quốc cần một vị Phật Thích Ca Mâu Ni khác. Nền móng đã được xây dựng sẵn rồi.
Bồ Đề Đạt Ma là người giác ngộ đầu tiên đặt chân đến Trung Quốc. Điều mà tôi muốn nói ở đây là dù Phật Thích Ca Mâu Ni e ngại thụ pháp điểm đạo cho nữ giới nhưng Bồ Đề Đạt Ma đã đủ can đảm để nhận điểm đạo từ một phụ nữ. Có nhiều người đã được giác ngộ nhưng ông ấy chọn một phụ nữ hẳn là có mục đích. Mục đích ấy là nhằm chứng tỏ rằng phụ nữ cũng có thể giác ngộ. Không chỉ vậy, các đồ đệ của người phụ nữ ấy cũng có thể được giác ngộ. Tên tuổi của Bồ Đề Đạt Ma tỏa sáng giữa tất cả những người đã được giác ngộ, chỉ xếp sau Phật Thích Ca Mâu Ni.
Có nhiều truyền thuyết về người đàn ông này. Tất cả đều chứa đựng một ý nghĩa nhất định. Truyền thuyết kể rằng khi Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Quốc, mất khoảng ba năm, Lương Vũ Đế đã đích thân ra đón. Danh tiếng của vị hoàng đế này đã được biết đến trước đó. Lương Vũ Đế đã có công lớn trong việc phổ biến triết lý của Phật Thích Ca Mâu Ni. Hàng ngàn học giả đã dịch kinh Phật từ tiếng Pali sang tiếng Trung Quốc, và Lương Vũ Đế chính là người bảo trợ cho toàn bộ công việc dịch thuật này. Ông đã xây dựng hàng ngàn ngôi chùa và chăm lo cho hàng ngàn tu sĩ. Ông đã hiến dâng cả vương quốc của mình để phụng sự Phật Thích Ca Mâu Ni; và lẽ đương nhiên, các nhà sư Phật giáo, những người đến đất nước này trước Bồ Đề Đạt Ma, đều nói với Lương Vũ Đế rằng bệ hạ đã thu được công đức lớn lao, rằng bệ hạ sẽ được làm thần tiên trên trời.
Lẽ tất nhiên, câu hỏi đầu tiên Vũ Đế hỏi Bồ Đề Đạt Ma là:
– Trẫm đã xây nhiều đền chùa, đã chăm lo cho hàng ngàn học giả, trẫm đã mở trường nghiên cứu về Phật Thích Ca Mâu Ni, trẫm đã hiến dâng cả vương quốc và toàn bộ của cải của mình để phụng sự Phật Thích Ca Mâu Ni. Vậy phần thưởng mà trẫm nhận được sẽ là gì?
Vũ Đế hơi bối rối khi nhìn thấy Bồ Đề Đạt Ma, không nghĩ rằng ông ấy lại trông như thế. Thật dữ tợn. Ông ấy có đôi mắt rất to, nhưng lại có một trái tim rất mềm mỏng, giống như đóa sen vậy. Song, khuôn mặt của Bồ Đề Đạt Ma khiến bạn cảm thấy bị đe dọa. Thêm cặp kính râm là ông ấy sẽ chẳng khác nào một tay mafia thứ thiệt!
Vũ Đế đã hỏi với một tâm trạng vô cùng lo sợ và Bồ Đề Đạt Ma đáp:
– Không phần thưởng, không gì cả. Ngược lại, hãy sẵn sàng để bị đày xuống bảy tầng địa ngục đi.
Vũ Đế nói:
– Nhưng trẫm đã làm gì sai, vì sao lại bị đày xuống bảy tầng địa ngục? Trẫm đã làm tất cả những điều mà các nhà sư chỉ bảo.
Bồ Đề Đạt Ma đáp:
– Trừ khi bệ hạ lắng nghe tiếng nói nội tâm của mình, bằng không chẳng ai có thể giúp được bệ hạ, dù là Đức Phật hay người thường. Bệ hạ chưa nghe được tiếng nói nội tâm của mình. Nếu nghe, hẳn bệ hạ đã không hỏi một câu hỏi ngu ngốc như vậy. Không có phần thưởng trên con đường của Phật Thích Ca Mâu Ni bởi vì niềm khao khát được đền đáp đó bắt nguồn từ một tâm trí tham lam. Toàn bộ lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni là vô sở cầu và nếu thực hiện tất cả những nghĩa cử được cho là cao đẹp này, xây đền chùa, chăm lo cho hàng ngàn tu sĩ, với một tâm trí sở cầu, bệ hạ đang đi về hướng địa ngục. Nếu bệ hạ làm điều này xuất phát từ niềm vui, chia sẻ niềm vui của mình với mọi người, và không mảy may nghĩ đến việc được đền đáp, hành động đó tự nó đã là phần thưởng. Bằng không, bệ hạ đã bỏ lỡ toàn bộ ý nghĩa của nó.
