• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Tư duy tối ưu
  3. Trang 8

Chương 3Bốn nhu cầu và năng lực cơ bản của con người: Sống, yêu thương, học tập, để lại di sản

Không thể thay thế việc cần làm bằng cách làm việc khác nhiều hơn, nhanh hơn.

K

hi chúng ta chuyển từ tính khẩn cấp sang tầm quan trọng, chúng ta gặp phải một vấn đề cơ bản: “những điều quan trọng nhất” là gì, và làm cách nào chúng ta có thể dành ưu tiên trước hết cho nó trong cuộc sống?

Trọng tâm của thế hệ quản trị thời gian thứ tư bao gồm ba ý tưởng cơ bản giúp chúng ta trả lời câu hỏi trên. Đó là:

1. Thỏa mãn bốn nhu cầu và năng lực cơ bản của con người

2. H i ệ n thực của các nguyên tắc “chính Bắc”

3. Bốn tiềm năng thiên phú của con người

a

1. Thỏa mãn bốn nhu cầu và năng lực cơ bản của con người

Con người có một số nhu cầu cơ bản cần được thỏa mãn. Nếu những nhu cầu cơ bản này không được đáp ứng, chúng ta sẽ cảm thấy trống trải, không hoàn thiện. Chúng ta có thể cố gắng lấp chỗ trống nhờ thói quen chạy theo sự việc khẩn cấp. Hoặc chúng ta trở nên tự mãn, tạm thời thỏa mãn một phần nào đó.

Nhưng dù có nhận thức hay nói đến các nhu cầu này hay không, thì từ nơi sâu kín trong lòng, chúng ta biết rằng mình có những nhu cầu đó. Và chúng có ý nghĩa quan trọng. Chúng ta có thể kiểm chứng điều đó qua sự trải nghiệm của bản thân, hay của người khác. Chúng ta cũng có thể kiểm chứng điều đó qua kinh nghiệm ở khắp nơi trên thế giới và trong suốt chiều dài lịch sử. Những nhu cầu này đã được các tác phẩm khai trí(1) công nhận như những phần thiết yếu của sự thỏa mãn của con người.

(1) “Tác phẩm khai trí” (Wisdom Literature) là một bộ phận các tác phẩm cổ điển, có tính triết lý, và truyền cảm hứng thông qua những đề tài về nghệ thuật sống.

a

Cốt lõi của các nhu cầu này được tóm gọn trong cụm từ “sống, yêu thương, học tập, để lại di sản”. Nhu cầu sống là nhu cầu về vật chất của chúng ta, như ăn, mặc, chỗ ở, sự an toàn tài chính, sức khỏe. Nhu cầu yêu thương là nhu cầu về xã hội của chúng ta, như có mối quan hệ với những người khác, để được phụ thuộc, để yêu thương và được yêu thương. Nhu cầu học tập là nhu cầu về trí tuệ, để chúng ta phát triển và trưởng thành. Cuối cùng, nhu cầu để lại di sản là nhu cầu về tinh thần, để chúng ta có cảm giác mình sống có ý nghĩa, có mục đích, có giá trị và có đóng góp cho cộng đồng.

Những nhu cầu này có ảnh hưởng lớn đến đâu đối với việc sử dụng thời gian và chất lượng cuộc sống của chúng ta? Những câu hỏi dưới đây sẽ giúp bạn nhận diện:

• Có phải lúc nào bạn cũng thấy sung sức và khỏe khoắn trong suốt cả ngày – hoặc, có phải có những điều bạn muốn làm nhưng không làm được vì bạn cảm thấy mệt mỏi, ốm đau, hay xuống sức?

• Tình hình tài chính của bạn có an toàn hay không? Bạn có khả năng đáp ứng các nhu cầu của mình và có nguồn lực để dành cho tương lai – hay bạn đang mắc nợ, phải làm việc nhiều, và làm không đủ ăn?

• Bạn có quan hệ tốt, đáng hài lòng với những người khác không? Bạn có thể làm việc với người khác có hiệu quả vì mục đích chung – hay bạn cảm thấy bị cô lập và đơn độc, không thể dành thời gian chất lượng cho những người thân, hay đang gặp khó khăn khi làm việc với người khác do sự hiểu nhầm, truyền đạt sai, do dùng thủ đoạn để tranh thủ, nói xấu sau lưng, hay do đổ lỗi và vu cáo lẫn nhau?

• Bạn có thường xuyên học tập, rèn luyện, đạt được những tầm nhìn mới, những kỹ năng mới – hay bạn cảm thấy trì trệ? Bạn có bị tụt hậu về nghề nghiệp hoặc không làm được những việc muốn làm vì chưa được đào tạo hay thiếu năng lực?

• Bạn có nhận thấy rõ ràng phương hướng và mục đích sống, là những điều gây cảm hứng và tạo sức mạnh cho bạn – hay bạn cảm thấy mơ hồ về những điều quan trọng nhất và không rõ bạn thực sự muốn làm điều gì cho cuộc đời mình?

Tất cả các nhu cầu nói trên đều rất quan trọng. Và khi bất cứ một nhu cầu nào trong số các nhu cầu này không được đáp ứng thì chất lượng cuộc sống của bạn sẽ bị giảm đi. Nếu bạn lâm vào cảnh nợ nần hay ốm đau; nếu bạn thiếu ăn, thiếu mặc, và không nhà ở; nếu bạn cảm thấy bị xa lánh và cô đơn; nếu bạn bị trì trệ về trí tuệ, nếu bạn không có ý thức về mục đích sống và tính chính trực, thì chất lượng cuộc sống của bạn chắc chắn bị sa sút. Ngược lại, sức khỏe cường tráng, sự an toàn về tài chính, các mối quan hệ tốt đẹp, sự tiến bộ không ngừng của bản thân về nghề nghiệp, và một cảm nhận sâu sắc về mục đích sống, sự cống hiến và giá trị của bản thân, sẽ là những nhân tố tạo ra chất lượng cao cho cuộc sống của bạn.

Nếu bất cứ một nhu cầu nào nói trên không được đáp ứng, nó đều có thể biến thành một cái hố đen nuốt chửng năng lượng và sự chú ý của bạn. Nếu bạn gặp khó khăn về tài chính, hay bạn đang phải trải qua một chấn thương tâm lý sâu sắc như ly dị, hay sức khỏe suy sụp, thì nhu cầu mà bạn đang thiếu thốn đó có thể biến thành một yếu tố khẩn cấp, luôn chi phối, thúc bách bạn. Các nhu cầu khác sẽ bị bỏ qua, và chất lượng cuộc sống của bạn bị tổn thương về mọi phương diện.

Khi bất cứ một nhu cầu nào nói trên không được đáp ứng, đều có thể gây cho bạn thói quen chạy theo tính khẩn cấp. Và khi đó, bạn có xu hướng trở thành một “chuyên gia” xử lý khủng hoảng. Bạn sẽ luôn ưu tiên cho việc xử lý khủng hoảng, làm tốt những việc có tính khẩn cấp và tự nhủ rằng: “Nếu tôi bận rộn, tôi phải làm việc có hiệu suất”. Có thể bạn được sự trợ giúp đắc lực của các hormone kích thích - sản phẩm có được từ các hoạt động chữa cháy và đáp ứng các đòi hỏi cấp bách của người khác. Nhưng các hoạt động này không đem lại một cuộc sống có chất lượng. Chúng không đáp ứng được các nhu cầu cơ bản. Càng cố làm nhiều việc khẩn cấp bao nhiêu, chúng ta càng nuôi dưỡng thói quen khẩn cấp nhiều hơn bấy nhiêu. Chúng ta tiếp tục dùng liệu pháp khẩn cấp ở mức độ “cao” giả tạo để thay cho việc đáp ứng mỹ mãn các nhu cầu cơ bản của chúng ta.

a

Sự cân bằng và hiệp lực giữa bốn nhu cầu cơ bản

Những nhu cầu này là có thực, có sự tương tác cao và sâu sắc. Nhiều người thừa nhận chúng ta có những nhu cầu này, nhưng thường xem nó như những “bộ phận” riêng biệt của cuộc sống. Chúng ta nghĩ đến “sự cân bằng” giống như việc chạy nhanh từ chỗ này đến chỗ khác sao cho có đủ thời gian để dành cho mỗi nơi một ít một cách đều đặn.

Nhưng mô thức “tiếp xúc riêng lẻ” này bỏ qua thực tế về tính chất hiệp lực giữa chúng. Chính tại chỗ giao nhau của bốn nhu cầu là nơi chúng ta tìm thấy sự cân bằng nội tâm đích thực, sự thỏa mãn sâu sắc và niềm vui.

Chúng ta hãy xem xét sự khác biệt giữa chúng. Nếu chúng ta hoạt động xuất phát từ mô thức “tiếp xúc riêng lẻ”, chúng ta có thể coi nhu cầu vật chất của việc kiếm sống tách biệt với nhu cầu tinh thần là đóng góp cho xã hội. Công việc chúng ta chọn để làm có thể sẽ trở nên đơn điệu, tẻ nhạt, và không làm chúng ta thỏa mãn. Nó thậm chí còn đi ngược lại lợi ích chung của xã hội.

Nếu chúng ta coi nhu cầu học tập và rèn luyện trí tuệ tách biệt khỏi nhu cầu xã hội về sự yêu thương và được yêu thương, chúng ta có thể sẽ không học tập để biết yêu thương người khác một cách thực sự, sâu sắc. Trong khi chúng ta nâng cao trình độ học vấn của mình, chúng ta có thể làm giảm khả năng quan hệ một cách có ý nghĩa với những người khác.

Nếu chúng ta coi nhu cầu vật chất tách rời khỏi tất cả các nhu cầu còn lại, chúng ta có thể không nhận thức đầy đủ vì sao tình trạng sức khỏe của chúng ta lại có ảnh hưởng đến chất lượng của các mặt khác trong cuộc sống. Mỗi khi cảm thấy không khỏe mạnh, chúng ta sẽ thấy khó khăn hơn để có được suy nghĩ sáng suốt, để có quan hệ tốt với người khác, để tập trung sức lực cho việc cống hiến thay vì chỉ để sống qua ngày.

Nếu chúng ta coi nhu cầu về tinh thần tách biệt khỏi các nhu cầu khác, chúng ta có thể không nhận thấy rằng điều chúng ta tin tưởng về bản thân và mục đích sống có tác động lớn đến cách chúng ta sống, yêu thương, và điều chúng ta học tập. Việc tách biệt hay thậm chí bỏ qua yếu tố tinh thần sẽ có ảnh hưởng lớn đến tất cả các mặt khác của cuộc sống. Chính ý nghĩa và mục đích của cuộc sống là cái tạo ra nền tảng cho sự mãn nguyện đối với tất cả các mặt khác.

Chỉ khi nào chúng ta nhận thấy mối liên hệ tương hỗ và sức mạnh hiệp lực của cả bốn nhu cầu này, chúng ta mới có khả năng đạt được mục đích, tạo ra được sự cân bằng nội tâm thực sự, sự mãn nguyện sâu sắc và niềm vui sướng. Công việc có ý nghĩa, các mối quan hệ có chiều sâu và lớn mạnh, sức khỏe trở thành nguồn lực để thực hiện các mục đích cao quý.

Nhờ nhận thức được mối liên hệ tương hỗ giữa các nhu cầu này, chúng ta nhận ra rằng chìa khóa để đáp ứng một nhu cầu chưa được thỏa mãn chính là sự chú ý đến, chứ không phải bỏ qua các nhu cầu khác.

Đây là một trong những ưu điểm của sự lãnh đạo cá nhân. Trong khi sự quản lý hướng về giải quyết vấn đề, thì sự lãnh đạo hướng về tìm kiếm cơ hội. Thay vì nhìn một vấn đề như một sự việc riêng biệt và mang tính cơ học – một chi tiết hỏng hóc cần được sửa chữa – nó coi đây là một bộ phận của cái tổng thể đang cùng tồn tại, và cùng nhau hiệp lực. Nó sẽ nhìn vào những gì nằm xung quanh vấn đề, những gì có liên quan, có ảnh hưởng đến vấn đề đó, bên cạnh chính bản thân vấn đề.

Chẳng hạn, nếu bạn có vấn đề liên quan đến vật chất – như bạn nợ nần hay gặp khủng hoảng về tài chính – thay vì bỏ qua các nhu cầu về xã hội, trí tuệ, hay tinh thần của mình, bạn có thể tìm kiếm sự giúp đỡ hay lời khuyên của người khác, tăng cường kiến thức của bạn về quản lý tài chính và những hiểu biết về các giải pháp xử lý vấn đề, và xác định một lý do cho việc thoát khỏi nợ nần mà nó sẽ đem lại ý nghĩa, nội dung và mục đích cho bất kỳ con đường nào bạn chọn. Nhờ quan tâm đến những mặt khác của cuộc sống có quan hệ với nhu cầu vật chất, bạn sẽ có thêm sức mạnh để giải quyết nhu cầu về vật chất một cách có hiệu quả nhất.

