Callum
Suốt bảy tuần tươi đẹp, chúng tôi thảnh thơi bên bờ biển, tận hưởng tất cả những khoảnh khắc vô tư lự bên nhau. Có thể Lilah mắc nghẹn thức ăn và thậm chí là nước thường xuyên hơn; có thể những chuyển động giật cục của nàng đang trở nên dễ thấy hơn và liên tục hơn; có thể nàng đang trở nên lú lẫn và những công việc hàng ngày đối với nàng khó khăn hơn; có thể nàng hay sẩy chân hơn - đó là nếu tôi để ý thấy, nhưng tôi không bao giờ thừa nhận nó, ngay cả với chính bản thân mình.
Peta ngày nào cũng đến. Đôi khi bà đến ăn sáng và mang cho tôi thịt lợn muối xông khói và dù Lilah đảo mắt với hai cô cháu, tôi với Peta vẫn ngồi ngấu nghiến chỗ thịt đó cứ như hai đứa trẻ tấn công nơi cất giấu kẹo que. Chúng tôi cũng gặp Leon và Nancy suốt bởi vì họ dành cả ngày trong vườn ngay bên ngoài nhà chúng tôi. Nancy thường xuyên làm như tình cờ nấu thức ăn dư ra và bảo chúng tôi ăn “đồ thừa” chay trông còn tươi ngon nóng sốt một cách đáng ngờ hoặc bánh nướng mới ra lò do bà làm. Karl thỉnh thoảng gọi đến thăm hỏi. Họ là những sự kết nối duy nhất của chúng tôi bên ngoài ngôi nhà bên bờ biển, vì tôi chỉ biết có Lilah và nàng chỉ biết có tôi. Chúng tôi làm thật nhiều sinh kế trong bảy tuần đó, nhất là đối với hai người rời khỏi nhà chỉ để mua những vật dụng hàng ngày.
Đó là một thời kỳ vàng son; tất cả đều ổn ngoại trừ những đám mây mù xa xa nơi đường chân trời và tôi cương quyết phớt lờ chúng cho đến khi không còn có thể nữa.
Lynn nói chuyện với Lilah trên Skype vài ngày một lần, nhưng có một lần, đột nhiên cô quyết định cần khám lại cho Lilah, nên chúng tôi miễn cưỡng khăn gói lên đường trở lại căn hộ của nàng ở Manly. Ngay khi chúng tôi bước vào trong, tôi nhìn qua những cánh cửa kính ra khu vườn hoàn toàn trơ trụi ngoài ban công và cố cưỡng lại cái thôi thúc muốn bịt mắt Lilah.
“Í ẹ, hôi quá,” là tất cả những gì Lilah kêu than. Nàng đi ngay đến cửa và mở toang nó ra. “Anh không ghét cái mùi mốc meo ấy à? Căn hộ của anh chắc còn tệ hơn. Chúa ơi, mình bỏ bê nơi này sáu tháng rồi đấy.”
Không phải. Chỉ bảy tuần thôi, cũng là bảy tuần tôi dồn toàn tâm toàn ý vào thế giới của nàng và nếu căn hộ của tôi có cháy rụi thì có lẽ tôi cũng chẳng để tâm. Tôi lặng lẽ quan sát nàng.
“Lạnh khiếp, đúng không? Để thoáng khí một lát rồi hãy bật máy sưởi.” Nàng trở vào phòng khách, chùi tay lên mặt một chiếc trường kỷ và thở dài. “Bụi ghê quá. Cal, anh lấy miếng giẻ lau đồ đạc chút được không? Em cần tìm một chiếc áo khoác.”
Lilah không đợi câu trả lời mà cứ thế đi vào phòng ngủ luôn.
Suốt một giờ đồng hồ kế tiếp, tôi đợi Lilah phát hiện ra đám cây chết khô ngoài ban công và nét thất vọng hiện trên khuôn mặt nàng. Nàng mặc vào một chiếc áo khoác, nhưng trời vẫn lạnh. Nàng cố mặc thêm quần ấm, nhưng hai tay nàng vẫn run, nên tôi phải giúp nàng và cuối cùng tôi đặt nàng lên trường kỉ với hai đôi vớ và một cái chăn. Xong xuôi đâu đó tôi tin chắc nàng sẽ ra ban công và tôi có thể an ủi nàng.
Thay vì thế, Lilah bắt đầu bấm kênh truyền hình nhoay nhoáy, những chậu cây chết chỉ một mét đằng sau nàng và nàng vẫn chưa hề để mắt đến.
Nhiều phút sau, tôi cố khơi chuyện.
“Anh rất tiếc về cái ban công, Ly à.”
Lilah nhìn tôi trống rỗng.
“Mấy chậu cây ấy?” Tôi gợi.
Khi nàng vẫn không nhận ra, tôi đành chỉ tay về phía mấy chậu cây chết khô. Lilah ngoái đầu nhìn ra ban công, rồi nàng so vai như thể chúng tôi đang nói chuyện về thời tiết.
“Bình thường thôi mà. Mua cây khác.”
Đó là dấu hiệu đáng lo ngại. Thực ra chúng đã xuất hiện, nhưng tôi luôn tìm cách tránh né, cho đến chính khoảnh khắc đó. Giờ thì tôi đành phải thừa nhận với bản thân rằng kỳ trăng mật đã đến hồi kết.
Suốt vài ngày kế tiếp, Lilah trải qua một loạt các xét nghiệm và Lynn cho biết tình trạng của nàng không khả quan.
“Trí nhớ của chị ấy bắt đầu bị tấn công dồn dập,” cô nói. “Và những kiểm tra về nhận thức cho thấy khả năng lập luận, xâu chuỗi sự việc và giải quyết vấn đề của chị ấy suy giảm đáng kể. Khả năng nuốt thậm chí còn tệ hơn. Gần đây chị ấy mắc nghẹn ngày càng nhiều phải không?”
Đúng vậy. Tôi không muốn nói thành tiếng điều đó. Tôi đã cất công cắt nhỏ thức ăn để khuyến khích nàng ăn từ từ từng chút một, nhưng cũng không có hiệu quả.
Lynn đặt tay lên tay tôi.
“Callum, tôi xin lỗi, nhưng anh sẽ phải đưa chị ấy đi khám thường xuyên hơn. Có một phòng khám hàng tuần ở Newcastle và tôi sẽ gặp anh ở đấy. Như thế dễ dàng hơn. Trong trường hợp như vậy, có lẽ ta cần ngưng tiếp dinh dưỡng bằng đường miệng mà thay bằng ống truyền trong tương lai gần. Chị ấy không bị viêm phổi trở lại là điều thần kỳ và hai người cũng đã có cùng nhau những phép màu. Chúng ta không thể đòi hỏi thêm nữa.”
Trong khi Lynn và tôi gặp nhau, Lilah đang chụp MRI và suốt thời gian đó tôi biết điều tồi tệ nhất đã đến – nói cho Lilah biết sự thật. Khi quay lại chỗ chúng tôi, nàng mệt vì phải trải qua hết xét nghiệm này đến kiểm tra nọ và trước khi Lynn kịp nói, nàng giơ tay chặn lại.
“Tôi biết. Tôi biết chúng ta đang thả dốc lần cuối tại đây và tôi biết bệnh tình đang diễn biến nhanh hơn chúng ta hy vọng. Mọi thứ đang bắt đầu biến dần và tôi biết cô muốn làm nhiều hơn nữa để giảm nhẹ những triệu chứng nhưng…”
Chúng tôi có nói gì như thế đâu và tôi tưởng rằng Lilah không biết, như tôi đã ước nàng không biết. Nàng nhìn tôi; bóng tối trong đôi mắt xanh của nàng khiến tôi quá đau lòng.
“Chúng mình đã tận hưởng thời gian bên nhau như thế đủ rồi, Cal. Lần tới bị viêm phổi em sẽ không điều trị và em sẽ để nó đưa em đi. Anh hiểu không?”
Giọng nàng mạnh mẽ nghe thật đáng kinh ngạc. Thậm chí nó có vẻ như bớt lè nhè khi sự ương bướng trỗi dậy.
“Đó hoàn toàn là lựa chọn của chị, Lilah,” Lynn nói khẽ.
“Callum cần hiểu, không phải cô.” Ánh nhìn của Lilah sắc lẹm găm vào tôi. “Và anh cần đảm bảo là mẹ hiểu. Em không muốn hai người phớt lờ những ước muốn của em khi em không thể biểu đạt được ý mình.”
“Anh hiểu mà.” Tôi gần như không thể thốt ra được một lời thì thầm, chứ đừng nói là một câu. Tôi lần tìm tay nàng và ứa nước mắt. Chỉ một vài tháng ngắn ngủi cùng nàng đối mặt với căn bệnh quái ác, tôi hiểu là không thể từ chối ý định đó. Tôi sẽ chẳng bao giờ biết được làm thế nào người ta có thể chịu đựng căn bệnh này hàng chục năm. “Anh bảo đảm những mong ước của em được tôn trọng. Anh hứa.”
Lilah cũng khóc. Nàng kéo tôi sát lại, áp mặt tôi lên cổ nàng như thể tôi mới là người ốm và lùa tay vào tóc tôi.
“Cảm ơn anh,” nàng thì thầm. “Cảm ơn anh, Callum.” Rồi nàng đột ngột dứt ra và chùi nước mắt với sự cương quyết cao độ. Khi làm thế cũng không hiệu quả, nàng nhắm nghiền mắt và hít sâu để lấy lại bình tĩnh.
Khi nàng mở mắt ra lại, chúng lấp lánh ánh tinh nghịch. Nàng cười toe, rồi nháy mắt với tôi.
“Được rồi, đưa em tới quán Manly Inn đi, Cal. Em đang có hứng muốn thưởng thức vài miếng bít tết nhỏ xíu đây.”
Không hiểu sao tôi biết đây sẽ là lần cuối cùng chúng tôi ở bên nhau tại căn hộ của Lilah. Hẳn là nàng cũng biết thế.
“Em cần vài phút ở đây một mình, Cal.”
Mấy túi xách nằm ngay cửa và tôi không thể nghĩ ra một cái cớ nào để từ chối nàng. Dù sao tôi cũng ngập ngừng.
“Nếu anh chỉ…”
Nàng đảo mắt và đẩy tôi về phía cửa.
“Đi dạo một lát đi, Callum. Uống cà phê hay cắt tóc hoặc mua cho em một que kem. Em chỉ cần mười phút thôi. Em hứa là em sẽ ở đây khi anh quay lại.”
Tôi vào thang máy xuống tầng, nhìn chằm chằm mình trong gương và biết mình không bao giờ tha thứ cho bản thân nếu có chuyện gì đó không hay xảy đến với nàng trước khi tôi quay lại. Khi thang máy dừng ở tầng trệt, tôi băng qua sảnh ra cửa trước. Nhớ lần đầu tiên đến đây, tôi đã cảm thấy choáng váng và lạc lõng đến thế nào khi chứng kiến tòa nhà của nàng mới và đặc biệt ra sao. Giờ đây nhà nghĩa là nơi có Lilah. Làm sao tôi có thể tìm thấy nhà sau khi nàng ra đi?
Đừng nghĩ về chuyện đó. Đừng nghĩ về chuyện đó.
Tôi trở lại thang máy và ấn nút tầng năm, một, hai, ba lần, cố buộc nó nhanh lên. Cửa thang mở và một trong những người trong thang bước ra, cười nhạt với tôi khi tôi vội lấn đi sượt qua anh ta.
Cửa thang máy mở trên tầng của nàng ngay lúc nàng đá cái túi xách cuối cùng của chúng tôi ra hành lang.
“Em bảo mười phút cơ mà.” Nàng cáu. “Chết tiệt, Callum. Anh còn chưa rời khỏi tòa nhà.”
“Anh…” Tôi nhìn mấy cái túi. “Lẽ ra em nên để anh làm việc đó.”
“Giờ xong rồi.”
“Em đã làm gì vậy?”
Nàng cau mày.
“Anh nghĩ chúng mình có thể đi ăn kem không?”
Có phải là một cách đánh lạc hướng không? Tôi không biết và tôi biết mình không thể cố tìm hiểu. Tôi cầm lên mỗi tay một túi xách.
“Được rồi. Em đi được không?”
“Chỉ cách một dãy nhà thôi mà.” Nàng sốt ruột và cáu bẳn. “Đương nhiên em đi được.”
Sau khi xếp hành lý gọn gàng trên xe, tôi nắm tay Lilah và hai đứa đi dọc theo bờ biển về phía Corso, như chúng tôi đã làm vô số lần suốt những tháng đầu tiên quen nhau. Khi chúng tôi đến gần tiệm kem, nàng buông tay tôi ra và chỉ vào một cửa hàng quần áo.