Vũ Đế nói:
– Tâm trí trẫm chất đầy suy nghĩ. Trẫm đã cố tìm sự bình yên cho tâm trí nhưng không thể nào làm được, và bởi vì những suy nghĩ này, tiếng ồn này nên trẫm không thể nghe được điều mà ngài gọi là tiếng nói nội tâm. Trẫm chẳng biết gì về nó.
Bồ Đề Đạt Ma đáp:
– Vậy thì sáng mai, lúc bốn giờ, hãy một mình đến gặp bần đạo ở ngôi đền trên núi. Bần đạo sẽ giúp tâm trí bệ hạ bình yên mãi mãi.
Vũ Đế nghĩ người đàn ông này thật kỳ lạ, và cả gan. Ông đã gặp gỡ nhiều tu sĩ, họ đều rất lịch sự, còn người này thậm chí chẳng bận tâm rằng ông là hoàng đế của một đất nước hùng mạnh. Lại còn bảo đến gặp ông ta vào bốn giờ sáng hôm sau, một mình, khi trời còn tối… Người này có vẻ nguy hiểm, trong khi ông lúc nào cũng có người hầu kẻ hạ, binh lính hộ tống.
Vũ Đế trằn trọc cả đêm: “Đi hay không đi? Bởi vì người kia có thể làm bất cứ điều gì. Ông ta tuyệt đối không đáng tin cậy”. Nhưng mặt khác, tận đáy lòng mình, nhà vua cảm nhận được sự chân thành của Bồ Đề Đạt Ma, rằng ông ta không phải là một kẻ đạo đức giả. Người đó chẳng bận tâm rằng bạn là hoàng đế trong khi bản thân chỉ là một gã ăn mày. Ông ta hành xử như vua, trong khi bạn lại giống như một kẻ ăn mày. Và cả cách ông ta nói: “Bần đạo sẽ giúp tâm trí bệ hạ bình yên mãi mãi”.
Vũ Đế nghĩ: “Thật lạ, bởi vì ta đã hỏi nhiều nhà thông thái đến từ Ấn Độ, và tất cả bọn họ đều chỉ cho ta các phương pháp, kỹ thuật để tập luyện, nhưng chẳng đem lại kết quả gì; còn người đàn ông lạ lùng này, người trông giống hệt gã say rượu, mất trí, người có khuôn mặt khác lạ với cặp mắt to đáng sợ… Nhưng trông người đó cũng chân thành, một hiện tượng kỳ lạ. Mà ông ấy có thể làm được gì chứ, cùng lắm là giết chết ta thôi”. Cuối cùng, Vũ Đế không cưỡng lại được sức cám dỗ từ lời hứa “Bần đạo sẽ giúp tâm trí bệ hạ bình yên mãi mãi”.
Lúc bốn giờ sáng, khi trời vẫn còn tối, Vũ Đế một mình đi đến chùa, và chỉ cách đó vài bước chân, Bồ Đề Đạt Ma đang đứng đợi ông cùng với một chiếc gậy: “Bần đạo biết bệ hạ sẽ tới, mặc dù cả đêm bệ hạ trằn trọc, phân vân không biết có nên đi hay không. Kiểu hoàng đế gì vậy – thật là hèn nhát, e sợ cả một khất sĩ, một gã ăn mày nghèo khó, một kẻ chẳng có gì ngoài chiếc gậy. Và với chiếc gậy này, bần đạo sẽ giúp tâm trí bệ hạ bình yên mãi mãi”.
Vũ Đế thầm nghĩ: “Trời ơi, ai đã từng nghe nói rằng một cây gậy có thể giúp tâm trí bình yên! Người ta có thể dùng nó để đập mạnh vào đầu anh ta, khi đó anh ta sẽ im lặng, không phải tâm trí. Nhưng giờ thì đã quá trễ”.
Rồi Bồ Đề Đạt Ma nói: “Hãy ngồi xuống đây, ngay ở sân chùa này”. Lúc đó không một bóng người. “Nhắm mắt lại, bần đạo sẽ ngồi phía trước bệ hạ cùng với cây gậy này. Việc bệ hạ cần làm là nắm bắt tâm trí. Chỉ cần nhắm mắt lại và đi vào bên trong tìm kiếm tâm trí, xem nó đang ở đâu. Ngay khi bệ hạ nắm giữ được tâm trí, hãy nói với bần đạo ‘Nó đây’. Và cây gậy này sẽ làm nốt phần việc còn lại”.