Nếu bạn có vấn đề quan hệ xã hội – chẳng hạn đang ly dị – thì việc quan tâm đến các mặt khác của cuộc sống như vật chất, trí tuệ, tinh thần sẽ làm tăng khả năng xử lý vấn đề của bạn. Nhờ rèn luyện thân thể và quan tâm đến sức khỏe, nghiên cứu và nâng cao hiểu biết về bản chất các mối quan hệ, và tăng cường nhận thức về mục đích và ý nghĩa cuộc sống, bạn sẽ có điều kiện tăng thêm sức mạnh của mình để đối mặt với vấn đề ly hôn một cách tốt nhất.

Ngọn lửa bên trong

Làm thỏa mãn cả bốn nhu cầu một cách đồng bộ cũng giống như sự kết hợp các nguyên tố trong hóa học. Khi chúng ta đạt đến “khối lượng tới hạn” của sự hợp nhất, chúng ta sẽ chứng kiến một sự bùng nổ tự phát – sự bùng nổ do sự hiệp lực nội tại châm ngòi cho ngọn lửa bên trong và đem đến một tầm nhìn, sự đam mê, và một tinh thần mạo hiểm cho cuộc sống.

Chìa khóa cho ngọn lửa bên trong chính là nhu cầu tinh thần của chúng ta muốn để lại một di sản. Nó biến các nhu cầu khác thành các năng lực để cống hiến. Thức ăn, tiền bạc, sức khỏe, trình độ học vấn, tình yêu trở thành nguồn lực để vươn ra và giúp thỏa mãn các nhu cầu chưa được đáp ứng của những người khác.

Hãy thử nghĩ về những tác động đến cách chúng ta sử dụng thời gian và chất lượng cuộc sống khi chúng ta có thể thỏa mãn được các nhu cầu của mình và biến chúng thành các năng lực để cống hiến. Abraham Maslow, một trong những cha đẻ của ngành tâm lý học hiện đại, đã xây dựng lý thuyết “thang bậc nhu cầu” (“needs hierarchy”) – còn gọi là “Tháp nhu cầu Maslow” – trong đó ông xác định nhu cầu “tự thể hiện bản thân” (“self-actualization”) là nhu cầu cao nhất của con người. Nhưng trong những năm cuối đời của mình, ông đã điều chỉnh lại lý thuyết trước đó và thừa nhận rằng nhu cầu cao nhất của con người không phải là “tự thể hiện” mà là “vượt trên bản ngã” (“self- transcendence”), hay sống vì một mục đích cao hơn bản ngã.

Theo lời của George Bernard Shaw:

Thật là niềm vui sướng thực sự khi đời ta được sử dụng cho một mục đích cao cả do chính ta đeo đuổi... được làm một nguồn lực của Tự nhiên thay vì làm một kẻ ích kỷ nhỏ nhen đầy bệnh hoạn và nỗi bất mãn luôn kêu ca rằng cái thế giới này không chịu hy sinh để làm cho ta hạnh phúc... Tôi cho rằng cuộc sống của tôi thuộc về toàn thể cộng đồng và chừng nào tôi còn sống thì tôi còn cảm thấy vinh dự được làm bất cứ điều gì có thể làm cho nó. Tôi muốn cuộc đời tôi đã được sử dụng trọn vẹn khi tôi chết. Vì càng làm được nhiều bao nhiêu tôi càng sống được bấy nhiêu. Tôi yêu cuộc sống chính vì cuộc sống. Đối với tôi cuộc sống không phải là cây nến ngắn ngủi. Nó là ngọn đuốc tuyệt vời mà tôi suốt đời giương cao và muốn cho nó càng bừng sáng càng tốt trước khi tôi chuyển giao lại cho các thế hệ tương lai.

Roger: Tại một lớp học gần đây về chương trình Lấy Nguyên tắc Lãnh đạo làm trung tâm, một học viên đến gặp tôi và muốn chia sẻ tâm sự. Chúng tôi kéo nhau ra thềm nhà nhìn cảnh đẹp của cái hồ và sân golf để ngồi tâm sự.

Nhìn mặt ông ấy, tôi không thể đoán được ông đang có tâm sự gì. Ông có vẻ uy nghi của một người thành đạt ở tuổi 50, làm phó chủ tịch của một công ty lớn, có một gia đình yên ấm. Ông còn là học viên tích cực của chương trình, có vẻ nắm được nội dung bài giảng rất nhanh.

“Tôi cảm thấy ngày càng khó chịu khi bước sang tuần này”, ông ấy thốt lên.“Sự việc bắt đầu từ bài thực hành tối hôm thứ hai vừa rồi...”

Ông chuyển sang kể cho tôi nghe về quá trình trước đây của mình. Ông lớn lên tại một thành phố nhỏ miền Trung Tây, là một học sinh giỏi và tích cực tham gia thể thao, văn nghệ. Sau đó, vào đại học, ông vẫn tích cực tham gia các câu lạc bộ và các chương trình ngoại khóa. Rồi đến việc làm đầu tiên, lấy vợ, có con đầu lòng, đi nước ngoài, được thăng chức, có nhà mới, có thêm đứa con, được lên chức phó chủ tịch công ty.

Khi nghe ông ấy kể, tôi cứ băn khoăn không rõ vấn đề của ông là gì – phải chăng có một nỗi bất hạnh bi đát nào đó đã làm cái thế giới tuyệt vời của ông bị sụp đổ?

Cuối cùng thì ông nói: “Vấn đề là ở chỗ cuộc đời tôi có đầy đủ mọi thứ - nào là nhà lầu, xe hơi, một công việc tốt, một cuộc sống bận rộn. Nhưng trong bài giảng, khi các anh yêu cầu chúng tôi suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống của mình, để biết được đâu là điều quan trọng nhất, thì nó khiến tôi sững sờ.

Phần lớn thời gian của cuộc đời – khi còn là thiếu niên, sinh viên, thanh niên trưởng thành – tôi đã bị cuốn hút bởi một lý tưởng nào đó. Tôi muốn tạo ra cái gì đó khác biệt trong thế giới, muốn có cống hiến có ý nghĩa.

Khi tôi bắt đầu suy nghĩ đâu là điều thực sự quan trọng nhất đối với đời mình, tôi đột nhiên nhận ra rằng trong những năm qua, cái cảm nghĩ, cái ý thức về mục đích đó, không hiểu sao đã mất đi. Tôi bị ru ngủ trong một ý thức về sự an toàn. Tôi đã không tạo ra sự khác biệt. Tôi đã không dạy dỗ con cái tạo ra sự khác biệt. Về cơ bản, tôi chỉ ngồi nhìn cuộc sống trôi đi qua hàng rào của các câu lạc bộ giải trí của mình.”

Tôi chăm chú nhìn thái độ của ông bởi nó đã hoàn toàn thay đổi.

“Nhưng tôi đã có một quyết định”, ông nói tiếp. “Tôi đã quyết định lập lại mối liên hệ với một tổ chức từ thiện mà tôi đã từng làm việc với họ. Tổ chức này đã làm những việc đáng khâm phục giúp đỡ những người nghèo thuộc thế giới thứ ba. Tôi muốn góp phần vào đó.”

Có một tia sáng trong đôi mắt ông, một nhận thức về mục đích sống trong lời nói của ông. Ông ấy đã được tiếp năng lượng. Không khó để nhận ra rằng chất lượng cuộc sống trong những năm còn lại của ông trước khi nghỉ hưu và cuộc sống sau đó – cũng như chất lượng cuộc sống của nhiều người khác trên thế giới – có thể sẽ được nâng cao nhờ di sản mà ông sẽ để lại.

Dù chúng ta đề cao giá trị nào đi nữa, thì thực tế mỗi lĩnh vực nhu cầu cần thỏa mãn của con người cũng đều quan trọng đối với chất lượng cuộc sống. Liệu bạn có thể nghĩ ra một trường hợp nào ngoại lệ - có ai đó không hề có nhu cầu về vật chất, xã hội, trí tuệ, tinh thần và các năng lực? Liệu bạn có thể nghĩ ra một vấn đề quản trị thời gian nào mà không có liên quan đến cái gốc rễ là làm thỏa mãn một trong những nhu cầu cơ bản này?

2. Thực tại của các nguyên tắc “chính Bắc”

Thỏa mãn các nhu cầu là điều “quan trọng”, nhưng cách chúng ta thỏa mãn các nhu cầu cũng quan trọng không kém. Khả năng chúng ta tạo ra chất lượng cuộc sống là một hàm số của mức độ liên kết của cuộc sống chúng ta với các hiện thực khách quan khi chúng ta cố gắng thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người.

Liệu bạn có thể nhắm mắt và chỉ ra được đâu là hướng Bắc? Khi chúng tôi yêu cầu các học viên làm điều này trong cuộc hội thảo, thì mọi người đều ngạc nhiên khi mở mắt ra thấy mỗi người chỉ về một hướng. Nếu bạn ở nhà, bạn có thể chỉ hướng Bắc dễ hơn vì bạn đã được định hướng và quen thuộc địa hình. Nhưng nếu bạn ở xa nhà, không có các cột mốc quen thuộc, thì làm điều này chắc là không dễ.

Đối với chúng ta, việc biết đâu là “chính Bắc” có quan trọng không? Hầu hết chúng ta sẽ trả lời là có. Nếu chúng ta bay lệch một độ so với đường bay xuất phát từ San Francisco, thì chúng ta sẽ bay đến Moscow thay vì Jerusalem.

“Hướng Bắc” là gì? Có phải đây chỉ là vấn đề ý kiến cá nhân? Có phải đây là vấn đề chúng ta cần lấy ý kiến bằng bỏ phiếu? Có phải đây là đối tượng của quá trình dân chủ? Không, vì “hướng Bắc” là một thưc tại không phụ thuộc vào chúng ta.

Thực tại “chính Bắc” cho chúng ta bối cảnh và ý nghĩa về nơi chúng ta đang ở, nơi chúng ta muốn đi tới, và làm cách nào để đi đến đó. Không có la bàn, hay các vì sao hay sự hiểu biết chính xác vị trí của chúng ta, chúng ta sẽ gặp khó khăn để định vị đâu là hướng Bắc, nhưng nó vẫn luôn luôn nằm ở đó.

Trong lĩnh vực xã hội, điều cũng hiện thực chẳng khác gì “chính Bắc” trong thế giới vật lý là quy luật nguyên nhân-kết quả, một quy luật vốn chi phối thế giới của sự thành đạt cá nhân cũng như sự tương tác giữa con người với nhau. Trí tuệ của loài người trong nhiều thời đại đã khám phá ra nguyên lý này và nó được nhắc đi nhắc lại như những đề tài ý nghĩa cơ bản đối với mọi vĩ nhân và xã hội. Với nhận thức đó, chúng tôi muốn đi vào khảo sát “chính Bắc” thuộc phạm trù con người và xem xét bằng cách nào chúng ta có thể tạo ra một cái la bàn nội tâm để giúp chúng ta liên kết cuộc sống của chúng ta với nó.

Những gì không phải là nguyên tắc

Khi chúng ta nói về các nguyên tắc, điều quan trọng là cần biết cái gì không thuộc phạm trù này, cũng như cần biết chúng ta là ai.

Ở đây, chúng ta không nói về các giá trị. Nhiều người trong chúng ta cứ nghĩ rằng chỉ cần chúng ta coi trọng điều gì đó, thì khi đạt được điều đó chất lượng cuộc sống của chúng ta sẽ được nâng cao. Có người nghĩ rằng: “Tôi sẽ hạnh phúc và mãn ngưyện khi tôi có nhiều tiền... khi tài năng của tôi được thừa nhận... khi tôi tậu được ngôi nhà đắt tiền và chiếc xe hơi mới... khi tôi tốt nghiệp với tấm bằng đại học...”.

Nhưng việc tập trung vào các giá trị là một trong những ảo tưởng chủ yếu của phương pháp tiếp cận quản trị thời gian truyền thống. Đó mới chỉ là nội dung mà chưa có bối cảnh. Nó giúp chúng ta có viễn cảnh về sự thành đạt, xác định mục tiêu, leo những nấc thang mà không hiểu rõ những nỗ lực này phải dựa vào các thực tại “chính Bắc” nào để có hiệu quả. Thực ra nó cho rằng “‘những điều quan trọng nhất’ là những ưu tiên của bạn. Bạn quyết định cái gì là quan trọng và cứ thế theo đuổi nó một cách có hiệu quả”. Điều này có thể dẫn đến sự ngạo mạn – nghĩ rằng quy luật là do chúng ta đặt ra, và coi người khác như những “sự vật” vô tri vô giác hay nguồn lực giúp chúng ta đạt được mục đích mà mình mong muốn.