“Nhớ ngày hôm đó không?”
Lilah đã thử bao nhiêu là mũ, tôi đợi trên băng ghế bên ngoài và ngắm nàng qua lớp kính. Nàng trông như một người mẫu đẳng cấp quốc tế và tôi bị choán lấy bởi một sự thôi thúc lạ lùng muốn diễn cùng nàng – quá khác tôi, nhất là khi ấy. Như thể chúng tôi là hai đứa trẻ thích nô giỡn, tôi vờ mình đang cầm máy ảnh và nàng cười lớn với tôi và cũng diễn theo.
“Anh nhớ có chiếc mũ hình như là màu đen. Không ai khác trên thế giới này có thể đội nó…. trừ em,” tôi thì thầm.
“Nhớ quán mì không?”
“Anh tưởng em sẽ bị bắt rồi ấy chứ?”
“À, nếu vậy chắc là vui lắm.”
“Em thích kem vị gì?” Tôi hỏi nàng.
“Đậu nành dừa…” Nàng bắt đầu, rồi dừng lại. “Kem nước quả sô-cô-la gấp ba lần, với nhiều kem đặc và rắc sô-cô-la.”
Tôi hôn lên trán Lilah và giúp nàng ngồi vào một chiếc ghế thấp đằng trước. Chúng tôi luôn ngồi trên những ghế đẩu cao hơn dọc theo cửa sổ, nhưng thói quen đó lúc này quá mạo hiểm. Chúng tôi có thể ngồi ăn kem với nhau như xưa, nhưng không thể vờ như mọi chuyện chưa hề thay đổi.
Tôi lấy cho Lilah đúng loại nàng yêu cầu, dù cả hai đều biết nàng sẽ chỉ liếm chút đỉnh trong muỗng. Dù vậy cũng không thành vấn đề, không chút nào. Nàng sẽ thưởng thức chút đỉnh đó và tôi sẽ đắm mình trong niềm vui tỏa rạng khuôn mặt Lilah khi nàng ăn kem.
Mọi thứ xảy ra quá nhanh từ khi đó. Như thể Lilah đã dùng tâm trí để ngăn thần chết tránh xa mình một thời gian, nhưng rồi ngay cả sự quyết liệt của nàng cũng phải đầu hàng.
Chưa đầy một tuần sau khi chúng tôi gặp Lynn, nàng lên cơn sốt nhẹ. Ban đầu tôi không lo; nàng có vẻ thoải mái và cam đoan với tôi là nàng không đau đớn gì. Dấu hiệu duy nhất của vấn đề là mắt nàng có vẻ đờ đẫn và rồi tôi thấy cẳng tay của nàng nóng ran khi tôi sờ vào.
Tôi kiên quyết ép nàng uống paracetamol và ngủ chập chờn bên nàng khi cơn sốt đến rồi đi và đến sáng nàng bắt đầu ho khúc khắc.
Rồi cơn sốt quay lại, nhưng lần này nó không hạ. Lilah chỉ muốn ngủ và khi thức dậy, nàng vẫn còn mệt. Tôi gọi cho Lynn và cô gửi đến một bác sĩ đa khoa địa phương. Khi nàng ngủ, anh ta lắng nghe hơi thở nàng và rồi ngước lên nhìn tôi.
“Viêm phổi rồi,” anh ta khẽ xác nhận. “Nghe nói chị ấy từ chối chữa trị đúng không?”
Tôi nhìn chằm chằm xuống Lilah. Hai má nàng đỏ bừng. Rất hiếm khi nhìn thấy màu trên làn da trắng bệch của nàng.
“Đó là cô ấy nói thế.”
“Tôi sẽ trở lại vào buổi sáng. Nếu chị ấy tệ hơn trong lúc đó, hãy gọi lại cho tôi và chúng ta có thể nói nghiêm túc hơn về việc giảm đau.”
“Cô ấy sẽ chỉ ngủ như thế này?” Tôi đã có cơ hội để trò chuyện với nàng, chia sẻ những khoảnh khắc vui vẻ cùng nhau, để nói lời tạm biệt… có phải nó đã trôi qua mà tôi không biết gì?
“Khó nói lắm,” viên bác sĩ so vai. “Nếu chúng ta tiêm cho chị ấy ít thuốc giảm đau, chị ấy có thể ngủ tiếp. Nhưng… chị ấy sắp rời khỏi anh rồi.” Nét mặt anh ta dịu lại. “Anh nên có thời gian để nói lời tạm biệt.”
Lilah thức giấc vào chiều hôm ấy và ăn thỏ thẻ một ít súp. Không hiểu sao trông nàng khỏe hơn, thậm chí còn đòi ra trường kỉ để xem TV một lát.
Tôi lướt qua các kênh, tìm kiếm gì đó có thể hấp dẫn nàng, thì nàng bỗng nắm lấy tay tôi chặt đến mức tôi rú lên.
“Anh gọi mẹ và bảo bà đến đây ngay.”
Tôi làm như được bảo và trong vài phút Peta có mặt, túi xách trong tay, sẵn sàng ở lại lâu. Bà tự đi vào và tiến thẳng đến chỗ Lilah trên trường kỷ. Bà khom người trước con gái, lần tìm cả hai tay nàng và họ nhìn đăm đăm vào nhau một lúc lâu nhất từ trước đến giờ. Cảnh tượng ấy khiến tôi cảm thấy mình thừa thãi.
Rồi, không nói một lời, Peta đứng thẳng người lên.
“Để mẹ dọn giường trong phòng cho khách.”
Những ngày kế tiếp, tôi lần đầu tiên nếm trải sự vắng mặt của Lilah. Nàng vẫn còn ở đó, nhưng ngày của chúng tôi hoàn toàn bị lấp đầy bởi căn bệnh của nàng và nàng ốm đến mức chẳng làm được gì ngoài việc nghỉ ngơi. Những ngày bị lấp đầy bằng sự đau đớn – thể xác đối với Lilah và tinh thần đối với tôi và Peta – chỉ được ngắt quãng bằng thuốc men và những lần đến thăm khám của bác sĩ.
“Trước giờ cô ấy có bao giờ ốm như thế này không?” Tôi hỏi Peta, trong khi Lilah rên rỉ và nửa thức nửa tỉnh trên giường trước mặt chúng tôi. Tôi biết nàng bị viêm phổi nhiều lần trong khi chúng tôi xa nhau và bằng cách nào đó nàng đã bình phục. Xem nào, chắc chỉ là một cảnh báo sai thôi và nàng sẽ ngủ chập chờn suốt nhiều ngày rồi thức dậy và đòi trà xanh.
“Không phải đâu,” Peta nói khẽ. “Cô nghĩ đã đến lúc.”
Khi tôi gọi, Lynn đi xe từ thành phố về ngay và sau khi khám cho Lilah cô kéo tôi ra ngoài hiên.
“Tôi không biết việc này kéo dài bao lâu, Cal. Tôi vừa mới tạo một ống tiêm tĩnh mạch cho chất lỏng và một dụng cụ morphine tự thực hiện vì chị ấy đang rất đau đớn nhưng…” Trông cô mệt mỏi và xúc động. Tôi hiểu rất rõ. Về mặt thể chất, tôi cảm thấy mình không thể ngủ say được nữa, tôi sợ khi thức dậy phát hiện ra Lilah đã tắt thở bên cạnh. Dù vậy về mặt tinh thần, tôi quá mệt, chỉ biết rằng người yêu của mình đang mất dần sự sống ngay trước mắt và tôi chẳng thể làm gì để ngăn nó lại. “Trong ít ngày tới, chị ấy có thể cứ thế ra đi bất kỳ lúc nào,” Lynn thì thầm và trước sự kinh ngạc của tôi, cô bỗng khóc nức lên. “Tôi xin lỗi. Tôi biết như thế này là không chuyên nghiệp, nhưng tôi đã điều trị cho chị ấy nhiều năm và…”
Lynn hít vài hơi khó nhọc và đưa cả hai tay quệt lên mặt, quay đi trong một lúc, lấy lại bình tĩnh rồi mới quay mặt lại đối diện với tôi.
“Chúng ta cố gắng chữa trị bệnh không thể trị đã không phải là điều dễ dàng,” cô nói nhỏ. “Chị ấy chọn không chữa bệnh viêm phổi, đó không phải là cách chết dễ chịu. Chị ấy có thể sẽ bị sốt kéo dài và cuối cùng là mất ý thức. Việc thở của chị ấy sẽ trở nên khó nhọc, tốc độ thở có thể tăng và giảm, có lúc chị ấy sẽ thở hổn hển có lúc lại khò khè… nhưng những điều này chỉ là phản xạ, là một phần của quá trình. Chỉ cần tiêm morphine để chị ấy không phải chịu đau đớn, nhưng không thể dùng quá liều được. Khi chị ấy qua đời, hãy gọi xe cứu thương ngay khi anh có thể và giải thích tình hình.”
Tôi biết đã đến lúc khó khăn nhất, nhưng chứng kiến sự dứt khoát trên khuôn mặt Lynn và lời nói của cô, tôi đột nhiên sụp đổ.
“Liệu… chúng ta có thể làm gì để giúp cô ấy thoải mái không?” Tôi không thể làm trái ý muốn của Lilah, sau khi chứng kiến tình trạng của nàng mỗi lúc một tồi tệ. Làm sao tôi có thể đòi hỏi nàng ở lại với chúng tôi, khi biết rằng thế nào rồi nàng cũng ra đi? Sự ngạo mạn của tôi, sự tự tin của tôi – tất cả đã tan biến. Giờ thì tôi đành chiều theo mọi ý muốn của Lilah. Tôi chứng kiến thế là đủ rồi.
“Tôi sẽ cho lắp bình ô-xy,” Lynn hứa. “Tôi sẽ không cố chữa cho chị ấy nữa, nhưng sẽ có mặt bất kỳ lúc nào anh cần.” Cô rút trong túi ra một mảnh giấy ghi nguệch ngoạc một số điện thoại trên đó. “Đây là số điện thoại nhà và điện thoại riêng của tôi. Tôi sẵn lòng đến đây bất kỳ lúc nào, cả ngày lẫn đêm.”
“Cảm ơn cô.”
Tôi đón lấy mảnh giấy và cho nó vào túi quần jean. Đại dương tiếp tục cuộn sóng bên dưới chúng tôi. Những con sóng hối hả xô bờ là điều không thể tránh khỏi, cũng như cuộc đời tất yếu phải có hội ngộ và chia ly; nhưng nỗi đau là có thật và mấy ai chấp nhận dễ dàng. Lynn bỗng cầm lấy tay tôi.
“Callum, nếu anh thấy việc này quá sức chịu đựng thì hãy về nhà. Peta đã từng trải qua một lần, bác ấy có thể trụ được.”
Tôi chùi mặt và lắc đầu.
“Tôi muốn một phần mỗi hơi thở của cô ấy, cho đến phút cuối, cho dù có như thế nào.”
Lynn gật đầu rồi ra về, nhưng tôi mất vài phút ngoài hiên mới dám trở về phòng ngủ, nơi Lilah quá đỗi dấu yêu của tôi có vẻ như đang sắp sửa rời khỏi tôi vĩnh viễn.
Hầu hết thời gian tôi và Peta ngồi trong phòng Lilah. Cứ như chúng tôi thức đêm để trông nom em bé ốm.
Chúng tôi thay phiên nhau túc trực bên giường bệnh, nằm bên Lilah trong khi nàng nghỉ ngơi. Nàng ngủ nhiều; ngay cả khi cơn sốt đến, nàng vã mồ hôi và cựa quậy liên tục, nàng vẫn ngủ. Chúng tôi nói với nàng nhiều điều thân mật và riêng tư đến mức tôi không thể nào nhắc lại được. Peta nói theo cách của một người mẹ đã mang nặng đẻ đau và yêu thương nàng vô bờ bến suốt bốn mươi năm, còn tôi theo cách một người yêu chỉ muốn có thêm bốn mươi năm nữa với nàng. Một mạng lưới của sự riêng tư được hình thành, hình tam giác giữa chúng tôi chặt chẽ đến mức chúng tôi có thể nói bất kỳ điều gì mà không dè dặt câu nệ.
Trong tình huống tồi tệ nhất vẫn tồn tại điều tốt đẹp. Peta và tôi không ngại ngần thốt lên những lời an ủi đầy tình cảm trong khi Lilah chìm vào những cơn mê sảng.