Quả là một trải nghiệm kỳ lạ đối với bất kỳ người nào tìm kiếm chân lý hay sự bình yên, nhưng lúc này, không còn lựa chọn nào khác. Vũ Đế ngồi đó, hai mắt nhắm nghiền, biết rõ Bồ Đề Đạt Ma sẽ làm đúng như những gì ông ta nói. Vũ Đế tìm kiếm xung quanh, không có tâm trí. Chiếc gậy đã phát huy tác dụng. Lần đầu tiên, Vũ Đế gặp phải một tình huống như vậy. Lựa chọn… nếu tìm thấy tâm trí, bạn sẽ không thể nào biết được người này sẽ làm gì với chiếc gậy của ông ta. Và tại nơi thanh sơn vắng lặng đó, với sự hiện diện của Bồ Đề Đạt Ma, người có tài thuyết phục, có sức thu hút rất riêng… Đã có nhiều người được giác ngộ, nhưng Bồ Đề Đạt Ma khác biệt, sừng sững như đỉnh Everest. Mỗi hành động của Bồ Đề Đạt Ma đều nguyên bản, độc nhất. Mỗi cử chỉ đều mang dấu ấn riêng, không vay mượn của ai khác.
Vũ Đế nỗ lực tìm kiếm tâm trí, và lần đầu tiên, ông không thể tìm thấy nó. Đó chính là bí quyết. Tâm trí chỉ tồn tại khi bạn không tìm kiếm nó; nó chỉ tồn tại khi bạn không nhận biết nó. Còn khi bạn tìm kiếm, nhận biết về nó, sự nhận biết ấy sẽ tiêu diệt nó hoàn toàn. Nhiều giờ trôi qua và mặt trời đã lên cao mang theo cơn gió nhẹ dịu mát. Bồ Đề Đạt Ma có thể nhìn thấy trên gương mặt của Vũ Đế sự bình yên, tĩnh lặng, tĩnh lặng như một pho tượng. Lay nhẹ Vũ Đế, Bồ Đề Đạt Ma nói:
– Nhiều giờ đã trôi qua. Bệ hạ tìm thấy tâm trí chưa?
Vũ Đế đáp:
– Không cần dùng đến gậy, ngài đã giúp tâm trí trẫm bình yên hoàn toàn. Trẫm không có tâm trí và trẫm đã nghe được tiếng nói nội tâm về những điều ngài nói. Giờ trẫm đã hiểu được rằng những gì ngài nói đều đúng. Ngài đã biến đổi trẫm mà không cần làm bất cứ điều gì. Giờ thì trẫm đã hiểu được rằng mỗi hành động đều có được phần thưởng từ chính nó, nếu không, đừng làm gì cả. Làm gì có ai trao cho mình phần thưởng? Đó là một ý nghĩ trẻ con. Ai ở đó để trừng phạt mình? Hành động của mình chính là hình phạt và hành động của mình cũng chính là phần thưởng. Bản thân chính là người làm chủ số phận.
Bồ Đề Đạt Ma đáp:
– Bệ hạ là một đồ đệ hiếm có. Ta yêu bệ hạ. Ta kính trọng bệ hạ, không phải với tư cách một vị hoàng đế mà là người có can đảm ngồi xuống để mang lại nhiều tỉnh thức, nhiều ánh sáng đến mức khiến toàn bộ đêm tối của tâm trí biến mất.
Vũ Đế tìm cách thuyết phục Bồ Đề Đạt Ma đến hoàng cung, nhưng Bồ Đề Đạt Ma nói:
– Đó không phải là chỗ của bần tăng; bệ hạ biết đó, bần tăng là người khó đoán. Bần tăng làm mọi thứ mà tự bản thân không hề biết trước. Bần tăng sống không gò bó, không đoán định. Bần tăng có thể gây rắc rối cho bệ hạ, cho cung điện, cho thần dân của bệ hạ; cung điện không dành cho bần tăng, hãy để bần tăng sống theo cách tự nhiên của mình.
Bồ Đề Đạt Ma sống trên một ngọn núi có tên là Tai… Câu chuyện thứ hai về Bồ Đề Đạt Ma là ông được xem như người đầu tiên tạo ra trà, tên gọi “trà” bắt nguồn từ tên của ngọn núi Tai bởi vì trà đã được tạo ra ở đó. Và mọi từ ngữ chỉ trà trong bất kỳ ngôn ngữ nào cũng đều có cùng nguồn gốc.