Các giá trị sẽ không đem đến kết quả một cuộc sống có chất lượng... nếu chúng ta không coi trọng các nguyên tắc. Một nội dung quan trọng của thế hệ quản trị thứ tư là sự khiêm tốn thừa nhận rằng có những “điều quan trọng nhất” không phụ thuộc vào các giá trị của chúng ta. Chất lượng cuộc sống chính là vấn đề mức độ mà chúng ta có thể làm cho “những điều quan trọng nhất” này thành “những điều quan trọng nhất” của chúng ta và chúng ta trở nên có sức mạnh để thực sự ưu tiên cho chúng trong cuộc sống của mình. Nó cũng là sự khiêm tốn thừa nhận rằng chất lượng cuộc sống không phải thuộc về “cái tôi”, mà là “chúng ta” - rằng chúng ta sống trong một thực tại tương thuộc phong phú và đầy tiềm năng, theo đó chất lượng cuộc sống chỉ có thể được thực hiện khi chúng ta tương tác với người khác với tinh thần thực sự đồng tâm hiệp lực.

Mọi thiện ý và thậm chí mọi sự nghiệp trên đời, nếu không dựa trên cơ sở những nguyên tắc đúng đắn, sẽ không thể nào tạo ra được kết quả một cuộc sống có chất lượng. Chỉ ước mơ thì chưa đủ. Chỉ có cố gắng là chưa đủ. Chỉ có mục tiêu hay leo những nấc thang là chưa đủ. Chỉ biết coi trọng các giá trị là chưa đủ. Nỗ lực cần phải dựa trên những cơ sở thực tế mà kết quả được tạo ra. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể có ước mơ, đặt ra mục tiêu, và hành động để đạt được nó trong niềm tin vững chắc.

Chúng ta không nói về các cách thực hành. Khi gặp phải vấn đề phức tạp, chúng ta thường đi tìm kiếm sự an toàn trong các cách thực hành - những cách làm cụ thể, đã được vạch sẵn. Chúng ta tập trung vào phương pháp tiến hành thay vì kết quả. “Hãy nói cho tôi biết cần làm gì. Chỉ cho tôi các bước đi.” Chúng ta có thể thu được kết quả tích cực với một cách thực hành cụ thể trong một hoàn cảnh cụ thể, nhưng nếu cứ tiếp tục dùng cách thực hành đó trong một hoàn cảnh khác, chúng ta sẽ không đạt được kết quả. Và khi gặp phải tình huống chưa có sẵn cách thực hành, chúng ta thường cảm thấy như bị mất phương hướng và bất lực.

Arnold Toynbee, nhà sử học vĩ đại, từng nói rằng mọi lịch sử đều có thể được viết theo một công thức đơn giản ngắn gọn là: “thách thức và phản ứng”. Thách thức được tạo ra bởi môi trường, và sau đó là các phản ứng của cá nhân, tổ chức và xã hội. Sau đó lại có thách thức khác, rồi phản ứng khác. Cứ thế mà công thức này được lặp đi lặp lại.

Vấn đề là ở chỗ những phản ứng này dần dần được hệ thống hóa thành các nguyên tắc. Chúng được xác lập vững chắc. Chúng trở thành một bộ phận trong cách suy nghĩ và hành động của chúng ta. Có thể chúng là những quy trình, cách thực hành tốt. Nhưng khi chúng ta gặp phải những thách thức mới thì những cách thực hành cũ không còn hữu hiệu nữa. Chúng trở nên lỗi thời, còn chúng ta như bị lạc vào khu rừng hoang và cố tìm lối ra nhờ vào một chiếc bản đồ.

Do sống trong xã hội bị phân khúc, mang tính cơ học, như kính vạn hoa luôn thay đổi, nên chúng ta thường dựa vào các cách làm, các cấu trúc và hệ thống có sẵn để tạo cảm giác về khả năng có thể dự đoán trước trong cuộc sống của chúng ta. Và, dần dần các thách thức làm xói mòn các cách làm này. Đó là sự cáo chung của những con người và những tổ chức – thậm chí là những gia đình, nơi các bậc cha mẹ không thể thích ứng với những thực tế là những thách thức mà con cái họ đang phải đối mặt trở nên khác hẳn với thách thức mà họ gặp phải khi còn trẻ.

Sức mạnh của nguyên tắc là ở chỗ chúng là những chân lý phổ quát, muôn thuở. Nếu chúng ta hiểu rõ và sống theo các nguyên tắc, chúng ta sẽ nhanh chóng thích nghi; áp dụng chúng ở mọi nơi. Bằng cách dạy con cái các nguyên tắc thay vì các cách làm, hay dạy các nguyên tắc đằng sau các cách làm, chúng ta sẽ chuẩn bị cho chúng tốt hơn để đương đầu với những thách thức chưa được biết đến trong tương lai. Biết cách áp dụng thì có thể đối phó được với thách thức vào lúc này, nhưng hiểu rõ nguyên tắc thì ta không những đối phó được với thách thức đó một cách hiệu quả ở hiện tại mà còn có sức mạnh để đối phó với nhiều thách thức khác trong tương lai.

Chúng ta cũng không nói về “tôn giáo”. Vì rằng trong khi các nguyên tắc nói về ý nghĩa và chân lý, có người lại gắn điều chúng ta đang nói về các nguyên tắc với sự trải nghiệm tích cực hay tiêu cực của họ với tổ chức tôn giáo hay thần học. Khi đi giảng dạy ở khắp nơi trên thế giới, chúng tôi được nhiều người bày tỏ sự cảm kích vì chúng tôi đã “làm sống lại đức tin Thiên Chúa giáo” hay “nhắc nhở chúng tôi về những lời dạy của Đức Phật”, hay cho họ những thông điệp “rất gần gũi với triết học Ấn Độ”. Mặt khác, có một vài người lại tìm cách bắt bẻ khi nghe điều chúng tôi giảng vì họ cảm thấy “có mùi tôn giáo”, và theo họ, bản thân từ ngữ “tôn giáo” đã có ngụ ý những điều không nhất thiết là tích cực. Ở một thái cực khác, lại có người băn khoăn phải chăng điều chúng tôi giảng giải về việc dựa vào nguyên tắc có mang tính nhân văn hay không và hình như nó gạt hẳn Thượng đế ra ngoài.

Điều chúng tôi muốn bàn đến không phải là tôn giáo. Chúng tôi không đề cập đến các vấn đề như sự cứu rỗi linh hồn, cuộc sống sau khi chết, hay nguồn gốc của các nguyên tắc này. Chúng tôi hiểu đó là những vấn đề quan trọng đối với từng người, nhưng đó là những nội dung không thuộc phạm vi cuốn sách này. Chúng ta không bàn đến lý do vì sao “chính Bắc” tồn tại, nó từ đâu đến, hay bằng cách nào nó trở nên như vậy. Chúng ta chỉ đơn thuần đề cập đến một sự thực là nó tồn tại và nó chi phối chất lượng cuộc sống của chúng ta. Và trong khi chúng ta tìm thấy dấu tích của các nguyên tắc này trong các sách giáo lý linh thiêng của mọi tôn giáo, thì những khía cạnh của chúng cũng xuất hiện khắp nơi - trong những bộ óc, ngòi bút và lời nói của những triết gia, nhà khoa học, vua chúa, nông dân và các vị thánh trên khắp thế giới - trong suốt lịch sử.

Những nguyên tắc này đôi khi được gọi bằng các tên khác nhau khi chúng được chuyển qua các hệ thống giá trị khác nhau. Như Emerson đã nói về nguyên tắc đạo đức, “là tất cả những gì cùng xuất phát từ một tinh thần giống như vậy, dù được gọi bằng những cái tên khác nhau như tình yêu, công lý, đức độ, tùy thuộc vào hoàn cảnh áp dụng của nó, cũng giống như đại dương mang những cái tên khác nhau trên những bãi biển khác nhau mà nó vỗ sóng”. Những nguyên tắc cơ bản luôn tồn tại và được thừa nhận – đôi khi bằng những cái tên khác nhau – trong tất cả nền văn minh của nhân loại xuyên suốt lịch sử.

Do vậy chúng ta không bàn về các giá trị, các cách thực hành, hay tôn giáo. Điều chúng ta muốn nói đến là những chân lý luôn tồn tại (“chính Bắc”), cơ sở của một cuộc sống có chất lượng. Các nguyên tắc này đề cập đến những điều mà cuối cùng sẽ đưa đến hạnh phúc và các kết quả của một cuộc sống có chất lượng. Chúng bao gồm các nguyên tắc như là việc phụng sự và có đi có lại. Chúng đề cập đến các quá trình tăng trưởng và thay đổi. Chúng bao gồm các quy luật chi phối sự thỏa mãn hữu hiệu các nhu cầu và năng lực của con người.

Trong các chương tiếp theo chúng tôi sẽ đưa ra một số nguyên tắc thiết yếu để xây dựng một cuộc sống có chất lượng.

Nguyên tắc “Quy luật trồng trọt” là gì?

Một trong những phương thức tốt nhất để hiểu về cách những chân lý khách quan này chi phối như thế nào đến cuộc sống chúng ta là xem xét Quy luật về trồng trọt. Trong lĩnh vực nông nghiệp, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy và đồng ý với nhau rằng các quy luật tự nhiên và các nguyên tắc của nghề nông chi phối việc canh tác và quyết định kết quả vụ thu hoạch. Nhưng trong lĩnh vực văn hóa xã hội và văn hóa công ty, không hiểu sao chúng ta vẫn cứ nghĩ rằng chúng ta có thể bỏ qua các quy trình tự nhiên, lừa dối tính hệ thống mà vẫn giành được kết quả. Quả thực, có không ít những bằng chứng có vẻ củng cố cho niềm tin này.

Ví dụ, bạn đã từng “học gạo” trong trường – bỏ bê học tập trong suốt học kỳ để rồi thức rất khuya trước hôm thi để học gạo, nhồi nhét kiến thức của cả học kỳ vào đầu?

Stephen: Tôi cảm thấy xấu hổ khi phải thừa nhận điều này, nhưng đúng là tôi đã học gạo suốt thời gian học đại học, nghĩ rằng mình khôn hơn người. Tôi học cách đánh lừa nhà trường, dò la xem giáo viên muốn gì. “Cách cho điểm của cô giáo như thế nào? Chủ yếu dựa vào bài lên lớp? Thế thì tốt! Tôi khỏi phải đọc sách tham khảo. Thế còn môn này thì sao? Chúng ta phải đọc cuốn sách này à? Được rồi, thế quyển tóm tắt đâu rồi để tôi tổng kết cho nhanh”. Tôi muốn điểm cao, nhưng không muốn lối sống của tôi bị đảo lộn.

Thế rồi tôi ra trường và đi làm, một môi trường hoàn toàn khác. Tôi dành ba tháng đầu tìm cách nhồi nhét kiến thức để bù lại thời gian bốn năm học gạo tại trường đại học, và cuối cùng tôi phải nằm viện với căn bệnh viêm loét đại tràng. Tôi đã cố cưỡng lại các quy trình tự nhiên, và tôi phát hiện ra rằng, về lâu dài chúng ta không thể làm được điều đó. Tôi đã mất nhiều năm cố gắng để sửa lại lỗi lầm là đã dấn thân vào một hệ thống giá trị không hề gắn với một nguyên tắc nào cả.

Bạn có thể tưởng tượng ra cảnh bỏ quên không gieo hạt trên cánh đồng mùa xuân, rong chơi suốt mùa hè, rồi lao vào làm như điên vào mùa thu – cày bừa, gieo hạt, tưới nước, trồng cây – và kỳ vọng sẽ có một mùa bội thu chỉ trong chốc lát?

Sự dồn ép như vậy chắc chắn không đem lại kết quả trong một hệ thống tự nhiên, cây trồng của bạn chẳng những không kết trái theo ý bạn mà có thể bị còi cọc, hay tệ hơn là không nảy mầm hoặc chết héo khi bạn bắt đầu mọi thứ vào mùa thu.

Hệ thống tự nhiên dựa vào các quy luật, nguyên lý; hệ thống xã hội dựa trên cơ sở các giá trị. Về ngắn hạn, phương pháp dồn ép có thể đem lại kết quả trong một hệ thống xã hội. Bạn có thể dùng phương pháp và các kỹ thuật “sửa chữa cấp tốc” với kết quả nhất thời.

Nhưng về lâu dài, “Quy luật trồng trọt” sẽ chi phối mọi lĩnh vực của cuộc sống. Có bao nhiêu người trong chúng ta giờ đây ước gì mình đã không học gạo tại trường? Chúng ta đã có được bằng đại học, nhưng lại không có học thức. Cuối cùng, chúng ta nhận ra rằng có sự khác biệt giữa việc thành công trong trường học với thành đạt trong sự phát triển trí tuệ - khả năng tư duy phân tích, sáng tạo, với mức độ trừu tượng cao, năng lực giao tiếp bằng lời nói và chữ viết, vượt qua các biên giới, vượt lên trên những kinh nghiệm đã lỗi thời và giải quyết được các vấn đề bằng những phương pháp mới hơn, tốt hơn.