Tôi thấy hình như Lilah khỏe hơn vào ngày kế tiếp. Nàng đủ tỉnh táo để ăn chút trứng bác và chúng tôi trò chuyện chút đỉnh vào buổi chiều. Nhất là, những cơn ho của nàng có vẻ như thuyên giảm và tôi tự hỏi phải chăng đây chưa thực sự là cuộc chiến cuối cùng của nàng mà chỉ là một trận chiến nữa mà cơ thể nàng sẽ phải chiến đấu.
“Hôm nay con không muốn gặp vị bác sĩ địa phương đó đâu,” nàng đột ngột tuyên bố vào giữa ngày. Peta cau mày.
“Lilah, liệu thế có khôn ngoan không?”
“Thế thì sao nào, làm con chết đi chắc?” Giọng điệu hài hước tàn nhẫn của nàng không chút biểu cảm. Nàng lắc đầu. “Mẹ à, đây không phải là lúc dành cho người lạ và vị bác sĩ đó không thể làm gì cho con cả.”
“Anh có thể mời Lynn đến?” Tôi gợi ý và Lilah lắc đầu. “Không. Em chỉ muốn có mẹ và anh lúc này thôi. Bác sĩ thì mai đến cũng được.”
Peta nhìn tôi so vai bất lực, tôi thở dài đứng lên gọi điện bảo bác sĩ địa phương không cần tới. Lilah bảo chúng tôi đọc cho nàng nghe vài cuốn sách nàng thích và lắng nghe chút nhạc khi nàng nghỉ ngơi. Đêm đến, Peta về phòng nghỉ và Lilah nép vào tôi.
“Giờ em có đau không?” Tôi hỏi nàng. Nàng đã không dùng đến morphine một thời gian, tôi nghĩ vậy, vì có thể lúc đó tôi không để ý.
“Em không sao,” Lilah thì thầm. Giọng nàng vẫn còn khàn. “Em rất vui khi có anh, Callum. Em biết chuyện này đối với anh rất kinh khủng.”
“Thế này nhé,” giọng tôi mạnh mẽ một cách giả dối, “anh không biết sẽ ra sao sau khi em đi, nhưng được biết em vẫn tốt hơn.”
“Anh phải cưới ai đó.” Giọng nàng nhẹ nhàng, lại bỡn cợt và rồi trong vòng một nốt nhạc, nghiêm túc một cách đáng sợ. “Anh phải tìm ai đó, Cal. Anh phải cưới vợ và có con. Anh phải làm điều đó.”
Tôi lắc đầu và nước mắt ứa ra.
“Saoirse, đừng nói điều đó lúc này.”
“Ồ, khỉ thật, thời gian sống của em chỉ tính từng phút, đừng có lôi cái tên gây rắc rối của em ra lúc này chứ.” Nàng bật cười yếu ớt, nhưng đó là một tiếng cười, cho đến khi nàng lại nghiêm túc. “Hứa với em đi.”
“Anh không thể hứa điều đó được.” Trong tình cảnh này mà nàng còn đòi hỏi tôi làm cái chuyện chẳng ra sao đó. Trong một lúc tôi muốn nổi nóng lên với nàng. Em thực sự dám yêu cầu anh điều đó sao? Anh phải tìm em, yêu em và chứng kiến em chết, để em chết và trong khi đó em bắt buộc anh nghĩ về việc sống tiếp?
“Đương nhiên anh có thể. Anh đã gặp em, anh đã chăm sóc cho em và giờ em sắp chết. Em cần biết anh sẽ tìm một người khác – em thấy anh hạnh phúc như thế nào khi có ai đó để yêu thương trong đời.”
“Em mãi là người duy nhất trong đời anh, Ly ạ.” Nước mắt chực ứa ra. Nàng vỗ vào ngực tôi thật mạnh. Ngực tôi nhói đau.
“Khỉ thật! Thôi cái kiểu sướt mướt đó đi. Bọn mình không ủng hộ “tình yêu đích thực” sến súa đó, nhớ không? Anh sẽ tìm ai đó khác và em muốn anh bên cạnh cô ấy mà không cảm thấy tội lỗi rồi cưới cô ấy, cùng cô ấy có những đứa con khỏe mạnh, sống hạnh phúc cho đến cuối đời.”
Tôi biết trả lời như thế nào cho phải đây? Chúng tôi im lặng nằm bên nhau trong bóng tối căn phòng của nàng một lúc thật lâu. Cuối cùng nàng huých nhẹ vào ngực tôi và tôi vờ bị đau. Nàng trở nên yếu ớt và kiệt sức sau cuộc nói chuyện và cố ép tôi làm theo ý nàng.
“Anh hứa,” tôi thì thầm, dù tôi thậm chí chưa nghĩ đến việc mình sẽ thực hiện lời hứa đó như thế nào. Cũng không thành vấn đề. Cứ để nàng nghĩ tôi sẽ làm điều mình hứa là đủ.
“Tốt,” Lilah thì thầm đáp lại và dù nàng sốt trở lại, tôi cảm thấy hơi thở nàng chậm lại khi nàng ngủ say.
Chưa đến năm giờ sáng, Lilah đã đánh thức tôi dậy bằng một cú hích vào mạn sườn.
“Em muốn ăn quýt.”
Tôi mắt nhắm mắt mở ngồi dậy.
“Gì? Mấy giờ rồi?” Đồng hồ điện tử bên cạnh giường trả lời hộ nàng. 4:48 sáng.
“Anh lấy đèn pin ra vườn quýt đi,” nàng nói. Giọng nàng khàn khàn, hơi thở nặng nhọc và da nàng áp vào da tôi dưới chăn nóng như phải bỏng.
“Nó ở phía bên kia vườn cơ đấy,” theo phản xạ tôi cãi.
“Callum, đâu có tốn nhiều thời gian. Đi đi.”
Thế là, vẫn còn ngái ngủ, tôi rời khỏi phòng, tìm đèn pin và ra vườn. Trời lạnh, mùa đông đang mon men quờ bàn tay lạnh giá vào không khí và tôi có thể thấy hơi thở của mình vừa thoát ra lập tức biến thành sương giá. Tôi thuộc nằm lòng nơi này và dễ dàng tìm thấy cây quýt ngay cả khi trời tối mịt và chỉ một chốc tôi tìm thấy được trái quýt chín nhất. Khi quay vào trong ánh bình minh vừa ló dạng, tôi hình dung ra cảnh nàng lột trái quýt và thưởng thức vị ngọt của mỗi múi quýt. Sự thức giấc đột ngột của nàng khiến tôi nhớ lại cái đêm nàng đánh thức tôi cũng đường đột như thế để rủ tôi ra biển và điều đó dường như hợp lý và đúng đắn.
Khi tôi trở vào nhà, Peta vẫn còn ngủ và Lilah đang trở về giường. Tôi đoán là nàng đã đi vệ sinh và giận dỗi vì nàng đã cố làm vậy mà không có tôi. Chiếc đèn gần bàn đang sáng và chiếc bên cạnh giường cũng đã được bật lên. Nàng đi bước cuối cùng về phía giường và sốt ruột đón trái quýt từ tay tôi. Lilah ăn hết múi này đến múi kia không hề mắc nghẹn, như thể đó là một niềm vui tội lỗi khi được thưởng thức nó, một niềm vui lớn hơn thiếu sót thể chất của nàng.
“Ngon quá,” Lilah nói nhỏ khi đang ăn miếng cuối cùng. “Anh đánh thức mẹ dậy được không?”
“Còn sớm lắm, Ly.”
Nàng cầm tay tôi lên và đưa lên môi.
“Đã đến lúc rồi, Cal. Anh gọi mẹ dậy và đưa em ra hiên đi.”
Lilah nằng nặc đòi tôi bồng nàng ra ngoài hiên để ngắm mặt trời mọc. Thực tế, yêu cầu đó không phải là gì quá lớn lao, bởi lẽ nàng nhỏ bé yếu ớt và trong khi tôi ở ngoài vườn cây, nàng đã rút tiêm tĩnh mạch ra, nhưng theo trực giác tôi vẫn nhớ mình nên phản đối kịch liệt vì không khí lạnh băng có thể gây hại cho nàng.
Nhưng đôi mắt xanh xinh đẹp khẩn nài. Nếu nàng bảo tôi đi hoạn thì chắc tôi rốt cuộc cũng sẽ làm, nên chuyến đi bộ ngắn ra hiên không phải là một đòi hỏi. Bên ngoài trời lạnh ngắt, nên tôi bọc thân hình nhỏ bé mong manh của nàng vào chăn. Và tôi nhớ khi chúng tôi đi ngang qua laptop của nàng trên bàn, nàng khom người đóng sập nó lại khiến cả hai loạng choạng. Khi chúng tôi đi qua phòng khách nàng gọi mẹ thật to và rồi tôi mở hai cánh cửa kính và đặt nàng ngồi lên chiếc ghế mây như thể nàng là một chú chim non. Bóng tối đang lùi dần nhường chỗ cho những dải nắng mỏng tang yếu ớt ló ra khỏi đường chân trời và nàng cứ mỉm cười suốt.
“Hoàn hảo,” nàng thì thầm vào những thớ cơ trên cánh tay tôi, vì tôi không dám thả nàng ra khi đặt nàng xuống ghế. Nàng sốt, nhưng so với ngày hôm trước, có vẻ khỏe hơn. Chắc chắn hơi thở của nàng đã tốt hơn, ngay cả trong tiết trời lạnh băng. Không có gì giống như Lynn đã miêu tả.
“Hoàn hảo cho chuyện gì?” Tôi hỏi. Tôi hoang mang bởi sự mâu thuẫn trong lời nói và hơi thở run run vấn vít hương quýt phả vào mặt tôi, nhất là trông nàng rất tỉnh táo và hình như khá thoải mái.
Peta chọn khoảnh khắc đó bước tới.
“Có chuyện gì thế?” Bà hỏi. Bà vẫn còn ngái ngủ nên những lời nói líu nhíu và nghe như giọng của Lilah.
“Cháu không biết nữa,” tôi đáp khi Lilah để tiếng sóng biển vỗ vào bờ bên dưới điền vào khoảng lặng sau câu hỏi.
“Con sắp đi rồi, mẹ à,” Lilah rốt cuộc thì thầm. Và chỉ cần nghe đến đó viễn cảnh về một buổi sáng tươi đẹp lập tức biến mất.
“Em biết thế nào được mà nói vậy,” theo quán tính tôi lên tiếng và những thớ cơ của tôi co lại quanh nàng. Nàng khẽ lắc đầu vào vai tôi.
“Em biết mà, Cal.”
Peta đứng bên cạnh Lilah phía bên kia và tôi cảm thấy bà quàng tay ôm lấy con gái.
“Tạm biệt, con gái xinh đẹp của mẹ,” bà thì thầm. “Mẹ rất tự hào vì con đã rất kiên cường đi hết chặng đường của mình bằng cách của riêng con.”
Và rồi cả ba chúng tôi rơi vào im lặng. Sự im lặng của tôi là sự im lặng đầy tra tấn, hoang mang và nửa thức nửa ngủ, cho đến khi tôi nhận ra rằng hơi thở của Liah đang từ từ chậm dần, khoảng cách giữa thở ra và hít vào mỗi lúc một tăng lên. Trong tay tôi, người con gái tôi muốn giữ lại bên mình đang trượt nhanh khỏi tôi không cách gì ngăn lại được. Tôi ôm Lilah chặt hơn và áp mặt vào tóc nàng.
“Xin em đấy, Lilah,” tôi thì thầm. Lần đầu tiên, tôi khóc thực sự trước nàng. Giờ không phải là nhỏ vài giọt nước mắt nữa, tôi đã hoàn toàn mất tự chủ. Nàng tỉnh dậy như những tia nắng đầu tiên của mặt trời hừng lên trên đường chân trời, chỉ đủ để ngước nhìn tôi và cố mỉm cười.
“Thật xứng đáng, Cal. Xứng đáng để sống thêm một ít năm chỉ để gặp anh.”
Giọng Lilah quá yếu và khi hai mắt nàng run run khép lại, tôi lay nàng. Peta siết tay tôi thật mạnh. Qua đỉnh đầu Lilah, mẹ nàng nhìn tôi bằng một ánh mắt khiến tôi phải nín lặng.
Nó đang diễn ra và không có gì để tôi có thể hay nên làm vì nó.
“Anh yêu em,” tôi nói. Có lẽ tôi hét lên, tôi không biết. Khuôn mặt như ngủ của nàng hiện lên nụ cười yếu ớt nhất chỉ thêm một lần nữa và rồi khoảng cách giữa những hơi thở nông của nàng tăng lên theo hàm mũ. Chúng chậm lại, cho đến khi ngưng hẳn. Tôi chắc chắn là Lilah đã đi.