Cách tạo ra trà của Bồ Đề Đạt Ma không được lịch sử ghi lại nhưng là cách thức có ý nghĩa quan trọng. Ông ngồi thiền cả đêm, và đôi khi ông chìm vào giấc ngủ. Vậy nên để chống lại cơn buồn ngủ, chỉ là để dạy cho đôi mắt một bài học, ông đã nhổ sạch lông mày của mình và ném chúng xuống nền đất trong chùa. Chuyện kể rằng từ chỗ lông mày bị ném xuống mọc lên những bụi trà. Đó chính là những bụi trà đầu tiên. Điều đó giải thích cho lý do vì sao khi uống trà, bạn không thể ngủ được. Và trong thiền, uống trà trở thành một thói quen, trà vô cùng hữu ích. Cho nên các tu sĩ Phật giáo uống trà như là một phần của thiền bởi nó giúp họ tỉnh táo.
Mặc dù có đến hai triệu nhà sư tại Trung Quốc, nhưng Bồ Đề Đạt Ma chỉ tìm được bốn người xứng đáng để nhận làm đồ đệ. Ông quả là người vô cùng kén chọn. Ông mất gần chín năm để tìm thấy đồ đệ đầu tiên, Huệ Khả.
Trong chín năm, và đó là dữ liệu lịch sử, bởi vì các nguồn tham khảo xưa, gần như cùng thời với Bồ Đề Đạt Ma, đều nhắc đến chi tiết này mặc dù các chi tiết khác không được đề cập đến – trong suốt chín năm, sau khi tiễn Vũ Đế về cung, Bồ Đề Đạt Ma đã ngồi xuống, quay mặt vào bức tường của ngôi chùa. Ông biến lần đó thành một đợt thiền vĩ đại. Ông chỉ ngồi nhìn vào bức tường. Khi nhìn vào bức tường một thời gian dài, bạn không thể nghĩ ngợi. Dần dần, giống như bức tường, tấm màn tâm trí của bạn cũng trở nên trống rỗng.
Và còn có một nguyên nhân thứ hai. Bồ Đề Đạt Ma tuyên bố: “Chừng nào chưa có ai xứng đáng làm đồ đệ của ta, ta sẽ không nhìn vào ai”.
Mọi người đến ngồi phía sau lưng Bồ Đề Đạt Ma. Đó là một tình huống kỳ lạ. Chẳng ai trò chuyện theo cách như vậy; ông ấy sẽ nói với bức tường. Mọi người sẽ ngồi sau lưng Bồ Đề Đạt Ma ông ấy không quay mặt lại bởi “mọi người càng khiến ta đau lòng hơn vì họ cũng chỉ giống như bức tường. Không ai hiểu, và nhìn thấy con người trong trạng thái như vậy khiến ta hết sức đau lòng. Còn khi nhìn vào bức tường, không có câu hỏi nào, rốt cuộc đó cũng chỉ là một bức tường. Nó không thể nghe, do đó không cần phải đau lòng. Ta sẽ chỉ quay mặt lại nếu ai đó chứng tỏ được bằng hành động rằng anh ta sẵn sàng trở thành đồ đệ của ta”.
Chín năm trôi qua. Không ai biết nên làm gì, hành động nào sẽ khiến ngài ấy hài lòng. Họ không tìm ra câu trả lời. Bỗng Huệ Khả xuất hiện. Anh ta dùng kiếm chặt đứt một bàn tay, ném bàn tay đó trước mặt Bồ Đề Đạt Ma, rồi nói:
– Đây chỉ là bước đầu. Hoặc ngài quay mặt lại, hoặc đầu của tôi sẽ rơi trước mặt ngài. Tôi sắp chặt đầu của mình đây.
Bồ Đề Đạt Ma quay mặt lại nói:
– Ngươi quả là người xứng đáng. Không cần phải chặt đầu, chúng ta sẽ cần đến nó.
Chàng trai trẻ Huệ Khả này chính là đồ đệ đầu tiên của Bồ Đề Đạt Ma.
Khi sắp rời Trung Quốc, Bồ Đề Đạt Ma gọi bốn đồ đệ của mình lại – sau Huệ Khả, ông ấy đã thu nạp thêm ba đồ đệ nữa. Bồ Đề Đạt Ma hỏi:
– Hãy mô tả bản chất lời dạy của ta theo cách đơn giản, ngắn gọn nhất. Ta sẽ rời khỏi nơi đây vào sáng ngày mai để trở lại dãy núi Himalaya, và ta muốn chọn một trong các con làm người kế nhiệm.