Thế còn về tính cách thì sao? Liệu bạn có thể “dồn ép” và đột nhiên biến thành một con người có phẩm giá, dũng cảm, hay nhiệt huyết? Hay có sức khỏe cường tráng? Liệu bạn có thể bù lại những năm tháng của lối sống chỉ biết ăn khoai tây chiên, bánh kẹo sô- cô-la, không hề luyện tập thể thao bằng cách tắm nước khoáng tại câu lạc bộ sức khỏe vào đêm trước cuộc chạy việt dã?

Thế còn về quan hệ hôn nhân thì sao? Nó sẽ do “Quy luật trường học” hay “Quy luật trồng trọt” chi phối, tùy thuộc vào việc bạn muốn kéo dài mối quan hệ này đến đâu. Nhiều người kết hôn nhưng không muốn thay đổi lối sống của họ chút nào. Họ không phải là các cặp vợ chồng đích thực, mà chỉ là những người sống độc thân ở cùng với nhau. Họ không dành thời gian để nuôi dưỡng những hạt mầm của một khát vọng chung, không chia sẻ sự quan tâm, chăm sóc và tôn trọng lẫn nhau, thế mà họ vẫn ngạc nhiên trước một vụ thu hoạch chỉ toàn là cỏ dại. Những liệu pháp khắc phục cấp tốc của hệ thống xã hội và các kỹ thuật đạo đức nhân cách mà họ cố áp dụng không hề mang lại kết quả. Những “giải pháp” này không thể thay thế cho các quá trình muôn thuở bao gồm gieo trồng, canh tác, tưới tiêu, chăm sóc.

Thế còn mối quan hệ với con cái? Chúng ta có thể chọn con đường tắt – vì chúng ta lớn hơn, khôn hơn, và là người có uy quyền. Chúng ta có thể ra lệnh, đe dọa, áp đặt ý muốn của mình. Chúng ta có thể phó thác trách nhiệm dạy dỗ con cái cho trường học, nhà thờ, hay các trung tâm chăm sóc hàng ngày. Nhưng về lâu dài, liệu những con đường tắt này có tạo nên những cá nhân có trách nhiệm, biết quan tâm đến người khác, có khả năng đưa ra những quyết định đúng và sống một cuộc đời hạnh phúc? Liệu chúng có dẫn ta đến những mối quan hệ yêu thương đằm thắm, đáng hài lòng với con cái?

Về ngắn hạn, chúng ta có thể chọn giải pháp “sửa chữa cấp tốc” để có kết quả trông thấy. Chúng ta có thể gây được ấn tượng, chúng ta có thể hấp dẫn người khác. Chúng ta có thể học các kỹ thuật gây ảnh hưởng – nên dùng đòn bẩy nào, ấn nút nào để giành được kết quả mong muốn. Nhưng về lâu dài, “Quy luật trồng trọt” sẽ chi phối mọi lĩnh vực của cuộc sống. Vả lại, bạn không có cách gì đánh lừa mùa màng được, như Tiến sĩ Sidney Bremer nhận xét trong cuốn sách Tinh thần Apollo (Spirit of Apollo) của ông:

“Bản chất của thiên nhiên là sự cân bằng. Chúng ta không thể phá vỡ sự cân bằng của thiên nhiên, vì chúng ta biết rằng quy luật nhân quả là quy luật tự nhiên bất di bất dịch và không thể lay chuyển được; nhưng chúng ta lại không tìm thấy sự cân bằng của chúng ta với tư cách cá nhân hay quốc gia, vì chúng ta không biết rằng cũng như thế giới tự nhiên, trong cuộc sống của con người và đời sống xã hội cũng có một quy luật tương tự không thể lay chuyển được – gieo gì thì chắc chắn sẽ gặt nấy.”

Ảo tưởng và hiện thực

Nhiều vấn đề nảy sinh trong cuộc sống là do chúng ta gieo một thứ nhưng lại ảo tưởng gặt hái một thứ hoàn toàn khác.

Nhiều mô thức cơ bản, các quy trình cũng như thói quen phát sinh từ đó sẽ chẳng bao giờ đem lại kết quả như chúng ta tưởng. Những mô thức này – được hình thành do những người chỉ đi tìm con đường tắt, chịu ảnh hưởng của quảng cáo, các chương trình huấn luyện cấp tốc, và bởi 70 năm tồn tại của sách báo nói về sự thành đạt về đạo đức nhân cách – về cơ bản chỉ là ảo tưởng về sự đốt cháy giai đoạn. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến nhận thức của chúng ta về các nhu cầu cơ bản mà còn tác động đến cách chúng ta cố gắng thỏa mãn các nhu cầu đó.

Nhu cầu vật chất

a

Muốn có sức khỏe tốt phải tuân thủ các nguyên lý của tự nhiên. Sức khỏe cường tráng là hệ quả của quá trình luyện tập thân thể đều đặn, dinh dưỡng thích hợp, nghỉ ngơi đầy đủ, có nếp nghĩ lành mạnh, tránh xa những chất kích thích có hại cho sức khỏe. Nhưng thay vì phấn đấu thực hiện những điều đó, chúng ta lại chạy theo ảo tưởng về vẻ bề ngoài – mơ tưởng rằng những thứ như quần áo đúng mốt, mỹ phẩm đắt tiền, các chương trình làm giảm cân nhanh (thực ra đã được chứng minh là có hại về lâu dài hơn là giải quyết được vấn đề) sẽ thỏa mãn nhu cầu thể chất của chúng ta. Đây là sự hão huyền. Nó có thể làm thỏa mãn chúng ta trong nhất thời chẳng khác gì việc ngậm một viên kẹo. Nó không hề có ý nghĩa thực chất, và cũng không có tác dụng lâu dài.

Sự giàu có về kinh tế dựa trên cơ sở các nguyên tắc như là sự tiết kiệm, chăm chỉ, tích lũy để đầu tư cho các nhu cầu trong tương lai, dùng lợi nhuận tái đầu tư thay vì tiêu xài nó. Nhưng chúng ta lại sống với ảo tưởng là có “nhiều thứ ” sẽ làm thỏa mãn nhu cầu của chúng ta – bất kể thực tế là chúng được mua bằng thẻ tín dụng và chúng ta phải mất hàng tháng hoặc thậm chí hàng năm trời để trả nợ gấp đôi so với giá trị thực của chúng, những thứ chỉ có tác dụng làm thỏa mãn nhu cầu nhất thời như những viên kẹo. Hoặc chúng ta sống với mơ tưởng cầu may như trúng xổ số hay chơi các trò cá cược đăng trên một số tạp chí – một ảo tưởng sẽ có ai đó hoặc cái gì đó “trên trời rơi xuống” giúp giải quyết vấn đề của chúng ta nhờ phép thần thông và miễn trách nhiệm cho chúng ta khỏi phải phấn đấu nâng cao năng lực về tài chính.

Nhu cầu xã hội

Thực tế cho thấy các mối quan hệ có chất lượng là phải dựa trên cơ sở các nguyên tắc – đặc biệt nguyên tắc về sự tin cậy. Sự tin cậy xuất phát từ niềm tin, từ tính cách của con người trong việc đưa ra và thực hiện cam kết, chia sẻ các nguồn lực, quan tâm và chịu trách nhiệm, được ràng buộc và yêu thương vô điều kiện.

Nhưng khi chúng ta đơn độc và đau khổ bởi nhu cầu xã hội không được thỏa mãn, chúng ta lại không muốn ai bảo mình sống và hành động sao cho có được sự tin cậy – xứng đáng với niềm tin và sự yêu thương của ai đó. Chúng ta thường lao theo điều dễ dàng hơn nhiều, là tin vào những ảo tưởng nhất thời như tìm sự khuây khỏa trong quan hệ tình dục, hay gọi điện thoại cho các tổng đài cung cấp dịch vụ trò chuyện đêm khuya để có ai đó mà tâm sự. Đi tìm tình yêu chớp nhoáng dễ dàng hơn nhiều so với việc phấn đấu để trở thành một người đáng được yêu. Và trong nền văn hóa của chúng ta – thể hiện qua âm nhạc, sách báo, quảng cáo, phim ảnh, chương trình tivi – luôn đầy rẫy những ảo tưởng này.

Nhu cầu trí tuệ

Chúng ta thường chạy theo ảo tưởng “ nhồi nhét” thay vì theo đuổi sự phát triển và tăng trưởng lâu dài. Chúng ta lao vào chu trình “lấy được cái bằng... bạn sẽ có việc làm... bạn sẽ có tiền... bạn sẽ mua sắm đủ thứ... bạn sẽ thành đạt”. Nhưng “sự thành đạt” kiểu này sẽ mang lại kết quả gì cho bạn? Liệu đó có phải là tính cách và năng lực có được từ sự đầu tư có chiều sâu, liên tục cho việc học tập và trưởng thành hay không?

Nhu cầu tinh thần

Chúng ta dễ dàng chấp nhận ảo tưởng có trong xã hội rằng ý nghĩa cuộc sống là sự tập trung vào cái tôi – sự tự tôn, tự phát triển, tự hoàn thiện – đó là “điều tôi muốn”, “hãy để tôi tự giải quyết việc của mình”, “làm theo cách của tôi”. Nhưng vô số quyển sách khai trí qua hàng ngàn năm lịch sử không ngừng chứng minh cho một sự thật là thành tựu lớn nhất trong việc hoàn thiện bản thân xuất phát từ sức mạnh của chúng ta trong việc vươn ra để giúp đỡ người khác. Chất lượng cuộc sống xuất phát từ bên trong. Ý nghĩa cuộc sống là ở sự cống hiến, sống vì mục đích cao hơn bản ngã. Vì thế, sự khác nhau giữa các kết quả do ảo tưởng đem lại và kết quả do hành động thực tiễn cũng giống như sự khác nhau giữa một bên là Biển Chết – một nơi tù đọng không được thông dòng, không có sức sống – và bên kia là Biển Galilee, một nơi có dòng chảy liên tục, không ngừng nuôi dưỡng cho cuộc sống trù phú.

Ở Palestine có hai biển.

Một biển nước ngọt có nhiều đàn cá tung tăng. Ven bờ là một màu xanh tươi tắn. Cây cối trải cành nhánh bên trên và đâm sâu rễ vào lòng biển để hút lấy nguồn nước trong lành. Con sông Jordan tạo thành biển này với dòng nước lấp lánh chảy xuống từ những ngọn đồi. Chim chóc tụ về. Biển reo cười trong ánh nắng. Con người đến đây và xây tổ ấm trong những ngôi nhà ven biển. Đó là Biển Galilee.

Rồi sông Jordan chảy về hướng nam đổ vào một biển khác. Ở đây không có những đàn cá, không có những lá cành rung động, không có tiếng chim ca hót líu lo, không có tiếng cười con trẻ, du khách thì luôn tìm đường tránh xa. Không khí nặng nề phủ trùm bên trên mặt nước, không có người hay chim chóc, muông thú nào tới uống dòng nước đó.

Điều gì tạo ra sự khác biệt? Không phải vì con sông Jordan, nó trút vào cả hai cùng một dòng nước ngọt ngào. Không phải do địa thế, cũng không vì điều kiện xung quanh.

Sự khác biệt là ở chỗ Biển Galilee đón nhận nhưng không giữ lại cho riêng mình dòng nước trong lành của sông Jordan. Mỗi giọt nước chảy vào, biển Galilee lại cho đi một giọt khác. Sự cho và nhận bằng nhau. Biển Galilee cho và sống. Biển kia ích kỷ hơn. Nó không chia sẻ bất kỳ giọt nước nào cho ai cả. Biển kia không biết cho. Nó được gọi tên là Biển Chết.

Trong lĩnh vực quản trị thời gian, có nhiều kỹ thuật và phương pháp thực hành mạo danh là các giải pháp thiết thực, trực diện và có hiệu quả giải quyết tức khắc. Nhưng các kỹ thuật và phương pháp này sẽ chỉ đem lại ảo tưởng về sự giải quyết trước mắt, trong khi các nhu cầu căn bản và lâu dài thì không được quan tâm. Nó khiến chúng ta quay trở lại với sự thỏa mãn nhu cầu nhất thời, mà những kết quả cạn cợt đạt được trong cuộc sống đã minh chứng điều đó.

Cuộc sống có chất lượng không bao giờ hình thành từ ảo tưởng. Những giải pháp nóng vội, những lời hão huyền và các kỹ thuật đạo đức nhân cách đi ngược lại các nguyên tắc cơ bản sẽ không bao giờ đem lại kết quả là một cuộc sống có chất lượng.

