Chúng ta đang bước vào một trong những thế giới mê hoặc và bí ẩn nhất – thế giới của Upanishad. Thời của Upanishad là thời đỉnh cao nhất trong lĩnh vực tìm kiếm tâm linh. Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có lúc nào ý thức con người đạt tới những độ cao ngang tầm dãy Himalaya như thế. Thời của Upanishad thực sự là thời vàng son, bởi nhiều lí do. Điều quan trọng nhất của bộ kinh này được chứa đựng trong lời chú hạt giống (chân ngôn chủng tử) sau:
AUM AUM
Purnamadah Đó là cái toàn vẹn.
Purnamidam Đây là cái toàn vẹn
Purnat purnamudachyate Từ sự toàn vẹn nổi lên sự toàn vẹn.
Purnasya purnamadaya Sự toàn vẹn tới từ sự toàn vẹn,
Purnameva vashishyate Sự toàn vẹn luôn còn nguyên.

Upanishad nhấn mạnh vào sự toàn vẹn. Nhớ rằng, nó không nhấn mạnh vào sự hoàn hảo mà vào sự toàn vẹn. Khoảnh khắc một người quan tâm đến sự hoàn hảo, bản ngã bước vào. Bản ngã là một kẻ cầu toàn – ham muốn của bản ngã là được hoàn hảo – và sự hoàn hảo khiến nhân loại trở nên điên cuồng.
Sự toàn vẹn hoàn toàn khác, hương vị của nó khác. Sự hoàn hảo ở trong tương lai, nó là một ham muốn. Sự toàn vẹn là ở đây bây giờ, nó là một sự giác ngộ. Sự hoàn hảo là một thành tựu, và tất nhiên mọi thành tựu đều cần thời gian; nó phải dần dần. Bạn phải hi sinh hiện tại cho tương lai, ngày hôm nay cho ngày mai. Và ngày mai không bao giờ tới, cái tới luôn luôn là hôm nay.
Hiện hữu không biết gì về tương lai và quá khứ, nó chỉ biết hiện tại. Bây giờ là thời gian duy nhất và ở đây là không gian duy nhất. Khoảnh khắc bạn đi lạc khỏi ở đây và bây giờ, bạn sẽ kết thúc trong một kiểu điên khùng nào đó. Bạn sẽ vỡ thành từng mảnh, cuộc đời bạn sẽ trở thành địa ngục. Bạn sẽ bị xé ra: Quá khứ sẽ kéo một phần của bạn về phía nó còn tương lai sẽ kéo phần kia. Bạn sẽ bị tâm thần phân liệt, tách rời, chia cắt. Cuộc đời bạn sẽ chỉ là một nỗi thống khổ, một cơn run rẩy, một mối lo âu, một sự căng thẳng sâu sắc. Bạn sẽ chẳng biết gì về phúc lạc, bạn sẽ chẳng biết gì về cực lạc bởi vì quá khứ không tồn tại.

Và người ta tiếp tục sống trong những kí ức vốn chỉ là những vết chân trên cát, hoặc họ phóng chiếu một cuộc đời vào tương lai vốn cũng không tồn tại chẳng khác gì quá khứ. Một cái không còn nữa, một cái vẫn chưa có, và giữa hai cái ấy, người ta đánh mất cái thực, cái hiện tại, cái bây giờ.
Sự toàn vẹn thuộc về cái bây giờ. Nếu bạn có thể chỉ ở đây thì bạn giác ngộ ngay khoảnh khắc này! Khi đó, nó không phải dần dần, nó đột ngột, nó là một sự bùng nổ!
Từ Upanishad vô cùng quan trọng. Nó đơn giản nghĩa là ngồi gần một bậc thầy, nó là một sự tương thông. Bậc thầy đang sống trong sự toàn vẹn; ông ấy đang sống ở đây bây giờ, ông ấy đang rung động ở đây bây giờ. Cuộc sống của ông ấy có một điệu nhạc, cuộc sống của ông ấy có một niềm vui sướng, một sự im lặng sâu sắc mênh mang. Cuộc sống của ông ấy tràn ngập ánh sáng.