Tôi đợi và đợi hơi thở kế tiếp, khi mặt trời lấp ló đường chân trời. Chúng tôi cứ ngồi im lặng như thế và chỉ khi trời sáng hẳn, tôi mới nhận ra mình nín thở và đợi hơi thở kế tiếp của nàng, nhưng nó sẽ chẳng bao giờ đến. Cuối cùng không khí tuôn ra khỏi buồng phổi của tôi kèm theo một tiếng gào sẽ còn vang vọng trong hai tai tôi suốt những tháng sau đó.
Lilah, tình yêu của tôi, đã ra đi cùng bình minh.
Khi có thể cử động trở lại, tôi đưa Lilah vào trong và đặt thân người bé nhỏ của nàng lên giường và tôi nhận thấy rằng không hiểu sao nàng có vẻ nhẹ hơn khi tôi mang nàng ra ngoài kia ba mươi phút trước.
Tôi chết lặng, người tê cứng. Có thể là bị sốc, nhưng lúc đó có một tình trạng hỗn loạn quay cuồng của sự mất mát và rồi chỉ còn lại sự bình lặng. Tôi đặt nàng trên tấm trải giường màu xám nhàu nhĩ và nhớp mồ hôi do đêm trước nàng cựa quậy suốt. Tôi nhẹ nhàng duỗi hai chân nàng ra. Nàng vẫn còn mặc áo ngủ màu xanh nhạt bên ngoài bộ pijama bằng vải cotton và nàng đương nhiên trắng bệch, nhưng Lilah lúc nào mà chẳng trắng bệch. Tôi tìm một chiếc khăn sạch và nhúng nước ấm rồi quay lại chỗ nàng ngay và ngồi xuống giường bên nàng. Tôi dùng khăn lau trán nàng, vuốt mái tóc rối bù của nàng, rồi nhẹ nhàng lau khuôn mặt, rồi đến hai tay. Rồi tôi đợi, như thể nàng có thể mở mắt và bật cười vì tôi bị nàng đánh lừa, hoặc giật mình vì nàng chỉ ngủ quên thôi.
Khi tôi nghe tiếng cửa ngoài hiên đóng lại và nhận thấy rằng Peta cuối cùng đã vào nhà, tôi gọi xe cứu thương.
Peta đi thẳng đến trường kỉ trong phòng khách và trong khi tôi đợi bên Lilah, bà bắt đầu khóc như thể trái tim bà đã rời khỏi cơ thể. Trong khi ngồi nắm tay Lilah, tôi nghĩ về Peta và tất cả những sai lầm của bà và thực tế rằng bà đang vượt qua điều này lần thứ hai. Lynn có thể đúng, Peta sẽ trụ được bằng cách nào đó, nhưng lúc này bà chỉ là một cái vỏ ốc rỗng như Lilah và như tôi.
Khi xe cứu thương đến, tôi gặp họ ngay cửa và hai nhân viên theo tôi vào bên trong. Vài công việc giấy tờ cần được làm và chúng tôi tiến hành trong lặng lẽ ngay tại quầy ăn sáng trong lúc Peta vẫn còn khóc và rồi tôi đưa họ vào phòng ngủ và tự mình bồng Lilah đặt lên cáng. Hai nhân viên là những cái bóng lờ mờ trong ký ức của tôi, nhưng tôi nhớ mình cảm thấy biết ơn vì họ đã đối đãi với nàng bằng sự tôn trọng.
Khi Lilah đi, có một khoảng trống toang hoác trong ngôi nhà và tôi lập tức cảm thấy nó. Đó là một ngày lấp đầy sự đau buồn khi những giờ đồng hồ kéo dài lê thê và tan biến thành hư không ngay lập tức; là ngày mà khi bạn thức giấc vào buổi sáng kế tiếp và nghĩ mình vừa trải qua một giấc mơ tồi tệ, cho đến khi hạt cát trong mắt bạn và sự nặng nề trong ngực bạn nhắc nhở bạn điều ngược lại.
Đó là những ngày trước khi tôi nhận ra chúng tôi đã may mắn biết bao. Tất cả những gì Lilah hy vọng là một sự ra đi không đau đớn và nàng đã được toại nguyện. Và dù nhớ nàng nhiều đến mức cảm thấy tim nhói đau trong lồng ngực, tôi vẫn biết rằng kết thúc của nàng là hoàn hảo và đẹp như nàng và tôi đã không bao giờ hy vọng được như thế.
Thời gian bây giờ chạy nhanh như xe lửa đi qua một sân ga. Tôi không thể bắt nó dừng lại được, nhưng tôi muốn làm vậy. Mỗi phút hít thở đẩy tôi xa hơn ra khỏi hơi thở cuối cùng tôi thở cùng nàng. Niềm an ủi duy nhất là tôi không có tâm trạng để lưu ý những chi tiết xảy ra sau đó. Không biết lúc nào Peta bảo tôi rằng bà đã gọi người chuyên lo việc mai táng và ông ta đến nhà sau ngày Lilah mất. Ông ta ngồi bên bàn ăn và Peta pha trà thảo mộc cho ba người.
“Lilah có liên lạc với tôi trước khi mất.” Ông ta mở ra một tập hồ sơ bằng giấy Manila và đặt nó lên bàn trước mặt chúng tôi. “Tôi biết điều này nói ra khó nghe, nhưng cô ấy đã ký hiến xác cho chương trình nghiên cứu của một trường đại học. Cô ấy muốn não của mình được nghiên cứu… hình như liên quan đến liệu pháp điều trị thí nghiệm cô ấy từng trải qua thì phải.”
“Tôi biết,” Peta lau hai mắt sưng húp và nhìn tôi. “Con bé sợ cháu phản đối, Cal. Cô rất tiếc là Lilah không tự mình nói cho cháu biết.”
Tôi nhìn Peta, rồi chuyển sang người đàn ông hói, thừa cân mà tên của ông ta tôi không còn nhớ và rồi trở lại Peta. Tôi muốn phản đối. Tôi muốn đặt nàng yên nghỉ tại một nghĩa trang nào đó, cố gạt khỏi tâm trí cảnh một sinh viên y khoa hậu đậu cầm dao mổ nàng. Tôi giận vì nàng đã quyết định điều này mà không bàn với tôi, xấu hổ vì nàng nói với Peta và người lạ này về nó, còn tôi giờ đây mới được nghe. Điều này thật bất công, tàn nhẫn và sai trái. Tôi lập tức sợ rằng nàng một lần nữa đặt tôi vào vị trí chẳng có sự kết thúc. Thời gian bên nhau của chúng tôi đột ngột kết thúc, nhưng không phải kết thúc hoàn toàn. Một lần nữa.
Nhưng vấn đề là, tôi đã bị đánh bại. Tôi không muốn chuyện này xảy ra và đây chỉ là một điều tệ hại nữa trong một loạt những điều vô cùng tệ hại. Tôi thậm chí không có dũng khí để lên tiếng phản đối.
“Vậy khi không có thứ gì để chôn hay hỏa táng, chúng tôi tổ chức tang lễ thế nào đây?”
“Chúng tôi tổ chức một lễ tưởng niệm.” Người chuyên lo tang lễ xốc xốc mấy tờ giấy và cầm cây bút lên. “Cho tôi biết về Lilah.”
Tối hôm ấy tôi và Peta ngồi trên trường kỉ. TV đã tắt. Trong một lúc bà cầm tay tôi và chúng tôi nhìn chằm chằm xuống sàn trong im lặng. Rồi bà đứng lên và rót đầy vào hai ly thứ rượu vang 500 đô la tôi đã mua để dành cho bữa tối Chủ nhật tới. Nó là loại hiếm và nghe đâu rất đặc biệt và tôi đã háo hức đợi đến lúc Lilah thử nó và giờ thì không bao giờ nữa rồi. Tôi uống chai rượu đó để tưởng nhớ đến nàng liệu có đủ? Liệu tôi được phép thưởng thức nó nếu nó ngon?
Chúng tôi nhấp từng ngụm rượu vang. Trong một lúc, không ai nói lời nào. Nó trôi tuột xuống cổ họng tôi như nước lã, chẳng thấy ngon lành gì. Tôi nhìn Peta.
“Cô sẽ làm lại chứ?”
Bà nhìn chằm chằm vào ly rượu vang trong tay mình. Khi tôi nói, bà mỉm cười rất hiền.
“Làm gì hả cháu?”
“Nếu cô có thể trở lại quá khứ vào ngày đầu tiên gặp chú James, trước khi hai người trở nên quá gắn bó, trước khi quá khó khăn để xa rời nhau, cô sẽ ở với chú dù biết rằng những năm tháng khó khăn đang chờ đợi cô trước mắt cùng tất cả những cơn đau đớn mà nó mang lại chứ?”
Peta mỉm cười. Chúa ơi, bà trông già đi rất nhiều so với lần đầu tiên tôi gặp, nhưng tôi thấy sức mạnh đã quay lại với bà. Từng giờ, nỗi đau trong Peta dần nguôi ngoai. Tôi cảm thấy như mình vẫn còn đau xé, như thể cơn đau mỗi lúc một khủng khiếp hơn.
“Cháu có thể không cảm thấy nó lúc này, nhưng sẽ sớm thôi. Khi nỗi đau lắng xuống, sẽ vẫn còn có nỗi đau, nhưng bao phủ lên nó là một lớp mỏng của sự biết ơn. Cuối cùng cháu sẽ nghĩ lại một cách trìu mến về quãng thời gian tươi đẹp cháu có với Lilah và con bé đã thay đổi cháu như thế nào và tất cả đều xứng đáng ra sao. Cô tin chắc là như vậy, Callum. Đây là điều cô biết với tất cả những gì còn lại trong trái tim cô.”
Tôi đặt ly vang xuống bàn và vùi mặt vào hai tay khóc nức nở.
Buổi chiều làm lễ, tôi đứng trong nhà quan sát những chiếc xe đến. Người chuyên lo mai táng đã thu xếp nhân viên để hướng dẫn khách viếng, nhưng có vẻ như chúng tôi không lường trước quy mô đám đông. Công ty thuê đã dựng một màn hình lớn và sắp xếp hàng trăm chiếc ghế, nhưng nửa tiếng nữa mới đến giờ làm lễ mà ghế đã kín chỗ và rất nhiều người đứng.
Tôi nấp sau một tấm rèm, quan sát lượng người lấp đầy nơi yêu thích của Lilah và tự hỏi tất cả họ là ai. Kể cũng lạ. Lilah đã là niềm hạnh phúc của tôi, nhưng tôi biết quá ít ỏi về cuộc sống của nàng ngoài những tháng hai đứa bên nhau. Tôi ngậm ngùi tiếc nuối về sự ngắn ngủi của quãng thời gian đó và khi đứng quan sát lượng người quen của nàng đứng lẫn với nhau bên ngoài không có tôi, tôi cảm thấy suốt đời mình chưa khi nào đơn độc như lúc này.
“Nào cháu,” Peta lại gần tôi. Trang phục của bà là tập hợp những sắc cầu vồng. Bà mặc quần màu đỏ chói, áo sơ mi vàng và một chiếc ca vát nơ đủ màu. Bà đi chân trần, các móng được sơn lòe loẹt. Tôi nhìn chằm chằm xuống chân bà một lúc, rồi thở dài và cúi xuống tháo giày.
“Có vẻ hợp, nhỉ?” Bà nói nhỏ.
“Cháu nghĩ vậy.”
Alan Davis tiến lại ngay khi chúng tôi bước ra ngoài.
Ông mặc complet đen và trông ông như mới bước ra từ một toà án nào đó, ngoại trừ hộp khăn giấy trong tay và ông cũng đi chân trần.
“Tôi có cảm giác hôm nay rất khó khăn.” Ông nấc nghẹn nói không thành lời khi ôm Peta. “Nhưng tôi không nghĩ mình biết nó sẽ khó khăn như thế nào.”
“Tôi biết.” Peta ôm chặt ông, như một người em trai. “Như thể con bé đang nhìn xuống chúng ta, chửi rủa chúng ta lãng phí điện cho màn hình lớn và PA.”
Cả ba bật cười méo xệch và Alan bắt tay tôi. “Cậu trụ nổi chứ, Callum?”
“Vâng.” Tôi đang nói dối phải không? Tôi không chắc nữa, hình như là nói xã giao cho qua chuyện. “Ông chuẩn bị tinh thần đọc điếu văn chưa?”