Vậy bằng cách nào chúng ta khám phá và liên kết cuộc sống của chúng ta với những thực tại “chính Bắc” chi phối chất lượng cuộc sống của chúng ta?

3 . Bốn tiềm năng thiên phú của con người

Con người được thiên nhiên ban tặng những khả năng thiên phú đặc biệt, phân biệt chúng ta với thế giới động vật. Những khả năng thiên phú đó ngự trị ở khoảng trống giữa tác nhân và phản ứng, hay giữa những điều xảy đến với chúng ta và phản ứng của chúng ta đối với chúng.

Stephen: Nhiều năm trước đây, khi lục lọi đống sách trong thư viện của một trường đại học, tôi bất ngờ tìm thấy một cuốn sách trong đó nêu ra một ý tưởng có sức mạnh và có ý nghĩa nhất đối với đời tôi. Nội dung của ý tưởng đó như sau:

“Giữa tác nhân và phản ứng có một khoảng trống.

Giữa khoảng trống đó là quyền lựa chọn phản ứng của chúng ta.

Phản ứng đó lại quyết định sự trưởng thành và tự do của chúng ta.”

Ý tưởng này đập mạnh vào nhận thức của tôi. Những ngày sau đó, tôi trầm ngâm suy nghĩ về ý tưởng này. Nó để lại ảnh hưởng lớn lao đến mô thức của tôi về cuộc sống. Tôi bắt đầu khám phá ra trong khoảng trống đó năng lực đưa ra sự lựa chọn phản ứng một cách có ý thức của mình.

Những khả năng thiên phú nằm trong khoảng trống đó – sự tự nhận thức, lương tâm, ý chí độc lập, và trí tưởng tượng sáng tạo. Chúng tạo ra sự tự do tột đỉnh của con người: quyền đưa ra lựa chọn, phản ứng, thay đổi. Nhờ nó, chúng ta tạo ra cái la bàn giúp ta định hướng cuộc sống của mình một cách đúng đắn.

• Sự tự nhận thức là khả năng nhận xét khách quan bản thân về các mặt như tư duy, động cơ sống, quá trình hoạt động, sự dạy dỗ, hành động, thói quen và xu hướng. Nó giúp chúng ta lột ra những “cặp mắt kính” của mình và nhìn vào đó cũng như nhìn xuyên thấu qua chúng. Nó giúp chúng ta nhận biết được lịch sử về quan hệ xã hội và tâm lý của chúng ta và mở rộng khoảng trống giữa tác nhân và phản ứng.

• Lương tâm kết nối chúng ta với trí tuệ của các thời đại và tiếng nói của con tim. Nó là hệ thống chỉ dẫn bên trong của chúng ta, cho phép chúng ta cảm nhận khi chúng ta hành động hoặc thậm chí thấy trước được các hành động đi ngược lại các nguyên tắc chính đáng. Nó cũng làm chúng ta cảm nhận được khả năng thiên phú và sứ mệnh của chúng ta.

• Ý chí độc lập là khả năng hành động của chúng ta. Nó cho chúng ta sức mạnh để vượt lên trên các mô thức của chúng ta, để bơi ngược dòng, viết lại kịch bản của đời mình, để hành động dựa vào nguyên tắc thay vì chỉ hành động theo xúc cảm hay hoàn cảnh. Nhờ ý chí này mà mặc dù biết rằng ảnh hưởng của môi trường và di truyền đối với con người là rất lớn, nhưng ta không để nó chi phối cuộc sống mình. Chúng ta không phải là nạn nhân. Chúng ta không phải là sản phẩm của quá khứ. Chúng ta là sản phẩm của sự lựa chọn của mình. Chúng ta là người “có khả năng để phản ứng” – biết cách phản ứng, biết lựa chọn phản ứng mà không phụ thuộc vào tâm trạng hay xu thế chung. Chúng ta có sức mạnh ý chí để hành động trên cơ sở tự nhận thức, lương tâm và tầm nhìn.

• Trí tưởng tượng sáng tạo là khả năng nhìn xa vào tương lai, hình thành định hướng trong đầu, và biết giải quyết vấn đề một cách tổng hợp. Đây là khả năng cho phép chúng ta nhìn bản thân mình và nhìn người khác một cách khác biệt và tốt hơn cách nhìn hiện tại của chúng ta. Nó giúp chúng ta viết bản tuyên ngôn sứ mệnh của bản thân, đặt ra mục tiêu, hay kế hoạch thực hiện. Nó cũng giúp ta hình dung được cuộc sống của mình khi ta thực hiện tuyên ngôn sứ mệnh ngay cả trong các tình huống thách thức nhất, và biết áp dụng các nguyên tắc có hiệu quả trong các tình huống mới.

Các “phong trào” tự hoàn thiện bản thân thường công nhận các khả năng thiên phú này, nhưng có xu hướng chia tách chúng ra và đề cập đến chúng một cách biệt lập.

• Sự tự nhận thức là trọng tâm của phong trào phục hồi, cũng như phân tâm học và tâm lý trị liệu.

• Lương tâm là trọng tâm của tôn giáo – thế giới của đạo lý, tư duy đạo đức, những câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống và cái đúng cái sai.

• Ý chí độc lập là sức mạnh ý chí, hiểu theo cách tiếp cận “dân dã” – mọi thứ trên đời đòi hỏi phải đấu tranh cật lực mới có được. “Tay làm hàm nhai”.

• Trí tưởng tượng sáng tạo là trọng tâm của các phong trào hình tượng hóa và năng lực trí tuệ như Tư duy Tích cực (Positive Thinking), Điều khiển học tâm lý (Psychocybernetics), Phép thần của niềm tin (Magic of Believing), và Lập chương trình ngôn ngữ thần kinh (Neurolinguistic Programming).

Tất cả các cách tiếp cận nói trên đều phát triển các khả năng thiên phú của con người, nhưng không có cách nào coi tất cả các khả năng thiên phú đó như một tổng thể tương tác và hiệp lực với nhau. Trong khi đó, từng khả năng thiên phú – và sự hiệp lực giữa các khả năng này – là yếu tố cần thiết để tạo ra một cuộc sống có chất lượng. Chỉ có tự nhận thức – để nhận ra rằng bản thân đã đi theo hướng không phù hợp với lương tâm – là không đủ, nếu chúng ta không có trí tưởng tượng để hình dung ra con đường đúng đắn hơn và có ý chí để tạo ra sự thay đổi. Chỉ có ý chí độc lập “để đấu tranh cật lực” suốt đời là không đủ, nếu chúng ta thiếu lương tâm để tìm ra con đường đúng đắn và vượt qua được các lý lẽ kéo chúng ta vào những ngõ cụt. Trí tưởng tượng mà thiếu ý chí độc lập sẽ tạo ra con người mơ mộng hão; trí tưởng tượng mà thiếu lương tâm sẽ có thể tạo ra con người như Hitler.

Phát triển tất cả bốn khả năng thiên phú và sự hiệp lực giữa chúng là điều cốt lõi của nguyên lý lãnh đạo bản thân. Nhờ có nó, chúng ta có thể nói rằng “Tôi có thể xem xét lại mô thức của mình. Tôi có thể kiểm tra lại kết quả do mô thức đó tạo ra. Tôi có thể dựa vào lương tâm của mình để tìm ra con đường mới phù hợp với các nguyên tắc và năng lực riêng của tôi để cống hiến. Tôi có thể dựa vào ý chí độc lập của mình để đưa ra sự lựa chọn và tạo ra sự thay đổi. Tôi có thể dùng trí tưởng tượng của mình để nhìn xa hơn thực tế hiện nay và tìm ra các giải pháp khác thích hợp”.

Làm cách nào phát triển các khả năng thiên phú của bạn?

Chúng ta ai cũng có các khả năng thiên phú đó. Tất cả chúng ta đều có những giây phút tự nhận thức. Chúng ta đều có những lúc nghe theo và hành động phù hợp với lương tâm. Chúng ta ai cũng trải qua những lúc có hành động căn cứ vào điều mà mình cho là quan trọng thay vì chỉ phản ứng theo cảm xúc hay theo hoàn cảnh. Chúng ta ai cũng có lúc nghĩ về tầm nhìn xa, về cảm hứng sáng tạo.

Mặt khác, cho dù chúng ta có thừa nhận một cách có ý thức hay không, thì điều không tránh khỏi là chúng ta ai cũng có lúc hành động mù quáng, bỏ qua hay chống lại tiếng nói của lương tâm, có những hành vi quá đáng và có khi thiếu tầm nhìn hay trí tưởng tượng.

Vấn đề đặt ra là: Chúng ta đã phát triển các khả năng thiên phú như thế nào và sự hiệp lực của chúng trong cuộc sống của ta mạnh đến đâu?

Chúng tôi khuyên bạn nên dành chút thời gian để suy ngẫm nghiêm túc những câu hỏi dưới đây. Các câu trả lời của bạn sẽ giúp đánh giá mức độ bạn phát triển và sử dụng các khả năng này trong cuộc sống.

Sau khi trả lời các câu hỏi, hãy cộng số điểm bạn đạt được cho từng khả năng và đối chiếu nó với thước đo sau:

0-7 điểm: Khả năng không tích cực

8-12 điểm: Khả năng tích cực

13-16 điểm: Khả năng rất tích cực

Khoanh tròn vào các con số dọc theo ma trận mô tả đúng nhất hành vi hay thái độ của bạn theo các nội dung được viết ra bên tay trái. (0 = không bao giờ (A), 2 = đôi khi (B), 4 = Luôn luôn (C))

Tự nhận thức

1. Bạn có thể đánh giá khách quan về suy nghĩ và tình cảm của mình cũng như có thể thay đổi nó hay không?

2. Bạn có nhận biết các mô thức cơ bản của mình và tác động của chúng đến thái độ và hành vi, cũng như kết quả đạt được của bạn?

3. Bạn có nhận thấy có một sự khác biệt giữa tình trạng của bạn về sinh lý, dòng dõi gia đình, tâm lý và xã hội học - với những suy nghĩ nội tâm sâu sắc của bạn?

4. Khi có phản ứng của người khác đối với bạn – hay đối với hành động nào đó của bạn – thách thức cách nhìn bản thân của bạn, bạn có khả năng nhìn lại mình và rút ra kinh nghiệm?

Lương tâm

1. Có phải có lúc lương tâm nhắc nhở bạn nên hay không nên làm một điều gì đó?

2. Bạn có cảm thấy có sự khác nhau giữa “lương tâm xã hội” – điều bạn được xã hội dạy dỗ phải coi trọng – với sự mách bảo từ nội tâm của bạn?

3. Bạn có cảm nhận được nhu cầu từ nội tâm của mình đối với các nguyên tắc “chính Bắc” như là sự chính trực và sự đáng tin cậy?

4. Bạn có thấy một khuôn mẫu chung trong kinh nghiệm sống của loài người - chứ không chỉ giới hạn trong phạm vi xã hội mà bạn đang sống - minh chứng cho tính hiện thực của các nguyên tắc “chính Bắc”?

Ý chí độc lập

1. Bạn có khả năng đưa ra và thực hiện các lời hứa với chính mình cũng như với người khác?

2. Bạn có khả năng hành động theo sự thôi thúc của nội tâm mình ngay cả khi điều đó đòi hỏi phải đi ngược trào lưu?

3. Bạn có rèn luyện khả năng đặt ra và thực hiện các mục tiêu có ý nghĩa trong cuộc sống của bạn?

4. Bạn có thể bắt tâm trạng của mình phải phục tùng các cam kết của bạn ?

Trí tưởng tượng sáng tạo

1. Bạn có nghĩ xa hay không?

2. Bạn có hình dung cuộc sống của bạn sau này ra sao?

3. Bạn có dùng cách hình tượng hóa của mình để giúp khẳng định và thực hiện các mục tiêu của bạn?

4. Bạn có đi tìm các phương pháp mới, sáng tạo để giải quyết các vấn đề theo nhiều tình huống khác nhau và coi trọng những quan điểm khác biệt của người khác?

Xây dựng những khả năng thiên phú kể trên là một quá trình nuôi dưỡng và luyện tập không ngừng. Mặc dù có nhiều cách nhưng trong chương này, chúng tôi chỉ muốn nêu ra một phương pháp tốt để phát triển từng khả năng và khai thác sự hiệp lực giữa chúng.

Nuôi dưỡng khả năng tự nhận thức nhờ ghi chép cá nhân

Ghi chép cá nhân là một hoạt động thuộc Phần tư thứ II có tác dụng làm tăng đáng kể khả năng tự nhận thức và nâng cao các khả năng thiên phú khác cũng như sự hiệp lực giữa các khả năng này.