Chỉ cần ngồi im lặng bên một bậc thầy là đủ, bởi vì sự hiện diện của bậc thầy có tính lan truyền, sự hiện diện của bậc thầy rất mãnh liệt. Sự im lặng của ông ấy bắt đầu vươn tới chính trái tim bạn. Sự hiện diện của ông ấy trở thành một lực hút nam châm đối với bạn: Nó kéo bạn ra khỏi vũng bùn của quá khứ và tương lai. Nó mang bạn vào trong hiện tại.
Upanishad là tương thông chứ không phải truyền thông. Truyền thông là từ cái đầu tới cái đầu còn tương thông là từ trái tim đến trái tim. Đây là một trong những bí mật vĩ đại nhất của đời sống tâm linh, và không ở đâu khác, không lúc nào khác, nó lại được thấu hiểu một cách sâu sắc như vào thời của Upanishad.
Kinh Upanishad ra đời khoảng năm ngàn năm trước. Một sự tương thông bí mật, một sự truyền đạt vượt khỏi các kinh sách, một sự tương thông vượt khỏi ngôn từ. Đây là ý nghĩa của Upanishad – bạn ngồi im lặng, không chỉ lắng nghe lời của tôi mà còn lắng nghe cả sự hiện diện của tôi. Lời chỉ là cớ để treo sự im lặng lên. Im lặng là nội dung thực sự, lời chỉ là vật chứa. Nếu bạn quá quan tâm đến lời, bạn sẽ bỏ lỡ phần hồn.
Cho nên đừng quá quan tâm đến lời. Hãy lắng nghe nhịp đập trái tim của lời. Khi bậc thầy nói, những lời đó đang đến từ cốt lõi tận cùng bên trong ông ấy. Chúng chứa đầy màu sắc, đầy ánh sáng của ông ấy. Chúng đem theo hương thơm nào đó của bản thể ông ấy. Nếu bạn rộng mở, chấp nhận, hoan nghênh, chào đón, chúng sẽ thâm nhập vào trong trái tim bạn và một tiến trình được kích hoạt.
Từ Upanishad nghĩa là tới gặp một bậc thầy, và một người chỉ tới gặp một bậc thầy khi người đó mệt mỏi với các giáo viên, mệt mỏi với các giáo huấn, mệt mỏi với các giáo điều, tín điều, triết lí, học thuyết, tôn giáo. Bấy giờ người đó mới tới gặp một bậc thầy. Và con đường tới gặp một bậc thầy là buông xuôi. Không phải buông xuôi bản thể của bạn – chỉ bản ngã, ý niệm sai lầm rằng bạn là một ai đó, một ai đó đặc biệt.
Khoảnh khắc bạn đặt ý niệm bản ngã sang một bên, những cánh cửa rộng mở – cho cơn gió, cho cơn mưa, cho mặt trời – và sự hiện diện của bậc thầy sẽ bắt đầu bước vào trong bạn, tạo ra một điệu vũ mới trong cuộc sống của bạn, trao cho bạn một cảm giác mới của thi ca, huyền bí, âm nhạc.
Nó là sự đồng bộ. Bậc thầy đang đập theo một nhịp điệu nào đó, ông ấy đang nhảy trên một mặt phẳng nào đó. Nếu bạn sẵn sàng, điệu nhảy ấy sẽ bắt đầu xảy ra trong bạn – ban đầu chỉ một chút ít, nhưng thế là đủ, một chút ít đó là đủ. Ban đầu chỉ là những giọt sương, nhưng chẳng bao lâu sau chúng trở thành đại dương.
Một khi bạn đã nếm trải niềm vui khi rộng mở, bạn không thể đóng lại một lần nữa. Đầu tiên bạn có thể chỉ mở một cửa sổ hay một cửa ra vào, rồi bạn mở tất cả cửa sổ và cửa ra vào. Và trong cuộc đời của một môn đệ, sẽ đến một khoảnh khắc không chỉ các cửa sổ và cửa ra vào được mở mà ngay cả những bức tường cũng biến mất! Anh ta rộng mở hoàn toàn, rộng mở mọi chiều. Đây là ý nghĩa của từ Upanishad.