Người thứ nhất nói:
– Lời dạy của thầy là thoát khỏi tâm trí, im lặng tuyệt đối, và rồi mọi thứ sẽ bắt đầu xảy ra theo cách riêng của nó.
Bồ Đề Đạt Ma đáp:
– Con nói không sai, nhưng chưa khiến ta hài lòng. Con chỉ có được phần da của ta.
Người thứ hai nói:
– Biết rằng ta không hiện hữu, sự hiện hữu duy nhất chính là lời dạy căn bản của người.
Bồ Đề Đạt Ma đáp:
– Khá hơn một chút, nhưng vẫn chưa đủ. Con có được phần xương của ta, hãy ngồi xuống.
Người thứ ba nói:
– Không thể nói gì về điều đó. Không từ ngữ nào có thể diễn tả được điều đó.
Bồ Đề Đạt Ma đáp:
– Tốt, nhưng con đã nói ra rồi. Con đã tự mâu thuẫn với chính mình. Hãy ngồi xuống, con có được phần tủy của ta.
Người thứ tư, và cũng là đồ đệ đầu tiên, Huệ Khả, chỉ quỳ dưới chân Bồ Đề Đạt Ma không nói lời nào, nước mắt lăn dài trên má. Bồ Đề Đạt Ma đáp:
- Con đã nói ra được điều đó. Con sẽ là người kế nhiệm của ta.
Nhưng đêm đó, một đồ đệ đã đầu độc Bồ Đề Đạt Ma để trả thù vì không được chọn làm người kế nhiệm. Bồ Đề Đạt Ma đã được chôn cất, nhưng điều kỳ lạ là ba năm sau, một quan phủ địa phương nhìn thấy ông ấy rời Trung Quốc hướng về phía dãy núi Himalaya, đi chân đất, tay cầm gậy với một chiếc giày treo trên gậy.
Vị quan phủ này biết Bồ Đề Đạt Ma, đã gặp mặt nhiều lần, đã yêu mến người này dù nghĩ rằng ông ta có hơi lập dị. Quan phủ hỏi:
– Chiếc gậy này có ý nghĩa gì, và cả chiếc giày treo trên đó nữa?
Bồ Đề Đạt Ma đáp:
– Ông sẽ sớm tìm được câu trả lời. Nếu gặp các đồ đệ của ta, hãy bảo với họ rằng ta sẽ đến dãy núi Himalaya, mãi mãi không trở lại.
Vị quan phủ tức tốc tìm đến ngọn núi nơi Bồ Đề Đạt Ma từng sống. Và ở đó, ông được biết rằng Bồ Đề Đạt Ma đã bị đầu độc, đã qua đời… còn có cả mộ phần nữa. Quan phủ nọ không hay biết gì về việc này bởi ông trấn giữ ở vùng biên giới. Ông nói: “Trời ơi, ta đã nhìn thấy Bồ Đề Đạt Ma, không thể nhầm lẫn được bởi vì ta đã từng thấy người ấy nhiều lần. Chính là người này, người có đôi mắt hung tợn, với tướng mạo khiến người khác khiếp sợ, và trên hết là mang theo cây gậy có treo một chiếc giày”.
Không khỏi hiếu kỳ, các đồ đệ đã mở nắp quan tài. Tất cả những gì họ tìm thấy bên trong là một chiếc giày. Và khi đó, quan phủ mới hiểu được vì sao Bồ Đề Đạt Ma nói: “Ông sẽ tìm thấy câu trả lời, sớm thôi, ông sẽ tìm thấy”.
Chúng ta đã nghe rất nhiều về sự tái sinh của Jesus. Nhưng không ai nói nhiều về sự tái sinh của Bồ Đề Đạt Ma. Có lẽ ông chỉ bị hôn mê khi được chôn cất, và sau đó tỉnh dậy, lẻn ra khỏi mộ, để lại đó một chiếc giày và treo chiếc còn lại lên gậy, rời khỏi nơi này theo đúng như dự định.
Bồ Đề Đạt Ma muốn được chết giữa lớp băng tuyết vĩnh cửu của dãy Himalaya. Ông ấy không muốn có lăng mộ, miếu mạo hay tượng đài của mình. Ông ấy không muốn để lại dấu chân nào cho mọi người tôn thờ; những ai yêu mến ông ấy cần phải bước vào bản thể của chính mình: “Ta không cần được tôn thờ”. Và ông ấy đã biến mất vào thinh không. Không ai biết gì về ông – điều gì đã xảy ra, ông đã viên tịch ở nơi nào. Hẳn là Bồ Đề Đạt Ma đã nằm lại đâu đó trong cõi vĩnh hằng của ngọn tuyết sơn Himalaya.