Bạn nên ghi cái gì trong sổ ghi chép cá nhân của bạn? Nếu bạn không hài lòng với một kết quả bạn đạt được trong cuộc sống, hãy viết ra điều đó. Hãy thể hiện điều đó trên giấy. Hãy để ý xem “Quy luật trồng trọt” chi phối như thế nào đến cuộc sống của bạn. Hãy xem đâu là nguyên nhân sâu xa của những điều không như ý. Hãy xem các kết quả có thể truy ngược về các mô thức, quy trình và thói quen vốn có của bạn như thế nào.

Nếu bạn không hiểu vì sao mình vẫn cứ làm những điều mà bản thân bạn biết chắc là chúng có hại hay vô bổ, thì bạn hãy phân tích chúng, xử lý chúng, viết ra chúng. Nếu cha mẹ bạn đã từng làm điều gì gây cho bạn khó chịu, và bạn đã tự nhủ “Khi mình làm cha/mẹ, mình sẽ không bao giờ làm điều đó!” – rồi sau đó bạn thấy mình cũng đang làm điều đó – thì hãy viết ra. Nó sẽ tạo ra nhận thức về mẫu hình bạn cần hành động, giúp bạn đưa ra sự lựa chọn khôn ngoan.

Nếu bạn có được một ý tưởng hoặc học được một nguyên tắc hay quan sát một tình huống trong đó có một nguyên tắc tạo ra những kết quả tốt, hãy viết ra điều đó. Nếu bạn cảm thấy có sự thôi thúc trong lòng về một điều gì đó và bạn đã làm theo hoặc không làm, hãy ghi điều đó ra và ghi cả hậu quả của nó. Quá trình này sẽ giúp bạn chú ý hơn đến sự thôi thúc nội tâm. Nó giúp bạn củng cố và nuôi dưỡng lương tâm của mình. Nếu bạn có cam kết với người khác hay với chính mình, hãy viết ra cách bạn dùng ý chí để thực hiện những cam kết đó. Nếu bạn cam kết sẽ tập thể dục bốn lần một tuần, hãy đánh giá các yếu tố giúp bạn thực hiện điều đó - hay tìm hiểu các lý do vì sao bạn không thực hiện được. Có phải cam kết của bạn nửa vời, vội vã hay không thực tế? Có phải thách thức vượt qua sự lười biếng “không muốn rời khỏi giường” là quá lớn so với ý chí của bạn? Có phải cam kết của bạn với bản thân cũng được ưu tiên như cam kết với người khác? Nâng cao nhận thức về ý chí độc lập sẽ giúp bạn rèn luyện bản thân.

Hình dung các khả năng có thể xảy ra và viết ra các khả năng đó. Mơ ước giúp cho việc hình thành trí tưởng tượng. Bạn nên kiểm tra những mơ ước của mình. Có phải những mơ ước đó dựa trên cơ sở các nguyên tắc? Bạn có dám trả giá để ước mơ được thực hiện?

Khi phát triển trí tưởng tượng, bạn có thể sử dụng chúng để tạo ra niềm hy vọng bạn muốn đạt được trong cuộc sống. Đây là bản thiết kế trước khi xây dựng ngôi nhà, ý tưởng của đạo diễn trước khi thực hiện vở diễn trên sân khấu. Nó sẽ giúp xây dựng các mục tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn giúp bạn biến viễn cảnh thành hiện thực.

Có thể bạn thấy mình đang sống với những ước mơ không được thực hiện. Bạn có thể an phận, cảm thấy mình đành phải chấp nhận cái thứ yếu, và nghĩ rằng “giá như mọi thứ khác đi” để bạn có thể thực hiện được mơ ước của mình. Nhưng nếu bạn thử bỏ ra công sức và cố làm cho bằng được, rất có thể bạn sẽ thấy mơ ước của bạn là ảo tưởng – rằng bạn đang mong ước, chờ đợi một điều không bao giờ đem lại cho mình một cuộc sống có chất lượng.

Hãy đứng từ bên ngoài nhìn vào ước mơ của bạn. Viết ra những ước mơ đó. Hãy vật lộn với chúng cho đến khi bạn tin rằng chúng dựa trên các nguyên tắc sẽ đem lại kết quả. Rồi sau đó dùng trí tưởng tượng của bạn để khảo sát các khả năng mới, tìm ra cách thức mới dựa trên nguyên tắc có sức mạnh biến ước mơ thành hiện thực.

Sổ tay ghi chép cá nhân giúp bạn nhìn ra và cải thiện hàng ngày cách thức phát triển và sử dụng các khả năng thiên phú của bạn. Việc viết lách làm tăng khả năng ghi nhận của não, giúp bạn ghi nhớ và thực hiện những điều bạn đang muốn làm. Ngoài ra, nó còn cho bạn một công cụ tạo bối cảnh mạnh mẽ. Khi bạn nhân một cơ hội nào đó – có thể là nhân dịp đi dã ngoại để viết lại bản tuyên ngôn sứ mệnh – để đọc lại những hoạt động của các tuần trước, tháng trước, hay năm trước, bạn sẽ có dịp nhìn lại một cách tổng quan về các giá trị mà bạn đang hướng tới trong cuộc sống.

Phát triển lương tâm nhờ học tập, lắng nghe và đáp ứng

Sự tồn tại của lương tâm là một trong những khái niệm đã được minh chứng rộng rãi trong các tác phẩm về tâm lý học, xã hội học, tôn giáo và triết học từ xưa đến nay. Từ khái niệm “tiếng nói nội tâm” trong các tác phầm khai trí cho đến khái niệm “vô thức tập thể” (collective unconscious) của tâm lý học – thậm chí cả “chú dế Jiminy”(1) của Walt Disney – khả năng thiên phú này đã được sự thừa nhận và được coi như một yếu tố chính trong con người. Sigmund Freud nói rằng lương tâm chủ yếu là sản phẩm của thời thơ ấu và văn hóa của chúng ta. Carl Jung công nhận lương tâm xã hội, nhưng ông cũng nói đến “vô thức tập thể” tác động vào tâm hồn của mọi người, cả đàn ông và phụ nữ.

(1) Jiminy: Một chú dế biết nói, đã đi nhiều nơi và sống hơn trăm tuổi, được cử làm người giám hộ cho cậu bé người gỗ Pinocchio trong bộ phim hoạt hình của Walt Disney sản xuất năm 1940. Chú dế này có trách nhiệm giúp Pinocchio phân biệt được điều tốt và điều xấu nên còn được gọi là “chú dế lương tâm”.

Khi chúng tôi làm việc với nhiều công ty trong việc xây dựng các bản tuyên ngôn sứ mệnh, chúng tôi nhận thấy nhiều bằng chứng của “vô thức tập thể”. Phần lớn người ta khi đi vào chiều sâu của cuộc sống nội tâm, bất kể sự khác biệt về văn hóa, giáo dục, tôn giáo hay chủng tộc, họ đều cảm nhận được những quy luật cơ bản của cuộc sống.

Tuy vậy, hầu hết chúng ta sống và làm việc trong những môi trường không nuôi dưỡng sự phát triển của lương tâm. Để nghe được tiếng nói lương tâm, đòi hỏi chúng ta phải “tĩnh lặng”, “trầm tư” hay “suy tưởng” – những điều kiện mà chúng ta ít khi lựa chọn hay có được. Hàng ngày chúng ta bị chìm ngập trong các hoạt động, tiếng ồn, những tác động xã hội và văn hóa, các thông điệp thông tin đại chúng, những mô thức sai lầm... khiến chúng ta không cảm nhận được tiếng nói nội tâm nhỏ nhẹ mách bảo cho chúng ta biết đâu là những nguyên tắc “chính Bắc” và mức độ tương đồng của chúng ta với những nguyên tắc đó.

Nhưng nếu chúng ta dừng lại và lục tìm sâu xa với trái tim chân thành, chúng ta có thể chạm đến cái suối nguồn trí tuệ bên trong đó.

Vậy làm cách nào để chúng ta phát triển khả năng thiên phú của lương tâm?

Chúng ta hãy so sánh giữa sự phát triển của lương tâm với sự phát triển kỹ năng của năm đôi bàn tay trong ví dụ sau đây. Một đôi bàn tay thuộc về một nghệ sĩ dương cầm tài ba, người có thể thu phục khán giả bằng tiếng đàn điêu luyện. Một đôi bàn tay khác thuộc về một bác sĩ phẫu thuật lành nghề, người có thể thực hiện những ca mổ mắt hay mổ não để cứu sống, đem lại ánh sáng và khả năng tư duy cho nhiều người. Một đôi bàn tay khác là của một vận động viên chơi gôn tài ba, người chiến thắng trong các cuộc thi bằng những cú đánh tuyệt vời dưới áp lực của đám đông khán giả. Một đôi bàn tay nữa thuộc về một người mù, người có thể đọc sách với tốc độ nhanh khó tin nhờ sờ vào các ký hiệu nổi trên trang giấy. Và đôi bàn tay thứ năm thuộc về một nhà điêu khắc vĩ đại, người có thể tạo ra tuyệt tác từ các khối đá cẩm thạch hay granit.

Một lương tâm đã được phát triển cũng giống như những đôi bàn tay này. Để có được nó cần phải có sự khổ luyện, sự hy sinh, và tinh thần vượt qua trở ngại. Trên thực tế, điều kiện để phát triển lương tâm còn đòi hỏi nhiều hơn thế. Nhưng phần thưởng có được cũng sẽ lớn hơn nhiều – một lương tâm đã được phát triển sẽ có tác động đến mọi khía cạnh trong cuộc sống của chúng ta.

Chúng ta có thể phát triển lương tâm của mình bằng những cách sau:

• Đọc sách và nghiền ngẫm những tác phẩm khai trí của các thời đại để mở rộng nhận thức về các nguyên tắc “chính Bắc”, một đề tài xuyên suốt mọi thời đại.

• Nhận xét khách quan và rút ra bài học từ kinh nghiệm bản thân.

• Quan sát kỹ lưỡng những kinh nghiệm của người khác.

• Dành thời gian để tĩnh lặng và lắng nghe tiếng nói từ nội tâm mình.

• Đáp lại tiếng nói đó.

Chỉ lắng nghe lương tâm mình là chưa đủ; chúng ta còn phải đáp lại nữa. Khi chúng ta không hành động hài hòa với tiếng nói nội tâm của mình, chúng ta sẽ dựng nên bức tường bao quanh lương tâm của mình. Bức tường đó sẽ ngăn cản sự nhạy cảm và khả năng phản hồi của lương tâm. Như C. S. Lewis từng nhận xét, “không nghe theo lương tâm sẽ làm cho lương tâm bị mù”.

Khi chúng ta kết nối với trí tuệ của các thời đại và trí khôn của con tim, chúng ta sẽ bớt đi chức năng làm tấm gương phản ánh xã hội và tăng chức năng làm một con người có tính cách và lương tâm. Giá trị của chúng ta không đến từ cách người khác đối xử với mình hay từ việc so sánh mình với người khác, mà là từ sự chính trực căn bản của chúng ta.

Nuôi dưỡng ý chí độc lập bằng cách đưa ra và giữ lời hứa

Cách tốt nhất để tăng cường ý chí độc lập của chúng ta là đưa ra và thực hiện lời hứa. Mỗi khi làm như vậy, chúng ta sẽ có khoản gửi vào tài khoản của sự chính trực cá nhân. Đây là sự ẩn dụ mô tả mức độ tin cậy chúng ta có được ở người khác, ở chính khả năng chúng ta có tiếng nói có trọng lượng.

Quan trọng là bắt đầu từ việc nhỏ. Đưa ra và thực hiện lời hứa – dù chỉ là việc bạn phải thức dậy sớm hơn để tập thể dục, thậm chí cả khi điều đó đòi hỏi bạn phải bỏ xem ti-vi vào buổi tối. Hay việc bạn phải hy sinh khẩu vị để bảo đảm cân bằng dinh dưỡng trong cả một tuần.

Cần tin chắc bạn sẽ không vi phạm cam kết và tin chắc bạn không hứa quá lời để rồi không thực hiện được. Đừng có liều lĩnh rút bớt từ tài khoản của sự chính trực cá nhân. Xây dựng từ từ cho đến khi cảm nghĩ về danh dự trở nên lớn hơn các tâm trạng của bạn. Suy nghĩ kỹ về thực tại bạn đang sống, và trên cơ sở suy nghĩ kỹ lưỡng đó bạn mới lao vào và tự nhủ “Tôi sẽ làm việc này”. Khi đó, bạn sẽ quyết tâm làm cho bằng được, cho dù có điều gì xảy ra.

Theo đó, từng bước, niềm tin của bạn vào bản thân sẽ tăng lên. Và nếu bạn đã cam kết dựa vào nguyên tắc, bạn sẽ dần dần trở thành người dựa vào nguyên tắc nhiều hơn. Mỗi khi bạn thực hiện lời hứa đối với bản thân mình thì tài khoản chính trực của bạn sẽ tăng lên.