“Tôi biết nếu Lilah bảo tôi làm gì đó, tôi phải làm hoặc lãnh đủ. Nên khi mẹ cô ấy bảo tôi làm điều này, tôi có cảm giác tốt hơn hết mình đừng làm cô ấy nổi giận.” Đôi mắt sưng húp của Alan nheo lại khi ông mỉm cười và tôi cũng mỉm cười.
Khi chúng tôi đến ghế ngồi trước đám đông, tôi gặp hàng chục đồng nghiệp và đối thủ của Lilah. Cánh thẩm phán, luật sư biện hộ và CEO mặc complet, nông dân mặc sơ mi và quần vải bạt, những nhà hoạt động xã hội mặc sơ mi làm từ sợi gai dầu và để tóc cuốn lọn dài. Một số người đông đến khó tin bình phẩm với nhau về việc Lilah là cái gai đáng ghét - một cái gai mà họ rất tiếc để đánh mất.
Ngay khi người làm lễ gợi ý tôi nên di chuyển về phía ghế của mình, tôi trông thấy một nhóm nhỏ những gương mặt quen thuộc ở bên kia đám đông lớn. Tôi lặng lẽ quan sát họ một lúc, để chắc chắn không phải là mình đang tưởng tượng sự tồn tại của họ, rồi mới tiến tới.
Will và Edd đứng bên nhau, cứng đơ và gượng gạo nhìn ra vườn. Karl chắp hai tay sau lưng và nhìn chằm chằm xuống đất. Cách họ không xa, hầu hết nhân viên của tôi, cũng như toàn bộ ban giám đốc Tison Creative và bạn đời của họ đứng đợi.
Tôi đến chỗ hai em trai mình trước. Tôi cảm thấy tức thở. Không thể tin được chúng nó thực sự ở đó. Sự nhẹ nhõm gần như choáng ngợp. Thực ra tôi có nghĩ tới việc gọi cho Will và Ed, kể cả khi nàng qua đời, nhưng chẳng biết mào đầu thế nào. Chào Will, Ed và vợ em, người mà anh phải xin lỗi vì đã quên mất tên. Người bạn gái anh yêu nhưng chưa kịp nói cho hai đứa vừa mới mất. Đến dự tang lễ nhé?
“Hai đứa làm gì ở đây vậy?”
Tôi luôn nghĩ Ed rất giống tôi, nếu ai đó nhét chú ấy vào một cái gói to hơn. Chú ấy thấp hơn tôi rất nhiều, nhưng mập hơn. Ed ôm tôi ngay khi tôi nói và tôi ôm chặt em trai mình, run lên vì xúc động.
Khi Ed lùi lại, Will thế chỗ một lúc. Will cao bằng tôi và gần đây hơi tròn trịa, điều đó khiến tôi ngạc nhiên. Đã bao lâu rồi tôi không gặp hai em trai mình? Tôi chắc chắn là đứa nào cũng đã đến Sydney kể từ khi mẹ rồi cha qua đời… nhưng là ba, hay bốn năm, hay đã một thập kỷ rồi? Khi chúng tôi ôm này nọ xong xuôi, Ed hắng giọng và giải thích.
“Lilah đã email cho sếp cũ của chị ấy và nhờ ông tìm bọn em. Chị ấy không muốn anh đơn độc.”
Tôi ấn nắm tay lên miệng và gật đầu. Lẽ ra tôi nên biết nếu tôi không làm thì nàng sẽ tự làm lấy. Lilah luôn làm theo ý mình.
“Ông trụ nổi không, Callum?” Karl hỏi. Tôi hít một hơi run run và lắc đầu.
“Mình ổn… Mình chỉ… Cảm ơn rất nhiều vì đã đến.” Đó là một tiếng thì thầm khàn khàn, nhưng là tất cả những gì tôi có thể làm. “Thực sự, ý mình là thế thật. Ông không biết sự có mặt của tất cả mọi người ở đây đối với mình có ý nghĩa đến thế nào đâu.”
Tôi cần ai đó bên cạnh và bây giờ tôi đã có – không chỉ một người, mà cả một đám đông. Chúa ơi, hai đứa em trai sinh đôi của tôi thậm chí không biết Lilah, cả đồng nghiệp của tôi nữa – họ đến đây chỉ để động viên tôi. Tôi liếc ra sau đến trước những chiếc ghế, nơi màn hình đang trình chiếu. Quá nhiều bức ảnh đẹp đến ngạt thở của Lilah, khi còn bé, tuổi vị thành niên, người lớn và rồi là người phụ nữ gầy guộc yếu ớt tôi đã thương yêu vài tháng cuối cùng.
Tôi quay lại hai em trai và trong ánh mắt quan tâm lo lắng của chúng, tôi nhìn thấy cha mẹ mình.
“Gặp lại sau nhé. Chúng ta sẽ đi uống.”
Người tổ chức tang lễ đọc vài bài thơ ngớ ngẩn Peta tìm được và chơi vài bài hát trong những khoảnh khắc im lặng tưởng nhớ, một trong những bài hát đó đương nhiên Peta hát theo. Giọng bà run run nhưng không hề trật một nhịp nào, ngay cả khi nước mắt tuôn chảy giàn giụa xuống mặt. Hết lần này đến lần khác tôi nghĩ đến việc cúi xuống và thì thầm với Lilah rằng mẹ nàng luôn là một ca sĩ “đỉnh” như thế nào, ngay cả trong những tình huống như thế này và ý nghĩ kế tiếp của tôi sẽ là Lilah đã thực sự ra đi và câu bình phẩm vô duyên của tôi sẽ mãi mãi không bao giờ được nói ra.
Chúng tôi đã phân công nhau đọc bài điếu văn. Peta sẽ nói về những năm tháng tuổi trẻ của Lilah, Alan về công việc và phần của tôi sẽ là nói về nàng như một người phụ nữ. Khi Peta lên bục để bắt đầu nói, bà hùng hồn một cách khó tin và giữ được bình tĩnh dù thỉnh thoảng có rơi nước mắt. Nếu có Lilah ngồi bên lúc này, tôi có cảm giác nàng sẽ ngắt lời mẹ, đòi hỏi nhiều hơn. Cách Peta đọc điếu văn đầy chân thành, cho thấy bà kiềm nén cảm xúc cực tốt. Bà chỉ như thể đang đóng một vai trong vở nhạc kịch bà tự viết về nỗi đau mà chính mình đã chịu đựng suốt những ngày qua.
Kế tiếp là Alan, qua màn nước mắt, đọc liền tù tì một danh sách dường như bất tận về những vụ Lilah đã đảm trách những năm qua. Có những tiếng cười buồn từ đám đông khi ông nói về những lần tưởng chừng như thất bại nhưng rồi Lilah vẫn thắng và rồi tiếng suỵt khẽ khi ông nói về di sản nàng để lại cho công ty.
“Tôi không muốn phát triển mảng luật môi trường. Không cộng sự nào muốn. Thứ nhất là không kiếm được nhiều tiền, bên cạnh đó, thời điểm Saoirse đưa ra một ý tưởng táo bạo là chuyển sang luật môi trường, cô là một trong những luật sư thương mại có thu nhập hàng đầu của chúng tôi. Cô không biết sự khác nhau giữa một cái cây và một con thằn lằn nhưng vẫn có cách để đạt được điều mình muốn… Và đó có thể là ý tưởng điên rồ nhất tôi từng nhân nhượng trong đời mình.”
Khi Alan ngồi xuống, ai nấy đều nhìn tôi. Chuyến đi từ ghế đến bục là một cuộc chạy marathon.
“Tôi cảm thấy rất bối rối khi nói về Lilah hôm nay.” Tôi nhìn lên đám đông và chỉ tập trung vào những gương mặt tôi biết – Lynn, Leon và Nancy đằng trước, những đồng nghiệp của tôi và hai em trai của tôi ở phía sau. “Tôi biết Lilah chưa đầy một năm và tôi không biết nhiều khách viếng có mặt hôm nay.”
Những khuôn mặt trước tôi nhòe đi, tôi nuốt khan và nhìn xuống mảnh giấy ghi chú.
“Nhưng nếu tôi có biết điều gì, thì đó là tình yêu giữa Lilah và tôi là ngọn đèn hiệu cho cuộc đời của cả hai chúng tôi. Thời gian không ủng hộ chúng tôi, nhưng chúng tôi có một mối quan hệ hồi phục lại niềm tin của tôi vào rất nhiều điều đáng để tin.”
Trên màn hình đằng sau tôi, một tấm ảnh được chiếu lên. Đó là Lilah, đứng trong vườn cách đây nhiều tháng, tay ôm đầy rau, trên má vương một vết đất và đương nhiên là đi chân đất. Nàng trông hơi nhếch nhác với mái tóc rối bù nhưng nụ cười tỏa nắng. Tôi ngoái ra sau nhìn tấm hình và… ngay lập tức tôi, người thậm chí không khóc trong phòng riêng khi cha mẹ qua đời, khóc nức lên trước mấy trăm người – và còn tệ hơn nữa là, tôi không còn đủ bình tĩnh để đọc thêm bất kỳ điều tốt đẹp nào mà mình đã viết ra.
Suy cho cùng thế cũng chẳng sao bởi lẽ tôi nghĩ bức ảnh kia đã nói lên tất cả.
Nếu sáu tháng trước bạn bảo tôi hãy liệt kê những gì quan trọng đối với tôi nhất, gia đình thậm chí không lọt vào top mười. Nhưng mọi thứ đã thay đổi.
Sau buổi lễ, hai em trai tôi và tôi lui vào sân của một quán rượu nhỏ ở Gosford. Ed gợi ý chúng tôi vào nhà, nhưng tôi rất cần một sự thay đổi phong cảnh và tôi không muốn nhìn khu vườn thưa dần khách viếng và lại trở nên trống trơn.
Chúng tôi làm thành một nhóm không thể xảy ra trong khung cảnh của một quán rượu vào chiều muộn: tôi, mắt đỏ ngầu và rũ rượi, ngồi giữa hai em trai trong im lặng. Quán rượu yên tĩnh, nhưng những khách khác đều là công chức trẻ ăn mừng đã xong một tuần làm việc. Chúng tôi ngồi trên những chiếc ghế mây trong ánh ráng chiều vàng ruộm và tôi tựa vào bức tường gạch để có thể cảm thấy hơi ấm tỏa ra từ nó. Tôi thấy lạnh hơn bình thường và điều đó liên tục nhắc tôi nhớ rằng Lilah sẽ không bao giờ ấm lại được nữa.
Chúng tôi gọi nước và ngồi trong im lặng cho đến khi đồ uống đến. Will nâng cốc lên. “Vì Lilah. Nghe có vẻ như chị ấy là người phụ nữ xinh đẹp và đặc biệt. Chúc cho di sản của chị ấy sống mãi.”
Tôi nâng cốc của mình lên và gật đầu. “Vì Lilah,” tôi nói nhỏ. “Và vì gia đình.”
Dòng rượu whisky đốt cháy cổ họng tôi, chạy xuống dạ dày trống rỗng và cuộc nói chuyện bắt đầu được khơi thông.
“Chú đến lúc nào?” Tôi hỏi Ed.
“Sáng nay. Bọn em đến vừa kịp giờ làm lễ. Em cố gọi cho anh để đảm bảo là nhân vật Alan này không phải là một kẻ tâm thần rồi mới lên máy bay, nhưng điện thoại của anh không liên lạc được.”
“Anh thậm chí còn không biết nó ở đâu nữa là,” tôi thừa nhận. Thật lạ lùng làm sao khi ta ngắt kết nối hoàn toàn với bên ngoài và không hề nhận ra điều đó. “Chắc nó hết pin mấy tuần nay rồi.”
“Bọn em nghĩ cho dù Alan có là một kẻ điên đi nữa thì bọn em cũng nên đến để xem anh thế nào.” Will gượng nói. “Nên bọn em gọi cho văn phòng của anh và cuối cùng có người nối dây đến Karl.”
“Và anh ấy ít nhất biết Lilah là ai, nên từ đó bọn em có thể kết nối những manh mối,” Ed nói nhỏ.
“Hai đứa sẽ ở đây bao lâu?” Tôi hỏi.
“Đến chừng nào anh còn cần bọn em,” Ed nói. “Chẳng có nơi nào khác trên thế giới bọn em cần ở lúc này cả.”