Kinh Upanishad được viết bằng tiếng Sanskrit, Sanskrit là ngôn ngữ cổ nhất trên Trái đất. Chính từ sanskrit nghĩa là được chuyển hóa, được tô điểm, được đội vương miện, được trang hoàng, được tinh chế – nhưng hãy nhớ từ “được chuyển hóa”. Bản thân ngôn ngữ này được chuyển hóa bởi vì có quá nhiều người đã đạt đến cái tối thượng, và bởi vì họ đã sử dụng ngôn ngữ này nên có điều gì đó trong niềm vui sướng của họ thâm nhập vào trong nó, điều gì đó trong thi ca của họ bước vào bên trong từng tế bào, từng thớ thịt của nó. Thậm chí ngôn ngữ này cũng được chuyển hóa, được khai sáng. Điều đó chắc chắn phải xảy ra. Hệt như nó đang xảy ra ở phương Tây ngày nay, các ngôn ngữ đang trở nên ngày càng khoa học, đúng đắn, chính xác, khúc chiết. Chúng phải thế, bởi vì khoa học đang cho chúng màu sắc của nó, hình dạng của nó, hình thái của nó. Nếu khoa học đang lớn mạnh thì đương nhiên ngôn ngữ diễn đạt khoa học sẽ phải mang tính khoa học.
Điều tương tự cũng đã xảy ra năm ngàn năm trước ở Ấn Độ với tiếng Sanskrit. Quá nhiều người đã chứng ngộ và tất cả bọn họ đều nói tiếng Sanskrit; sự chứng ngộ của họ bước vào bên trong thứ tiếng đó với tất cả âm nhạc, với tất cả thi ca, với tất cả hân hoan. Tiếng Sanskrit trở nên sáng chói. Sanskrit là ngôn ngữ có chất thi ca và âm nhạc nhất từng tồn tại.
Một ngôn ngữ có tính thi ca thì trái ngược với một ngôn ngữ có tính khoa học. Trong ngôn ngữ có tính khoa học, mọi từ phải rất rõ ràng về ý nghĩa, nó chỉ được có một nghĩa. Trong ngôn ngữ có tính thi ca, các từ phải linh hoạt, tuôn chảy, linh động, chứ không tĩnh, phải có nhiều lớp nghĩa, nhiều khả năng. Ngôn từ không được chính xác; càng không chính xác càng tốt, bởi vì khi đó nó sẽ có thể diễn đạt tất cả các kiểu sắc thái.
Cho nên các bản kinh tiếng Sanskrit có thể được định nghĩa theo nhiều cách, có thể được bình giải theo nhiều cách – chúng cho phép có nhiều sự vui đùa. Chẳng hạn, có tám trăm gốc từ trong tiếng Sanskrit và từ tám trăm gốc từ đó tỏa ra hàng ngàn từ, hệt như từ một gốc tỏa ra một cái cây có nhiều cành và hàng ngàn chiếc lá, hàng trăm bông hoa. Mỗi gốc đều trở thành một cái cây to lớn, cành lá xum xuê.

Chẳng hạn, gốc từ ram có thể có nghĩa đầu tiên là “điềm tĩnh”, nghĩa thứ hai là “nghỉ ngơi”, nghĩa thứ ba là “thích thú với một cái gì đó”, nghĩa thứ tư là “gây ra thích thú cho ai đó”, nghĩa thứ năm là “làm tình”, nghĩa thứ sáu là “tham gia”, nghĩa thứ bảy là “làm cho hạnh phúc”, nghĩa thứ tám là “phúc lạc”, nghĩa thứ chín là “chơi đùa”, nghĩa thứ mười là “bình an”, nghĩa thứ mười một là “đứng yên”, nghĩa thứ mười hai là “dừng lại, đi tới chấm hết”, và nghĩa thứ mười ba là “Thượng Đế, thiêng liêng, cái tuyệt đối”. Và đây chỉ là một số nghĩa của ram. Đôi khi những ý nghĩa liên quan đến nhau, đôi khi không; đôi khi thậm chí chúng mâu thuẫn với nhau. Cho nên ngôn ngữ này có phẩm chất đa chiều. Bạn có thể chơi đùa với những từ ngữ đó và thông qua trò chơi ấy, bạn có thể diễn đạt điều không thể diễn đạt; có thể ngụ ý điều không thể diễn đạt.
Ngôn ngữ Sanskrit được gọi là devavani – ngôn ngữ thần thánh. Và nó chắc chắn thần thánh theo phương diện nó là ngôn ngữ có tính thi ca nhất và là ngôn ngữ có tính âm nhạc nhất. Mỗi từ đều có âm nhạc bao quanh một hương vị nhất định.