Stephen: Có một lần, tôi cố vấn cho một người mà cuộc sống của anh ấy gần như là hoàn toàn tan vỡ. Anh sống tắc trách và bê tha. Thỉnh thoảng anh ấy có vẻ giống như con cá chuồn lung linh dưới ánh mặt trời, rồi lại lặn vào cuộc sống phí hoài và ích kỷ, bị xô đẩy bởi tác động của những việc khẩn cấp.

Tôi bắt đầu bằng việc động viên anh khai thác khả năng thiên phú của con người và bắt đầu từ những việc nhỏ. Tôi nói: “Anh có thể dậy sớm vào buổi sáng như ý anh muốn không?”.

Anh ấy hỏi lại: “Việc đó thì có ảnh hưởng gì đến những chuyện khác?”.

Tôi đáp: “Thân thể của anh là công cụ duy nhất anh có để sử dụng trong cả cuộc đời. Nếu anh không kiểm soát được thân thể, làm sao anh có thể kiểm soát được những biểu hiện thông qua thể xác và tâm trí của mình?”.

Thế rồi mỗi buổi tối anh ấy quyết tâm sẽ thức dậy vào sáng sớm, nhưng cứ sáng đến là anh lại không vượt qua được chính mình. Anh đã trở thành nô lệ của sự lười biếng.

Tôi lại cố lần nữa: “Liệu anh có thể thức dậy vào một giờ giấc nhất định trong thời gian một tháng?”. Anh ấy trả lời: “Tôi thực sự không biết có làm được hay không”.

“Thế thì anh đừng hứa, vì nếu hứa mà không thực hiện được thì sự chính trực của anh sẽ bị lâm nguy. Như anh đã công nhận, cuộc sống của anh bị tan vỡ hoàn toàn. Anh không có sự thanh thản trong lòng. Do vậy đừng có hứa hẹn để rồi thất hứa. Hãy bắt đầu bằng việc nhỏ hơn. Anh có nghĩ mình có thể làm được trong một tuần?”

“Vâng, tôi nghĩ mình có thể làm được trong một tuần.”

Tôi nhắc lại:“Có phải anh sẽ thức dậy mỗi sáng vào đúng thời gian anh đã định trong một tuần?”.

“Tôi sẽ làm như vậy.”

Tôi gặp lại anh ta sau đó một tuần.

“Anh có làm được không?”

“Tôi đã làm được.”

“Chúc mừng anh! Cuộc sống của anh đang bắt đầu gắn kết lại từ mức độ rất nhỏ. Bây giờ, anh định hứa hẹn sẽ làm gì tiếp?”

Dần dần từng bước, anh ấy bắt đầu đưa ra lời hứa và thực hiện lời hứa đó. Không ai khác biết việc anh ấy đang làm trừ một người bạn và tôi là những người đang động viên anh. Nhưng chúng tôi bắt đầu nhận thấy có sự thay đổi rõ rệt ở anh. Trước đây, cuộc sống tình cảm của anh ấy giống như một chiếc xe nhào lộn. Anh đưa ra các quyết định theo cảm tính và hoàn cảnh. Anh hứa rất hăng nhưng khi tâm trạng và hoàn cảnh thay đổi, anh ta lại chán chường và thất hứa. Và có cái gì đó trong nội tâm anh ta đang tan vỡ - tính chính trực của anh ấy.

Nhưng khi bắt đầu quá trình đưa ra lời hứa và thực hiện đúng lời hứa từ việc nhỏ, cuộc sống tình cảm của anh ấy dần được nâng lên. Anh nhận ra rằng việc anh đưa ra và thực hiện lời hứa với chính mình sẽ giúp anh tăng khả năng hứa và thực hiện lời hứa đối với người khác. Anh cũng nhận ra rằng thiếu sự chính trực chính là trở ngại lớn trong quan hệ của anh với người khác. Từ chiến thắng này, các chiến thắng khác bắt đầu đến với anh.

Như một nhà thông thái đã nói: “Các cuộc chiến lớn nhất của chúng ta là ở trong những ngăn yên lặng của tâm hồn ta”. Chúng ta cần tự hỏi: Có phải mình muốn trở thành con người hoàn toàn chính trực? Có phải mình thực sự muốn xin lỗi khi mình có lỗi, muốn yêu thương vô điều kiện, coi trọng hạnh phúc của người khác cũng như hạnh phúc của chính mình?

Xuất phát từ hoàn cảnh sống và những trải nghiệm đã qua, chúng ta có thể nói “Không, tôi không làm như vậy. Đó không phải cách tôi được dạy bảo. Đó không phải là khung cảnh sống của tôi”. Nhưng ý chí độc lập của chúng ta sẽ nói, “Khoan đã! Bạn có khả năng làm điều đó. Bạn không nhất thiết phải phụ thuộc hoàn cảnh sống hay tấm gương phản chiếu xã hội và con đường thực dụng mà người khác đang đi. Bạn có cơ hội để quyết định lựa chọn phản ứng của mình đối với mọi tác động đến với bạn. Người khác có làm như vậy hay không, không liên quan đến quyết định của bạn. Bạn có sức mạnh để nhìn vào sự tham gia của bạn, để quan sát phản ứng của bạn, để thay đổi nó”.

Đối với những người nói rằng: “Thôi nào! Bạn có biết thiên hạ họ sống thế nào không?”, chúng ta sẽ đáp lại, “Thôi nào! Bạn có biết sức mạnh bên trong của bạn mạnh mẽ thế nào không?”. Cuộc sống của chúng ta là kết quả từ sự lựa chọn của chính mình. Việc đổ lỗi, lên án người khác, đổ cho hoàn cảnh, hay các yếu tố khách quan khác tức là lựa chọn để cho những thứ đó chi phối cuộc sống của chúng ta.

Việc chúng ta chọn – hoặc để sống cuộc đời của chúng ta hoặc để người khác sống thay cho chúng ta – là do chúng ta quyết định. Bằng cách đưa ra các cam kết và thực hiện đúng cam kết đối với bản thân và người khác, dần dần từng bước chúng ta sẽ tăng cường sức mạnh của mình cho đến khi khả năng hành động của chúng ta mạnh hơn tất cả các ngoại lực chi phối chúng ta.

Phát triển trí tưởng tượng sáng tạo nhờ Hình dung viễn cảnh

Bạn hãy tưởng tượng một kịch bản sau:

Những giọt mồ hôi ướt đẫm trên mặt bạn. Sức nóng dữ dội của sự thù địch tại một đất nước nhiệt đới châu Mỹ La-tinh đang bị chiến tranh tàn phá làm cho không khí trở nên ngột ngạt khó thở. Một cô gái vừa được bạn cứu khỏi một trại giam dơ bẩn đầy sâu bọ đang bám chặt vào cánh tay bạn, trong sự sợ hãi gần như hoảng loạn. Sứ mệnh của bạn là phải đưa cô gái trở về an toàn với cha của cô, một vị đại sứ. Bạn không có vũ khí trong tay, không đồ ăn, không phương tiện di chuyển, và cũng không có cách nào liên lạc với bên ngoài. Bị bao vây bởi quân địch hung hăng tàn bạo, bạn hiểu rằng nơi ẩn nấp sơ sài này sẽ sớm bị địch phát hiện ra.

Vậy bạn phải làm gì?

Thú thật, chúng tôi không biết sẽ làm gì trong hoàn cảnh đó. Chúng tôi cũng không biết bạn sẽ làm gì. Nhưng chúng tôi biết điều mà MacGyver sẽ làm.

Là ngôi sao của chương trình phim truyền hình mạo hiểm nhiều tập mang tên mình, nhân vật MacGyver là bậc thầy của mưu trí. Hình như không có bất cứ tình huống éo le nào mà người đàn ông thần thoại này không xử lý được. Anh là nhân vật thần bí của loại phim hình sự hiện đại, một người không có vũ khí trong tay, chỉ có mưu trí. Với kiến thức phong phú và sự sáng tạo, tại nơi đang ẩn nấp của mình, anh làm ra chiếc gương parabol từ phần còn lại của chiếc xe gíp bị nổ tung. Bằng cách tập trung các tia sáng mặt trời chiếu vào nơi để vũ khí đạn dược của quân địch, anh ta gây ra một vụ nổ lớn và quân địch chạy tán loạn trong khi anh ta và cô gái tìm đường thoát vào một nhà kho bỏ hoang của nông dân. Tìm kiếm từng mẩu vật liệu cũ và một số hóa chất gia dụng thông thường còn sót lại trong nhà kho, anh tạo ra một số chất gây nổ để phòng vệ trong tương lai. Anh thu thập các linh kiện từ một chiếc đài radio bị hỏng để tạo ra một thiết bị đơn giản có thể đánh tín hiệu cho máy bay trực thăng đến cứu.

Hoang đường? Đúng vậy. Đây rõ ràng là phim ảnh hư cấu. Nhưng bạn thích có một con người giống như MacGyver không?

“Nhân tố MacGyver” như chúng tôi thường gọi, là hiện thân của sức mạnh trí tưởng tượng sáng tạo. Đó là sự hiểu rõ và có khả năng áp dụng các nguyên tắc vào nhiều tình huống khác nhau. Với “Nhân tố MacGyver”, bạn không chỉ có đáp số là 4 bằng cách lấy 2 +2 mà bạn còn có thể xem xét các khả năng khác như 1 + 3, 92 - 88, 228 : 57, và hàng loạt sự kết hợp vô tận khác.

“Nhân tố MacGyver” minh họa cho bản chất làm tăng sức mạnh của các nguyên tắc. Nếu như chỉ suy nghĩ theo kinh nghiệm cũ thay vì nguyên tắc, thì MacGyver và cô con gái của vị đại sứ kia chắc không bao giờ thoát khỏi trại giam chứa đầy sâu bọ tại châu Mỹ La-tinh và sẽ dành thời gian để than thân trách phận là tại sao họ không mang theo lựu đạn!

Hiểu rõ “Nhân tố MacGyver” là một trong những khía cạnh lý thú và có sức mạnh lớn nhất của lối sống dựa vào nguyên tắc. Các nguyên tắc là sự đơn giản hóa của những điều rất phức tạp. Theo lời của Alfred North Whitehead:

“Theo một nghĩa nào đó, khối lượng kiến thức sẽ thu hẹp lại khi trí tuệ tăng lên: vì các chi tiết được tiêu hóa thành các nguyên tắc. Những chi tiết quan trọng của kiến thức sẽ được chọn lọc riêng cho từng công việc của cuộc sống, nhưng thói quen vận dụng tích cực những nguyên tắc phổ biến mới là sự làm chủ trí tuệ cao nhất.”

Với sự hiểu biết vững chắc các nguyên tắc, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng “Quy luật trồng trọt” cũng có thể áp dụng cho sự phát triển cá nhân như áp dụng cho việc trồng cây cà chua – hay Nguyên tắc về sự hiệp lực (trong trường hợp hai tấm ván ghép vào nhau sẽ chịu được lực lớn hơn lực do hai tấm chịu lực riêng lẻ cộng lại) cũng có thể áp dụng cho trường hợp hai người hợp lực tìm ra giải pháp sẽ tốt hơn là hai người làm riêng lẻ.

Quy trình luyện tập mà chúng tôi cho rằng sẽ giúp phát triển trí tưởng tượng sáng tạo chính là sự hình dung viễn cảnh (visualization) – sự luyện tập trí tuệ ở mức độ cao đã được các vận động viên thể thao đẳng cấp thế giới và các nghệ sĩ áp dụng. Nhưng thay vì dùng nó để cải thiện kết quả thi đấu quần vợt hay biểu diễn dương cầm, chúng tôi khuyên bạn nên thử áp dụng để cải thiện chất lượng cuộc sống của mình.

Bạn hãy bỏ ra ít thời gian để ở một mình, tránh xa mọi điều làm phân tán tư tưởng. Nhắm mắt lại và hình dung bản thân mình đang ở trong hoàn cảnh vốn thường làm cho bạn khó chịu hay đau khổ. Ví dụ như cảnh bạn bị sếp la mắng; hay cô con gái vị thành niên của bạn kêu ca rằng bạn không chịu mua sắm quần áo mới cho con bé; hoặc việc bạn đồng nghiệp tung tin đồn có ác ý với bạn.

Sử dụng khả năng tự nhận thức để tách bản thân ra khỏi những suy nghĩ và xúc cảm thông thường mà hoàn cảnh đó gây ra cho bạn. Dưới con mắt tâm hồn của bạn, thay vì thấy mình phản ứng như thường làm, bạn hình dung bản thân mình phản ứng trên cơ sở các nguyên tắc mà bạn tin rằng sẽ tạo ra một cuộc sống có chất lượng. Bạn hình dung mình tương tác với người khác trong điều kiện bản thân đã có sự kết hợp của lòng can đảm và sự cân nhắc. Sử dụng “Nhân tố MacGyver” để xem bạn sẽ áp dụng các nguyên tắc vào những tình huống khác nhau như thế nào. Giá trị của sự luyện tập này sẽ nhân lên gấp bội nếu bạn dùng nó để đưa các nguyên tắc và các giá trị vào trong một tuyên ngôn sứ mệnh mạnh mẽ.