Ed và Will đi loanh quanh trong nhà và ngoài vườn với tôi trong im lặng suốt những ngày sau đó. Chúng nó nấu ăn và đảm bảo tôi ăn, ra khỏi giường và tắm gội khi tôi hẳn đã không làm nếu chỉ có một mình. Vào ngày cuối tuần, hai đứa giúp tôi thu dọn đồ. Chúng tôi thực sự không nói nhiều. Đương nhiên, cũng có những lúc trò chuyện thảng hoặc, hầu hết là những chi tiết vô nghĩa – như cây kia tên gọi là gì, chỗ này diện tích bao nhiêu, cây gì đó ăn được không. Chúng tôi có nói hay không nói cũng không quan trọng. Nếu hai em trai tôi không ở đó, tôi hẳn đã rất đơn độc. Nếu thế thì tôi cũng không biết là mình sẽ chịu đựng nó thế nào.
Đến lúc phải rời đi, Will chất túi xách của tôi vào cốp xe và tôi soát lại ngôi nhà lần cuối. Cuối cùng, tôi biết đã đến lúc nói lời tạm biệt. Tôi không có ý định quay lại thăm nơi này và tôi cần đảm bảo là đã lấy hết đồ đạc.
Tôi chần chừ ở cửa phòng ngủ. Ed đã dọn đồ vệ sinh cá nhân và quần áo cho tôi, không hiểu sao chú ấy hiểu mà không cần giải thích sự ngập ngừng của tôi khi bước vào những không gian nơi nàng từng hiện diện.
Khi rốt cuộc tôi cũng bước vào phòng, tôi trông thấy nàng trong vết hằn trên giường và hình dung những hình ảnh dồn dập về sự suy giảm sức sống quá nhanh của nàng suốt những tuần qua. Tôi nhanh chóng lia mắt lên những bề mặt, xác nhận không có gì bất thường và rồi khi toan bước ra, thì tôi thấy đèn nhấp nháy trên laptop của nàng.
“Khỉ thật.” Tôi nhớ nàng đã lóng ngóng nghiêng người ngang qua tôi để gập nó lại khi tôi bồng nàng ra hiên. Tôi mở laptop để tắt máy. Hộp email của nàng choán đầy màn hình.
Đương nhiên là tôi tò mò. Có một email đợi gửi trong hộp thư đi, có lẽ vì mạng ở nông trại chập chờn, nhưng có thể bởi nàng đã gập nắp laptop quá nhanh. Tôi nhấp chuột vào nó.
Gửi Alan
Lúc ông nhận email này, ông hiểu rằng tôi đã ra đi. Điều này nằm ngoài dự đoán của ông.
Làm ơn đừng mở file đính kèm trừ phi sự việc diễn biến theo chiều hướng không mong muốn và có sự cáo buộc người khác dính líu. Hãy cất nó trong hệ thống hồ sơ công ty với sự đảm bảo chỉ có ông mới tiếp cận được và xin hãy hiểu rằng tôi yêu cầu điều này xuất phát từ sự tin tưởng tôi dành cho một người bạn.
Cảm ơn ông rất nhiều suốt những năm qua và chúc ông mọi điều tốt lành trong tương lai.
Saoirse.
Có một file đính kèm lớn, quá lớn để có thể gửi được bằng email, tôi run run nhấp chuột mở nó ra. Và lập tức khuôn mặt Lilah lấp đầy màn hình.
Nỗi đau đớn của việc nhìn thấy nàng choán lấy tôi. Tôi thả rơi người xuống ghế khi đưa ngón tay trỏ chạm lên bức hình. Nếu có thể chui được vào bên trong màn hình khốn khiếp đó, thì tôi hẳn đã làm.
“Xin chào,” nàng thì thầm. Trước sự sửng sốt của tôi, tôi nhận thấy dáng người nằm bên dưới tấm chăn đằng sau nàng trong đoạn clip chính là tôi. “Tôi là Saoirse Delilah MacDonald và người trên giường đằng sau tôi là tình yêu cuộc đời tôi, Callum Roberts.”
Lilah nhích về phía giường, đau đớn, ho sau mỗi bước chân, rõ ràng là nàng rất yếu. Khi đã lên giường, nàng lay mạnh tôi.
“Em muốn ăn quýt.”
Tôi đột nhiên hiểu những gì mình đang xem và nó gần như phá hủy tôi. Đó là cuộc nói chuyện giữa Lilah và tôi, trước khi tôi ra vườn trái cây. Ngay khi tôi rời phòng, Lilah ra khỏi giường và quay lại bàn và khi xem video, tôi bắt đầu khóc nức nở.
“Tôi tên là Saoirse Delilah MacDonald. Tôi sắp chết vì bệnh Huntington. Phía trước tôi là một con đường dài đầy đau đớn và luật pháp hiện hành của quốc gia này không cho phép tôi thực hiện cái chết nhân đạo.”
Nàng rút ra một lọ nhỏ không có nhãn mác từ cái bàn bên dưới webcam nàng đang ghi hình và đổ ra một vốc thuốc nhỏ. Mắt nàng ậng nước.
“Đây là thuốc an thần mạnh. Tôi mua nó bất hợp pháp ở Mexico hơn năm năm trước và trong tay tôi lúc này là số thuốc hơn liều cho phép để kết liễu mạng sống một con người. Tôi uống thuốc này một mình, những người đang ở nơi này hiện tại không hề biết. Việc này chỉ mình tôi biết và sẽ mang nó sang thế giới bên kia, nhưng họ sẽ tin rằng tôi chết vì bệnh phổi, chứ không phải tôi quyết định kết thúc cuộc đời trước khi tôi đánh mất chính mình mãi mãi.” Khuôn mặt Lilah méo mó. “Nếu có nhiều thời gian hơn, chắc chắn tôi sẽ chiến đấu để có quyền làm điều này. Nhưng đã quá muộn; trí óc và suy nghĩ của tôi đang suy giảm và những ký ức của tôi bắt đầu nhạt nhòa và tôi không muốn cứ thế cho đến khi không còn lại gì. Tôi sẽ ra đi theo cách của mình trong lúc não tôi vẫn còn cho tôi biết tôi đang làm gì. Một lần nữa, tôi xin nhắc lại – những người thân yêu của tôi, Peta MacDonald và Callum Roberts, tuyệt đối không biết gì về những gì tôi đang làm. Namaste16.”
16 Kiểu chào của người Ấn, chắp hai tay trước ngực.
Rồi nàng, rõ ràng là rất khó khăn, nuốt nhiều viên thuốc trắng từng viên một, trước khi tập tễnh rời webcam trở về giường.
Tôi xem, những ngón tay vẫn còn trên màn hình, lúc nàng nằm trên giường đợi tôi và rồi tôi mang quả quýt chết tiệt đó vào cho nàng và rồi khi tôi rời khỏi phòng để đánh thức Peta, tôi thấy nàng lén ra khỏi giường và dừng ghi hình. Những gì xảy ra kế tiếp, tôi biết quá rõ.
Không có cách gì để gửi đoạn clip, cho dù tôi có muốn đi nữa. Nếu Lilah biết, nàng hẳn có thể đã điều chỉnh phần cài đặt trên đoạn clip để nó phân giải chậm hơn và cái file đó hẳn đã đủ nhỏ để ra khỏi hộp thư gửi mà tôi không bao giờ biết được. Thay vì thế, tôi tháo cái laptop ra và mang đi. Tôi chưa nghĩ về nội dung của nó. Quá nhiều và quá sớm. Tôi lưu trữ nó đâu đó trong tâm trí mình và buộc bản thân rời khỏi ngôi nhà.
“Cô định làm gì?” Tôi hỏi Peta. Hai em trai tôi và tôi ghé qua để dọn sạch đống rau quả dễ hỏng trong nhà và xem xem bà thế nào trên đường về lại thành phố.
Tâm trạng Peta ổn đến mức đáng kinh ngạc, bà có vẻ thanh thản.
“Cô chưa bao giờ muốn sống ở nông trại,” Peta thừa nhận. “Nhưng giờ con bé đi rồi… Ừm… Cô không biết nữa. Cô đang nghĩ về việc chuyển công việc về lại đó, có thể cô sẽ thêm một phòng thu trong vườn cho tụi sinh viên. Cô chỉ muốn có cảm giác ở gần con bé.”
“Còn khu vườn?” Khu vườn cần phải tiếp tục là điều vô cùng quan trọng với Lilah. Nàng không bao giờ nói ra lời điều đó, nhưng tôi vẫn hiểu được.
“Ồ, khỉ thật Cal, hiện cô cũng chưa biết bắt đầu từ đâu. Leon và Nancy có thể lo cho khu vườn đến khi họ qua đời, rồi cô sẽ quyên nó cho một hội từ thiện nào đó.” Peta mỉm cười, lần đầu tiên kể từ khi Lilah qua đời tôi thấy nét vui vẻ trên khuôn mặt bà. “Nhớ có mặt ở buổi đọc nhé?”
“Đọc gì ạ?”
“Di chúc.”
Tôi nhăn mặt.
“Peta, cháu không cần đến đó đâu. Nếu có gì cần cháu làm, cứ gọi cho cháu là được.”
“Không, Callum.” Bà khăng khăng. “Lilah chắc chắn có nhắc đến cháu trong di chúc. Cháu cần phải đến.”
“Cháu không…”
“Cô không tin là con bé để lại cho cháu bộ sưu tập bí mật tranh Picasso, nhưng cô cũng sẽ rất bất ngờ nếu Lilah chẳng để lại gì cho cháu, ít nhất là thứ gì đó đặc biệt để cháu nhớ đến nó.” Một lần nữa, đôi mắt xanh nhìn tôi khẩn nài, sự quen thuộc một cách đau đớn. Tôi thở dài.
“Vâng ạ.”
Chúng tôi ôm nhau lần cuối và tôi hôn lên má bà. Rồi tôi lên xe và Will chạy về phía thành phố.
“Anh ổn chứ?” Nó hỏi.
Tôi nhìn ra cửa sổ hàng cây và những con kênh mà Lilah đã từng rất thích.
“Sẽ mất một thời gian, nhưng anh sẽ ổn.”
Cả Ed và Will đều bay ngay ngày hôm sau. Tôi đưa hai đứa ra sân bay. Will đi chuyến sớm nhất và tôi bắt tay em trai trước khi nó lên máy bay.
“Anh không biết cảm ơn chú thế nào cho đủ, Will à.” “Em chỉ tiếc là khi bọn em đến đây thì chị Lilah đã đi rồi, Cal. Hãy giữ liên lạc nhé. Em biết là khó đối với anh, nhưng hãy liên lạc.”
Tôi gật đầu rồi ôm em trai.
“Anh sẽ làm tốt hơn, anh hứa.”
Chuyến bay của Ed muộn hơn vài giờ nên chúng tôi ăn trưa ở sân bay nội địa trước khi tôi đi cùng với nó đến ga quốc tế. Sau khi Ed kiểm tra hành lý, tôi nhận thấy còn lâu mới đến giờ bay.
“Để anh ở đây đợi với em một lát.”
“Không cần đâu, em sẽ đi loanh quanh mua vài món đồ miễn thuế cho Suzette. Cô ấy…” Nó ngừng. “Anh sẽ sớm đến thăm bọn em chứ, Cal?”
Tôi nhận thức được sự khác nhau giữa mình và hai đứa em sinh đôi, nhưng những ngày cuối tuần vừa qua, việc chúng nó lặng lẽ bên cạnh tôi rốt cuộc đã cho tôi thấy sự giống nhau của ba anh em. Tôi biết mình không cần chúng nó, từ trước đến giờ tôi vẫn sống tốt mà không cần chúng nó.
Không bao giờ tôi chợt nghĩ rằng hai đứa em sinh đôi khăng khít nhau, khỏe mạnh, dẻo dai của mình lại có thể cần mình. Nhưng giọng Ed chứa đựng một sắc thái gì đó của sự háo hức, niềm hy vọng và sự tuyệt vọng. Có thể chú ấy đã luôn như vậy, nhưng bây giờ tôi mới nhận ra vì tôi rốt cuộc đã cảm thấy được sự đơn độc của mình.
“Anh sẽ đến,” tôi hứa.
“Năm nay chứ?”
“Đương nhiên rồi, Ed.”
“Nói với anh điều này thật không đúng lúc… Em không chắc bằng cách nào và ngay cả lúc này…”
“Được rồi,” tôi cau mày. “Mọi chuyện ổn cả chứ?”
Nó khẽ gật đầu.
“Thực ra cô ấy mang thai. Thông báo tin này bằng email có vẻ không được hợp lý và anh em mình hình như không bao giờ gọi nhau nữa và đây là cơ hội duy nhất em được gặp anh trực tiếp, nên dù rằng em cảm thấy mình thật tệ khi nói điều đó với anh lúc này, nhưng em sợ khó có dịp nào nữa.”