Ngôn từ không được chính xác; càng không chính xác thì càng tốt, bởi vì khi đó nó sẽ có thể diễn đạt tất cả các kiểu sắc thái.
Chuyện này đã xảy ra như thế nào? Nó xảy ra bởi vì có quá nhiều người có nội tâm vô cùng hài hòa đã sử dụng nó. Hiển nhiên những ngôn từ đó trở nên sáng chói: Chúng đã được những người chứng ngộ sử dụng. Có điều gì đó trong ánh sáng của họ ngấm vào ngôn từ, chạy vào ngôn từ; có điều gì đó trong sự im lặng của họ bước vào ngữ pháp, vào ngôn ngữ mà họ đang dùng.
Những bản viết tay bằng tiếng Sanskrit được gọi là devanagari; devanagari nghĩa là “nơi trú ngụ của thần linh”, và chắc chắn là như thế. Mỗi từ đều trở nên thiêng liêng, bởi vì nó đã được những người biết Thượng Đế, hay sự thần thánh, sử dụng.
Nguyên tắc cơ bản này phải được ghi nhớ. Kinh Upanishad nói rằng thế giới là dạng biểu lộ của Thượng Đế còn Thượng Đế là dạng không biểu lộ của thế giới, và mọi hiện tượng biểu lộ đều có một hiện tượng không biểu lộ bên trong nó.
Khi bạn thấy một bông hoa, bông hoa chỉ là dạng biểu lộ của cái gì đó bên trong nó, cốt tủy của nó, cái không biểu lộ, cái linh hồn của nó, chính bản thể của nó. Bạn không thể nắm bắt được nó, bạn không thể tìm thấy nó bằng cách mổ xẻ bông hoa. Để làm điều đó, bạn cần một cách tiếp cận thi ca chứ không phải cách tiếp cận khoa học. Cách tiếp cận khoa học sẽ phân tích, góc nhìn thi ca thì khác hoàn toàn. Khoa học sẽ chẳng bao giờ tìm thấy vẻ đẹp nào trong bông hoa bởi vì vẻ đẹp thuộc về dạng không biểu lộ. Khoa học sẽ mổ xẻ dạng biểu lộ và sẽ tìm ra tất cả các loại chất cấu thành bông hoa nhưng lại bỏ lỡ linh hồn của nó.
Mọi thứ đều có cả hai, thể xác và linh hồn. Thể xác là thế giới và linh hồn là Thượng Đế, nhưng thể xác không chống lại linh hồn, thế giới không chống lại Thượng Đế. Thế giới biểu lộ Thượng Đế, thể hiện Thượng Đế. Thượng Đế là sự im lặng và thế giới là bài ca của sự im lặng đó. Và điều đó cũng đúng với bạn. Mọi người đều có cả hai: cái biểu lộ, cấu trúc tâm trí thân thể, và cái không biểu lộ, ý thức của bạn.
Khi bạn thấy một bông hoa, bông hoa chỉ là dạng biểu lộ của cái gì đó bên trong nó, cốt tủy của nó, cái không biểu lộ, cái linh hồn của nó, chính bản thể của nó.
Tôn giáo là việc khám phá cái không biểu lộ trong cái biểu lộ. Vấn đề không phải là thoát khỏi nơi nào đó, vấn đề là thám hiểm những chiều sâu tận cùng bên trong bạn. Thám hiểm trung tâm im lặng, trung tâm của cơn lốc. Và nó luôn luôn ở đó, bất cứ khoảnh khắc nào bạn cũng có thể tìm thấy nó. Không phải tìm nó ở nơi nào khác, trên dãy Himalaya hay trong một tu viện. Nó ở bên trong bạn! Bạn có thể khám phá nó ở dãy Himalaya, bạn có thể khám phá nó ở chợ.
Kinh Upanishad nói rằng việc lựa chọn giữa cái tuyệt đối và cái tương đối là sai. Bất cứ lựa chọn nào cũng sẽ khiến cho bạn bị phiến diện, bạn sẽ không toàn vẹn. Và thiếu sự toàn vẹn thì không có phúc lạc, thiếu cái toàn vẹn thì không có sự thiêng liêng; thiếu sự toàn vẹn bạn sẽ luôn luôn lệch lạc, điên khùng một chút. Khi bạn toàn vẹn thì bạn lành mạnh bởi vì bạn là toàn bộ.