Cách tốt nhất để dự đoán tương lai của bạn là tạo ra nó. Bạn có thể dùng chính sức mạnh của trí tưởng tượng đó để hình dung ra mục tiêu trước khi bạn thực hiện nó, hay vạch ra kế hoạch cho một cuộc gặp để phát huy tốt nhất phẩm chất của bạn trước khi có cuộc gặp đó.

Tính khiêm tốn do sống theo nguyên tắc

Khi xuất phát từ mô thức về sự tồn tại của các nguyên tắc – và sự thành đạt của chúng ta là tùy thuộc mức độ chúng ta khám phá và sống hài hòa với các nguyên tắc đó – chúng ta sẽ có ý thức về sự khiêm tốn.

Đó là bởi vì chúng ta biết rằng mình không tự chi phối được cuộc sống của mình; các nguyên tắc khách quan mới làm được điều đó. Chúng ta sẽ không cố tự đặt ra quy luật cho mình, mà cần nuôi dưỡng thái độ biết học hỏi và thói quen không ngừng học tập. Chúng ta nên tham gia liên tục vào nỗ lực tìm kiếm để hiểu rõ và sống hài hòa với các quy luật của cuộc sống. Chúng ta không nên ngạo mạn khi có được những giá trị của cuộc sống mà quên mất sự tự nhận thức và lương tâm của mình. Giá trị của chúng ta không phải dựa vào ảo tưởng của tư duy so sánh – tôi đẹp hơn người khác, tôi giàu có hơn người khác, tôi có công việc tốt hơn, hay tôi chăm chỉ hơn người khác. Chúng ta cũng không nên cảm thấy kém cỏi vì mình xấu hơn, nghèo hơn, kém sang trọng hơn người khác. Những điều đó không có liên quan. Giá trị của chúng ta bắt nguồn từ sự chính trực của chúng ta đối với nguyên tắc “chính Bắc”.

Khi vấp ngã hay mắc sai lầm, hay vi phạm nguyên tắc, chúng ta hãy tự hỏi: “Mình rút ra bài học gì từ điều này?”. Chúng ta tìm đến nguyên tắc là để học hỏi. Khi nhận ra mình làm sai nguyên tắc ở điểm nào, chúng ta sẽ biến điểm yếu thành điểm mạnh. Hãy hành xử theo chân lý thể hiện niềm tin vào chân lý và nhận rõ khả năng học tập và thay đổi của bản thân.

Tính khiêm tốn là mẹ đẻ của mọi đức hạnh. Nó giúp chúng ta coi mình như một con thuyền, chiếc xe, hay một tác nhân chứ không phải là “nguồn gốc” hay nhân vật chính. Nó giải phóng mọi khả năng học tập, phát triển và các quá trình khác. Với tính khiêm tốn có được từ lối sống dựa vào nguyên tắc, chúng ta được tăng thêm sức mạnh để rút ra bài học từ quá khứ, hy vọng vào tương lai, và hành động với niềm tin vào hiện tại. Niềm tin này là một sự bảo đảm, dựa trên cơ sở đã được chứng minh của “Quy luật trồng trọt” – vốn có mặt ở khắp nơi trên thế giới, xuyên suốt trong lịch sử và trong cuộc sống của chúng ta – rằng nếu chúng ta hành động dựa vào các nguyên tắc, nó sẽ đem lại kết quả một cuộc sống có chất lượng.

Chuyển sang thế hệ quản trị thời gian thứ tư

Kinh nghiệm cho chúng tôi thấy rằng những ai hiểu sâu sắc về kinh nghiệm của bản thân và kinh nghiệm của người khác sẽ biết rằng tất cả chúng ta đều có các nhu cầu cơ bản và các năng lực thiết yếu cho sự mãn nguyện của con người. Họ đều tự nhận thức được các nguyên tắc “chính Bắc” chi phối chất lượng cuộc sống chúng ta. Họ có những kinh nghiệm về các khả năng thiên phú giúp họ liên kết cuộc sống với nguyên tắc “chính Bắc”. Xét về một số khía cạnh, chương này là sự nhắc nhở chúng ta về những điều chúng ta đã biết từ sâu trong lòng mình. Sự thật là chúng ta đã biết về nó – nhưng không biến nó thành hiện thực trong cuộc sống. Đây là hệ quả đáng thất vọng do sự khác biệt giữa chiếc đồng hồ và cái la bàn gây ra. Có người nói, vấn đề của chúng ta là làm sao “sử dụng được sự hiểu biết mà chúng ta đã có”.

Một kinh nghiệm khác của chúng tôi là hầu hết mọi người thực sự muốn thuộc về thế hệ quản trị thời gian thứ tư. Họ muốn đặt yếu tố con người lên trước lịch công tác, cái la bàn lên trước kim đồng hồ. Họ muốn sống một cuộc sống có ý nghĩa và có cống hiến. Họ muốn sống, yêu thương, học tập và để lại di sản với sự cân bằng và niềm vui.

Nhưng thường thì cách quản trị thời gian truyền thống lại ngăn cản điều đó. Những lịch công tác và kế hoạch làm việc, cũng như các công cụ lập kế hoạch của thế hệ thứ ba làm cho chúng ta chúi đầu vào những việc khẩn cấp thay vì quan trọng. Chúng làm cho chúng ta cảm thấy có lỗi mỗi khi không bám theo lịch công tác hay gạch bỏ “việc cần làm” trong danh sách kế hoạch làm việc. Chúng ngăn cản sự linh hoạt và tự điều chỉnh. Chúng thường tạo ra sự ngăn cách giữa điều thực sự quan trọng và lối sống hàng ngày của chúng ta.

Chắc hẳn chúng ta ai cũng muốn có được lợi ích lớn nhất từ cách quản trị của thế hệ thứ ba – hiệu suất làm việc, thứ tự ưu tiên, năng suất lao động, việc đạt các mục tiêu – nhưng chúng ta còn cần nhiều hơn thế. Làm nhiều điều nhanh hơn không thể thay thế cho việc làm điều đúng. Chúng ta cần có lý thuyết và công cụ của một thế hệ quản trị thời gian có khả năng làm tăng sức mạnh cho chúng ta để ta có thể sử dụng các khả năng thiên phú nhằm thỏa mãn các nhu cầu cơ bản và các năng lực của chúng ta theo cách cân bằng và dựa vào nguyên tắc.

Cuối cùng, sức mạnh tạo ra cuộc sống có chất lượng không phải là thứ nằm sẵn trong các bản kế hoạch công tác. Nó cũng không nằm trong bất kỳ kỹ thuật hay công cụ quản trị thời gian nào. Nó cũng không thuộc phạm vi năng lực lập kế hoạch của chúng ta. Không ai trong chúng ta có thể biết hết mọi thứ. Chúng ta không biết được những cơ hội nào, thách thức nào, sự bất ngờ, nỗi buồn, hay niềm vui bất ngờ nào sẽ đến với cuộc sống của chúng ta trong thời gian tới.

Sức mạnh tạo ra một cuộc sống có chất lượng nằm trong con người chúng ta – trong khả năng chúng ta phát triển và sử dụng cái la bàn nội tâm của mình sao cho ta có thể hành động một cách chính trực vào thời điểm cần có quyết định, bất kể đó là thời điểm được dùng cho việc lập kế hoạch tuần, xử lý khủng hoảng, làm theo tiếng gọi của lương tâm, xây dựng mối quan hệ, làm việc với một khách hàng đang tức giận, hay đi dạo bộ. Để đạt được hiệu quả thì một công cụ cần phải đáp ứng được sự phù hợp với thực tại, đồng thời có thể thúc đẩy sự phát triển và sử dụng cái la bàn nội tâm trong chúng ta.

a

a

Trong phần này chúng tôi sẽ giới thiệu quy trình tổ chức công việc trong Phần tư thứ II – một quy trình 30 phút hàng tuần và là công cụ giúp bạn tạo ra cuộc sống có chất lượng dựa vào các nhu cầu, nguyên tắc và khả năng thiên phú. Khi đi vào từng phần của quy trình này, chúng tôi sẽ nêu các vấn đề sau đây:

• Giả sử bạn đang lập kế hoạch cho một ngày. Làm sao bạn biết được điều gì là thực sự quan trọng nhất mà bạn sẽ làm? Cái gì quyết định “những điều quan trọng nhất” của bạn – tính khẩn cấp, các giá trị... hay là một viễn cảnh mạnh mẽ và sứ mệnh được xây dựng dựa trên các nguyên tắc tạo ra cuộc sống có chất lượng?

• Bạn sẽ làm gì khi cảm thấy băn khoăn giữa các vai trò khác nhau trong cuộc sống của mình, như công việc và gia đình hay sự cống hiến và sự phát triển cá nhân? Có phải “sự cân bằng” nghĩa là chạy nhanh như con thoi để làm được tất cả?

• Giả sử bạn có một ngày mà bạn dự định sẽ làm việc theo kế hoạch định trước thì có người đến gặp bạn với một nhu cầu “khẩn cấp”. Làm sao bạn biết được “tốt nhất” là mình nên làm gì? Bạn có nên thay đổi các ưu tiên công việc của bạn? Liệu bạn có thể thay đổi lịch làm việc với niềm tin và sự yên tâm rằng bạn đang ưu tiên cho điều quan trọng nhất?

• Giả sử bạn đang trải qua một ngày làm việc bình thường thì một cơ hội bất ngờ ập đến. Làm sao bạn biết được “tốt nhất” là bạn nên đáp ứng cơ hội đó hay nên bám giữ kế hoạch của mình?

Sử dụng quy trình này lần đầu cũng đủ để bạn cảm thấy những lợi ích tức khắc của nó. Bạn có thể bắt đầu chuyển sự tập trung từ “tính khẩn cấp” sang “tầm quan trọng” và học cách tạo ra một khuôn khổ linh hoạt cho việc đưa ra quyết định có hiệu quả thay vì bám vào lịch làm việc cứng nhắc.

Nhưng bạn sẽ trải qua quy trình ở mức độ cao hơn nhiều khi chúng ta đi sâu hơn qua các bước ở Chương 5 đến Chương 10. Trong các chương này, chúng ta sẽ nói về các vấn đề sau:

• Sức mạnh làm biến đổi của một tầm nhìn và sứ mệnh dựa trên nguyên tắc.

• Làm thế nào để tạo ra sự cân bằng và sự hiệp lực giữa các vai trò khác nhau trong cuộc sống của bạn.

• Làm thế nào để đặt ra và thực hiện được các mục tiêu dựa vào nguyên tắc.

• Vì sao cách nhìn thời gian theo tuần tạo sự khác biệt quan trọng trong việc ưu tiên cho điều quan trọng nhất.

• Làm thế nào để hành động với sự chính trực vào mỗi thời điểm ta đưa ra lựa chọn – dù cho đó là lúc khó khăn nhất của cuộc sống thường ngày.

• Làm thế nào để tiến bộ không ngừng trong học tập và trong cuộc sống.

Trong phần cuối của mỗi chương, bạn sẽ tìm thấy những gợi ý cụ thể về các mục tiêu mà bạn cần đặt ra khi tổ chức công việc hàng tuần để gắn kết những vấn đề này vào cuộc sống của bạn. Có thể bạn sẽ cảm thấy gợi ý này có ích hơn cho bạn so với gợi ý kia. Chúng tôi hy vọng bạn sẽ nảy ra nhiều ý tưởng của riêng mình. Sau khi đọc hết các chương này, bạn sẽ quay trở lại quy trình với cách nhìn mới. Bạn sẽ thấy vì sao qua thời gian, việc tổ chức công việc Phần tư thứ II có thể tăng sức mạnh cho bạn để sống, để yêu thương, học tập và để lại một di sản lớn và lâu bền.

Chìa khóa đưa ta đến cuộc sống có chất lượng là nằm ở cái la bàn – nó nằm trong những lựa chọn mà ta đưa ra hàng ngày. Khi biết cách cân nhắc trong khoảng trống giữa tác nhân và phản ứng, đồng thời biết tham khảo cái la bàn nội tâm của mình, chúng ta có thể đối mặt với sự thay đổi một cách thẳng thắn, với niềm tin rằng chúng ta sống trung thực với các nguyên tắc và mục đích của mình. Và điều đó có nghĩa là chúng ta đang ưu tiên cho điều quan trọng nhất trong cuộc sống của chúng ta.

a

a

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 7
  • 8
  • Sau