Tôi hình dung vợ của em trai mình, Suzette; tôi đã thấy trong hình một lần và tôi tin chắc cô ấy có làn da ngăm đen. Tôi hình dung cô ấy đã nặng nề và rạng rỡ bên cạnh Ed và đứa con của mình. Một gia đình hạnh phúc. Vòng tròn cuộc đời: Lilah đã ra đi và một người mới đang sắp đến. Tôi cũng có chút ghen tức, nhưng hồi hộp cho em trai mình là chính.
Tôi không thể ghen tức khi đứa em trai đứng bên cạnh tôi mặt sáng lên vì tự hào. Tôi cho phép mình mỉm cười, một nụ cười thực sự.
“Thật tuyệt, Ed.”
“Trong vài tháng nữa anh sẽ lên chức bác rồi đấy,” Ed nói. “Đến thăm bọn em đi. Đến bất kỳ khi nào anh muốn. Nếu anh đến trong mùa, em sẽ đưa anh đến chỗ tập luyện và xem các trận đấu của em và nếu anh đến trái mùa, anh em mình có thể đi du lịch hay gì đó. Nhớ nhé.”
Hai anh em ôm nhau và rồi nó đi. Tôi đứng dõi theo cho đến khi đứa em mất dạng và cuối cùng tôi còn lại một mình.
Tôi không thuộc kiểu người dễ nổi xung. Trong thời gian lớn lên bên nhau, hai em trai tôi quậy nhau cho đến khi đứa này làm đứa kia tức điên lên, nhưng tôi thì không thế. Nếu Ed hoặc Will cố khiêu khích tôi, tôi có thể lảng ra và bỏ đi, trở về với bất kỳ hoạt động nào tôi đang say mê lúc đó. Tôi nguôi giận rất nhanh và cơn giận chưa bao giờ chế ngự được tôi, nên tôi nghĩ mình không bao giờ học cách kiểm soát nó.
Tôi về nhà được vài ngày thì cơn giận trào lên. Nó là một cơn thủy triều lớn, rỉ rả từ từ và tôi không nhận ra độ cao nó đạt được cho đến khi tôi sắp chết đuối. Nơi từng là nỗi đau, giờ được thay bằng một cơn thịnh nộ dữ dội và đen tối. Tôi có thể chịu được việc Lilah bị mang đi khỏi tôi - gần như thế - nhưng nàng không bị mang đi; nàng tự đi và nàng thậm chí không thèm nói với tôi một lời.
Vào một buổi sáng, tôi đang ngồi trên trường kỉ, cố lờ đi cơn giận bằng những chương trình ti vi, thì đột nhiên tôi chợt nghĩ nàng đã có biết bao nhiêu cơ hội để nói với tôi. Nàng đã mua thuốc từ hồi còn ở Mexico, rất lâu trước khi chúng tôi gặp nhau. Vậy thì bao nhiêu ngày và đêm và tuần và tháng nàng lẽ ra đã nhắc đến, hay bóng gió xa xôi về nó. Nàng không tin tôi sao? Nàng không nhận thấy rằng tôi cũng là người biết nghĩ sao? Tôi hẳn có thể chuẩn bị tinh thần. Biết đâu tôi ủng hộ nàng.
Tôi không nhớ mình đã ném cái cốc vào màn hình TV, nhưng rõ ràng tôi đã làm vậy. Tôi chỉ nhớ tiếng rên than và cảm giác bị xâm chiếm bởi những cảm xúc mà tôi không có cơ hội để kiểm soát và đơn giản là tôi không thể chịu đựng. Tôi thức tỉnh trong chốc lát, có thể là lâu hơn sau đó và thấy những mảnh thủy tinh khắp phòng khách và màn hình tinh thể lỏng vỡ toác.
Suốt những tuần sau đó chuyện này cứ lặp đi lặp lại. Tôi không thể đến gần bãi biển, vì không có cách nào tránh được việc trông thấy tòa nhà của nàng, nên thay vì thế tôi lảng ra xa khỏi nó. Nhưng thường thường trong khi tôi ra ngoài để đi dạo dọc theo con đường ngoại ô, tôi sẽ nhớ nàng và rồi tôi sẽ nhớ cát và không khí đượm mùi biển; sự đơn độc của tôi dường như sẽ không thể vượt qua được trong chốc lát, cho đến khi sự giận dữ thay thế nó. Và rồi, trong một lúc, cơn giận bùng lên. Tôi bị nhấn chìm vào cơn giận dữ và chỉ trồi lên sau đó, buồng phổi cháy rát và hai chân bồn chồn, thấy mình ở đầu kia của ngoại ô, ướt sũng mồ hôi. Hoặc tôi sẽ đến siêu thị hoặc quán cà phê và chỉ tổ chứng kiến một cặp đôi đang yêu nhau và cơn giận mù quáng sẽ tấn công tôi mạnh đến mức tôi sẽ bỏ xe đẩy hoặc bàn và rời khỏi đó, máu sôi lên tưởng chừng nghe thấy được.
Tôi giận Lilah và giận cả bản thân mình. Sao tôi có thể không biết được chứ? Lynn đã nói với tôi việc Lilah ra đi sẽ như thế nào, nó nghe có vẻ khắc nghiệt và khó chịu. Tại sao những hồi chuông cảnh báo không reo lên khi nàng chỉ ngủ và không thức dậy? Liệu Lilah có cho tôi những chứng cứ mà tôi đã bỏ lỡ? Phải chăng niềm tin nàng dành cho tôi không đủ lớn để tâm sự với tôi…?
Sự xáo trộn bên trong dần dần qua đi. Tôi biết rằng điều gì rồi cũng qua. Cảm xúc nhường chỗ, từng chút một, cho tư duy lý trí để tìm hiểu tại sao nàng lại quyết định như vậy và biện hộ cho việc nàng tìm kiếm sự ra đi thanh thản theo cách của mình. Và khi cơn thủy triều lớn rút đi, những gì còn đọng lại là những mong ước cho nàng một cuộc sống tốt đẹp ở thế giới bên kia.
Đồng nghiệp gửi cho tôi email và tin nhắn, tôi biết họ đang nghĩ về tôi và muốn bày tỏ sự an ủi. Karl đến chỗ tôi vài lần và rồi ép tôi gặp cậu ấy tại văn phòng để ăn trưa hai lần một tuần. Cứ vài ngày Leon và Nancy lại làm như tình cờ đi ngang qua chỗ tôi, mang cho trái cây và rau quả tươi.
Và hai đứa em trai mà tôi nghĩ như là người lạ trong suốt nhiều năm, gọi điện hoặc nói chuyện với tôi qua Skype ít nhất một lần mỗi ngày.
Suốt bốn mươi năm qua, tôi đã nhìn thế giới như một nơi thù địch, nơi ngay cả những người thân của tôi cũng lánh xa và tôi là một người ngoài cuộc trong mọi nhóm. Bằng cách nào đó, nhờ việc mất đi Lilah, nhân sinh quan cố hữu của tôi bị đập đi xây lại. Tôi có những quyết định cần đưa ra. Tôi vẫn còn trong thời gian nghỉ phép có lương, nhưng tôi không chắc liệu đó là một quyết định thông minh nữa không. Cuộc sống của tôi đã đảo lộn và giờ đây tôi vẫn đứng ngay chỗ mình vẫn ở lâu nay, nhưng thế giới xung quanh tôi đã hoàn toàn thay đổi. Tôi cần tiến lên phía trước.
Tôi ngồi bên máy tính nghiên cứu những lựa chọn du lịch, công việc mới và vài khóa học đại học. Tôi đánh dấu những trang chạy đua đường dài mà tôi đã có lần nghĩ mình có thể tham gia. Tôi mua ống kính mới cho chiếc máy ảnh qua mạng.
Tôi chưa từng giỏi việc ra quyết định, nhưng việc này bất khả. Nó quá sớm, quá mới, quá khó. Tôi sẽ chụp thứ gì với những ống kính mới đây? Ai sẽ đợi tôi ở đích những cuộc chạy đua đường dài ấy?
Ý nghĩ chọn một lối đi mới cho cuộc đời của mình gần như choán lấy tôi, cho đến khi tôi nhấc điện thoại lên.
“Tison Creative. Elise xin nghe.”
“Elise.” Có sự ấm áp thực sự trong giọng nói của tôi. “Là Callum.”
“Ồ, Callum. Chúng tôi nhớ anh. Nơi này đang rối tinh lên rồi đây, tôi thề đấy. Anh thế nào?”
Tôi biết cả công ty hiểu rõ tại sao tôi nghỉ và việc quay lại sẽ rất đau đớn và mệt mỏi cho tôi. Nhưng tôi sẵn sàng quay lại làm việc, để có thể dồn tâm trí mình vào thứ gì đó và để đưa cuộc sống của mình trở về quỹ đạo bình thường. Tôi nhắm mắt, hít sâu và cất giọng bình tĩnh.
“Tôi ổn, Elise. Tôi cần thu xếp để quay lại làm việc.”
Tôi quên mất chuyện di chúc. Tháng tới là quay lại làm việc, chạy trở lại, bắt tay vào việc sửa sang nốt căn hộ của mình với hy vọng có ai đó mua lại. Trở về với việc ngủ suốt đêm, với việc cảm thấy như tôi có thể sống sót sau tất cả. Trở lại quỹ đạo bình thường là một chặng đường rất dài đang đợi tôi phía trước. Nhưng ít nhất lúc này tôi đã có thể kiểm soát cảm xúc.
Tôi đang họp thì nhận được tin nhắn từ Peta.
Đọc di chúc vào ngày mai tại văn phòng. 1 giờ chiều. xoxo
Không hề có thông báo trước. Tôi thở dài và với lấy iPad. Đương nhiên có những cuộc họp không thể hoãn. Tôi có lý do xác đáng để vắng mặt. Chỉ cần nhắn tin lại cho bà và bảo tôi không thu xếp được. Thế thôi.
Tôi chuyển sự chú ý của mình sang điện thoại.
Hẹn gặp cô ngày mai. Những ngón tay đã phản lại tôi. Tôi nhìn tin nhắn được gửi đi và rồi vờ tập trung vào cuộc họp.
Tham gia buổi đọc cũng hay. Tôi sẽ có cơ hội nói chuyện với Alan.
Tôi gặp Peta ở phòng giải lao của Davis McNally và sau một cái ôm ngượng ngập, cả hai đều để ý đến khoảng trống trên tường nơi bảng tên của Lilah đã được gỡ đi. Lớp xi măng bị lộ ra có hai cái lỗ nhỏ rõ mồn một và một đường keo chạy ngoằn ngoèo, nhưng chắc chắn nó sẽ sớm được che lại khi cộng sự mới bắt đầu nhận việc. Lilah đã bị xóa tên ở đây, dù cho đó là điều cần thiết nhưng tôi vẫn cảm thấy không thoải mái.
Chúng tôi lẳng lặng vào thang máy lên tầng của Alan. Tôi mang theo laptop của Lilah trong một cái túi dự phòng tìm thấy ở nhà. Tôi cảm thấy hơi căng thẳng. Nếu Peta hỏi, liệu tôi có thể nói dối đầy thuyết phục rằng nó là chiếc laptop làm việc của mình không?
Đương nhiên là bà không hỏi. Bà hỏi làm gì chứ? Tôi từ chỗ làm đến; mang theo laptop là hợp lý mà. Nếu tôi thể hiện sự bồn chồn ra bên ngoài, thì cũng chẳng ai buộc tội tôi hoặc thậm chí nghĩ này nghĩ khác, bởi tình huống hiện tại cho phép tôi như thế.
“Ông trông khỏe đấy, Alan,” Peta chào ông bằng một cái hôn lên má.
“Vợ tôi bắt tôi theo chế độ ăn kiêng lập dị của Lilah đấy. Tôi sụt kha khá cân.” Ông bắt tay tôi và đưa cả hai vào phòng họp.
“Tôi xin lỗi vì đã mất một thời gian khá lâu để hoàn tất.” Ông chống khuỷu tay lên bàn. “Tôi cần lấy lại tinh thần trước khi quay lại. Saoirse là một thành viên quan trọng của đội chúng tôi ở đây và tôi biết tinh thần chung sẽ bị tổn thất nặng nề nên tôi cần vững vàng.” Ông nhìn xuống mớ giấy tờ trước mặt. “Nhưng theo luật, như hai người có thể hình dung, cô ấy đã để lại mọi thứ trong điều khoản A1.”
Phần dẫn dắt dông dài khiến tôi bắt đầu nghĩ vẩn vơ. Tôi nghĩ về bao nhiêu năm Lilah làm việc tại tòa nhà này, có lẽ trong chính phòng họp này. Tôi ước được trông thấy nàng ở đó, trong bộ complet màu mận chín lạc quẻ và tóc búi gọn ra sau.
“Căn hộ ở Manly sẽ để lại cho Callum Roberts…” Những lời nói chìm nghỉm sau đó và tôi đưa mắt nhìn Peta, lúc này cũng nhìn tôi chằm chằm trong sửng sốt.
“Khỉ thật, Peta, căn hộ của cháu đang được rao bán.” Sự ngượng ngùng khiến tôi nói vấp. “Cô có thể lấy tiền đó dành cho phòng thu.”
Peta mỉm cười và nắm tay tôi.
“Đừng cảm thấy cháu cần làm thế, Cal ạ. Lilah muốn cháu ở chỗ của con bé và con bé đã để lại nó cho cháu.”
Tôi lẽ ra không cần lo. Nhà ở Gosford, xe của Lilah, cổ phần và tiền tiết kiệm chúng tôi không biết rõ nữa, tất thảy sẽ chuyển sang Peta. Lilah muốn đảm bảo mẹ mình sống tốt.
“Giờ thì có vài lá thư.” Alan mở một tập hồ sơ khác. “Một lá cho đội của cô ấy, sáng nay tôi đã chuyển rồi. Cơ bản là cô ấy xin lỗi vì đã là một đội trưởng ác nghiệt và cảm ơn họ rất nhiều. Tôi tin là cô ấy cũng bảo những phụ tá đáng thương đó mau bỏ việc và tìm một công việc họ thực sự thích.”
Ông cầm lên một bì thư dán kín.
“Cái này gửi cho Janice và Ryan Abel. Lát nữa tôi sẽ tìm địa chỉ của họ và giao nó.”
Tôi biết ngay lập tức trong đó chứa gì; một lời xin lỗi và một lời giải thích. Tôi hãnh diện với Lilah vì đã tìm cách để giải quyết mọi việc ổn thỏa, cho dù nàng không thể đích thân làm nó.
Tôi nhìn vào bì hồ sơ, hy vọng còn thêm.
“Một cho bà, Peta.” Ông đưa phong thư thứ hai ngang qua bàn và đóng hồ sơ lại. “Và... tôi cũng có một lá thư.”
Tất cả lại chìm vào bầu không khí ngượng ngập, lần này Alan và Peta tránh nhìn vào mắt tôi. Và tôi thất vọng. Chúa ơi, tôi thất vọng ghê gớm. Nàng có thời gian thay đổi di chúc để lại nhà cho tôi, nhưng không có thời gian để viết cho tôi vài chữ giải thích tại sao, hoặc cho tôi biết tôi sẽ làm cái quái gì kế tiếp hay sao?
“Cô xin lỗi cháu, Cal.” Mắt Peta rơm rớm. “Đáng lẽ ra con bé phải…”
“Không sao đâu ạ.” Tôi ngắt lời nhẹ nhàng hết sức có thể. “Thật đấy, cháu nghĩ cháu biết cô ấy muốn cháu như thế nào.”
Peta gật đầu, quệt nước mắt và giữ lá thư khư khư vào ngực như một đứa trẻ.
“Vậy nhé,” Alan nói nhỏ. “Tôi sẽ lo liệu việc giấy tờ để chuyển tài sản cho chị đứng tên. Cảm ơn vì chị đã đến.”
Peta vội đứng lên rời đi, nói nhỏ gì đó về một buổi tập đồng ca ở Gosford, nhưng nhìn cách bà cầm lá thư thật chặt thế kia, tôi biết có lẽ bà sẽ về thẳng nhà để mở nó ra đọc ngay. Tôi vẫn ngồi im khi Alan tiễn bà ra cửa, ngầm bày tỏ ý muốn được riêng tư với ông một lát. Ông hiểu ngay và đã đóng cửa lại khi Peta rời đi.
“Cô ấy bổ sung tên tôi vào di chúc khi nào?” Tôi hỏi. “Nhiều tháng trước, khi cô ấy lần đầu tiên biết mình trở bệnh,” ông đáp.
Sau lần chia tay, trước khi hàn gắn. Tôi nuốt khan và buộc mình khơi mào cuộc nói chuyện mà tôi không biết bắt đầu từ đâu.
“Có phải ông đã biết…” Tôi không chắc làm thế nào để truyền tải ý mình cho đúng và tôi nghĩ là mình đã thất bại, bởi vì Alan không phản ứng gì, dù chỉ một chút. Điều đó khiến tôi giật mình và khi bắt đầu lại, tôi huyên thuyên một mạch, “… kế hoạch của cô ấy? Tôi tìm thấy một email được gửi đến cho ông kèm theo một clip mà tôi đoán là để chứng minh là Peta và tôi… không biết Lilah thực sự chết như thế nào. Đoạn clip có dung lượng quá lớn; nó không gửi đi được.” Tôi lấy laptop ra và đẩy nó về phía ông. Alan nhìn nó chằm chằm trong một lúc.
“Tôi không biết cậu đang nói về chuyện gì,” ông ngập ngừng. “Nhưng nếu tôi biết, chúng ta đương nhiên sẽ phải cân nhắc những điều luật liên quan và xác minh liệu cô ấy có tự ý dùng thuốc không và trong trường hợp việc đó bị phát giác, cô ấy sẽ dùng đoạn clip làm bằng chứng là lúc đó cô ấy chỉ có một mình, tự ý dùng thuốc để bảo vệ những người nằm trong diện tình nghi.”
Tôi mất một phút để giải mã những câu nói vừa rồi. “Một điều khiến tôi khó chịu,” tôi nói nhỏ, “là tại sao cô ấy không nói cho tôi biết?”
“Ngốc quá,” Alan làu bàu. “Tôi có thể hình dung tiến trình từ khi mối quan hệ của hai người bắt đầu cho đến bây giờ và tất cả chỉ là để bảo vệ cậu khỏi đau đớn và rồi khi điều đó trở nên hoàn toàn không thể tránh khỏi, cô ấy bảo vệ cậu khỏi bị truy tố.”
Tôi lắc đầu và toan mở miệng cãi, nhưng Alan khoát tay ngắt lời.
“Tôi ngồi với Lilah trong chính căn phòng này và bàn suốt hàng giờ cách chúng tôi có thể bảo đảm cho cậu tránh khỏi rắc rối theo luật pháp hiện hành. Cô ấy muốn ra đi theo cách của mình bên cạnh những người yêu thương, mà không để cậu phải chịu đựng bất kỳ phiền phức nào sau cái chết của cô ấy. Đoạn clip cậu tìm thấy là cách cô ấy bảo vệ cậu, trong trường hợp cái chết của cô ấy bị phát giác. Cô ấy cương quyết hiến xác cho trường đại học, cho dù điều đó quá liều lĩnh vì họ có thể phát hiện ra chất độc trong người cô ấy. Tôi cho rằng cô ấy xem đoạn băng này là chứng cứ bảo đảm của cô ấy – của cậu. Còn một điều nữa, cô ấy cũng đã soạn rất kỹ những điều kiện cho những gì được và không được làm đối với cô ấy sau khi cô ấy chết và một trong những điều kiện đó là khuyết danh – những nhà nghiên cứu về cô ấy sẽ không biết cô ấy là ai. Cho nên cơ hội cho đoạn clip đó được cần đến là rất nhỏ.”
“Peta biết việc này chứ?”
“Tôi không biết, nhưng tôi nghĩ là bà biết. Bà đã chứng kiến James chết, bà biết việc này phải như thế nào và tôi đoán việc Lilah qua đời như thế không còn gì thanh thản hơn. Nhưng bà sẽ không làm lớn chuyện nên tôi đoán mọi việc tùy thuộc vào cậu.”
Ông đã hiểu lầm cảm giác lo sợ của tôi. Tôi không hề có ý định báo cảnh sát hay cho bất kỳ ai quan tâm biết chuyện đó; tôi chỉ đang cố hiểu bí mật của nàng. Tôi quá xúc động nên không thể giải thích ý của mình tốt hơn. Tôi hắng giọng.
“Cô ấy không muốn tôi phát hiện ra điều đó. Cô ấy không hiểu máy vi tính vận hành thế nào.”
Alan và tôi nhìn nhau cười buồn.
“Đó là Lilah của chúng tôi,” ông thở ra. “Xuất sắc về những vấn đề liên quan đến luật, nhưng lại mù công nghệ.”
“Tôi sẽ làm gì với cái laptop đây?”
“Hãy để nó cho tôi. Tôi sẽ giữ nó thêm ít tháng nữa và tôi sẽ cho phá hỏng nó.”
Tôi mất nhiều tuần mới dồn hết can đảm đến căn hộ của Lilah – giờ là căn hộ mới của tôi ở Manly. Trước tiên, tôi phải đủ nguôi ngoai để đối diện với nó mà không thấy lòng mình tan nát. Nên tôi đợi cho đến khi mình lại có thể nghĩ về nàng mà không bị cảm giác mất mát choán lấy.
Tôi biết đã đến lúc đi tới đó khi cảm thấy mình vô thức quay về những thói quen cũ và điều đó lấn lướt sự đau buồn. Buổi sáng tôi thức giấc và cảm thấy sợ hãi với suy nghĩ lại phải trải qua một ngày dài nữa ở văn phòng trước khi những suy nghĩ về Lilah xuất hiện, tôi gọi cáo ốm và đi đến chỗ căn hộ.
Tôi đứng trong hành lang, tay cầm chìa khóa định tra vào ổ. Hai tay tôi run rẩy và những ký ức về Lilah nhảy múa quanh tôi. Tôi nhớ những lần nàng đón tôi nơi cửa, những lần chúng tôi hôn tạm biệt. Tôi nhớ cái ngày cuối cùng, khi nàng cư xử lạ lùng và rồi chuyến đi bộ trở lại Corso, như thể chúng tôi giống bất kỳ cặp đôi luống tuổi nào muốn một chuyến hít thở không khí bên ngoài.
Như tôi mong đợi và có lẽ hy vọng, nỗi đau lại trào lên, lớn hơn và mạnh hơn những tuần qua và tôi tra chìa vào ổ khóa mở cửa ra.
Thứ đầu tiên tôi thấy, sau những cánh cửa kính nhưng trước đại dương, là một ban công đầy hoa nở. Những chậu cây chết khô mấy tháng trước giờ tươi xanh trở lại, đã vậy hoa còn nở rộ một cách thần kỳ. Trong mỗi chậu là một màu sắc cầu vồng, đủ loại hoa, mơn mởn đầy sức sống bất kể trái mùa.
Tôi đang mang túi xách trên vai. Nó trượt đi và rơi bịch xuống sàn và tôi đứng chết trân.
Những nhánh con đã chết thành những bụi dày và cây khẳng khiu trĩu nặng những bông hoa. Những chậu cây đang hồi sung sức và cây hoa bướm thực sự đang khoe những sắc màu rực rỡ nhất. Tôi vội đếm, gần bốn tháng kể từ lần cuối cùng chúng tôi ở đây và bằng cách nào đó dù bị bỏ mặc, những cái cây còn trơ cành này đã trở thành minh họa tươi sáng nhất của vẻ đẹp cuộc sống.
Và rồi tôi biết rằng, bằng cách nào đó, Lilah ổn và rằng trong cái chết, nàng tìm thấy sự giải thoát.
Tôi tìm thấy nhật ký của Lilah gần như ngay lập tức. Nàng để nó trên ghế băng nhà bếp, ngay chính giữa cái ấm và bình cà phê. Sợi dây chuyền tôi tặng nàng hôm Giáng sinh được treo bên trên nó.
Tôi ngồi ngoài ban công, với những con sóng vỗ ì oạp vào bờ bên dưới và cơn gió thổi dồn những cụm mây đang tản mát lại vào nhau, dự báo một cơn mưa sắp đến. Tôi ngồi gác hai chân lên chiếc bàn thấp và đọc. Tôi bắt đầu từ trang đầu tiên và tôi đọc không dừng, ngay cả khi mắc tiểu đến muốn vỡ bàng quang và sống lưng tê cứng vì ngồi lâu một tư thế.
Tôi đọc và tôi khóc, tôi cảm thấy hai cánh tay gầy guộc của Lilah ôm quanh tôi để an ủi tôi. Tôi nhìn chữ viết của nàng và thậm chí cách diễn dạt của nàng bắt đầu vấp. Và rồi tôi tìm thấy những trang nhật ký cuối cùng của nàng, hẳn nàng đã viết lúc nào đó trong cái lần cuối cùng đi khám chỗ Lynn và tôi hiểu tại sao nàng để lại nó cho tôi.