Cái tương đối nghĩa là thế giới, thế giới hiện tượng luôn biến đổi, và cái tuyệt đối nghĩa là trung tâm bất biến của thế giới luôn biến đổi. Hãy tìm ra cái bất biến trong cái luôn biến đổi. Và nó ở đó cho nên không có nghi ngờ nào cả, bạn chỉ phải biết kĩ thuật khám phá ra nó. Kĩ thuật đó là thiền.
Thiền đơn giản nghĩa là trở nên hòa hợp với cái không biểu lộ. Thể xác ở đó, bạn có thể thấy nó; tâm trí ở đó, bạn cũng có thể thấy nó. Nếu nhắm mắt lại, bạn sẽ thấy tâm trí cùng với tất cả hoạt động của nó, cùng với tất cả những việc nó đang làm. Ý nghĩ đang trôi qua, ham muốn đang trỗi dậy, kí ức đang nổi lên, và toàn thể hoạt động của tâm trí sẽ ở đó; bạn có thể quan sát nó.
Một điều chắc chắn: Người quan sát không phải là tâm trí. Người có ý thức về những hoạt động của tâm trí thì không phải một phần của tâm trí. Người quan sát đứng độc lập, nhân chứng đứng độc lập. Nhận biết được nhân chứng này là đã tìm thấy cái cốt tủy, cái trung tâm, cái tuyệt đối, cái bất biến.
Thể xác biến đổi: Bạn từng là một đứa trẻ, rồi thành một chàng trai hay một cô gái, rồi ông lão hay bà lão... Một ngày, bạn ở trong tử cung mẹ bạn, rồi bạn được sinh ra, rồi lại một ngày khác, bạn chết và biến mất vào trong tử cung của hiện hữu. Thể xác liên tục biến đổi, không ngừng biến đổi.
Tâm trí liên tục biến đổi. Vào buổi sáng, bạn hạnh phúc; vào buổi chiều, bạn giận dữ; vào buổi tối, bạn buồn bã. Tâm trạng, cảm xúc, cảm giác liên tục biến đổi; ý nghĩ liên tục biến đổi. Bánh xe liên tục chuyển động xung quanh bạn. Đây là cơn lốc, thế giới hiện tượng là cơn lốc. Nó không bao giờ y nguyên, thậm chí trong hai khoảnh khắc liên tiếp nhau.
Nhưng có điều gì đó luôn y nguyên, luôn không bao giờ biến đổi – đó là nhân chứng. Tìm ra nhân chứng đó là tìm ra điều thiêng liêng. Cho nên Upanishad không dạy bạn thờ phụng, nó dạy bạn thiền. Và có thể thiền ở bất cứ đâu bởi vì vấn đề là biết được nhân chứng. Nếu bạn đi vào một tu viện, bạn sẽ phải áp dụng cùng phương thức ấy; nếu bạn đi vào những ngọn núi, bạn sẽ phải áp dụng cùng phương thức ấy. Bạn có thể ở nhà, ở cùng gia đình, ở ngoài chợ – vẫn cùng phương thức ấy.
Trên thực tế, trong thế giới, người ta dễ thấy sự biến đổi hơn. Khi bạn ở sa mạc, sẽ khó thấy sự biến đổi hơn bởi vì ở sa mạc gần như chẳng có gì có vẻ biến đổi, hoặc sự biến đổi tinh vi đến nỗi không thể thấy được. Nhưng ở ngoài chợ, khi ngồi bên lề đường, bạn có thể liên tục thấy sự biến đổi, giao thông trên đường đang biến đổi; nó không bao giờ y nguyên. Sống trong tu viện là sống trong một thế giới tĩnh, một thế giới bất động. Như thế khác nào sống như một con ếch ở trong ao, ở trong giếng, bị bao kín. Sống trong đại dương sẽ làm cho bạn nhận biết nhiều hơn về những biến đổi.

Ở trong thế giới là tốt: Đó là thông điệp của bộ kinh Upanishad. Các nhà tiên tri Upanishad không phải những người tu khổ hạnh. Tất nhiên, họ đã từ bỏ nhiều thứ, nhưng sự từ bỏ đó không thông qua nỗ lực; nó thông qua thấu hiểu, nó thông qua thiền. Họ đã từ bỏ bản ngã bởi vì họ thấy rằng nó chỉ là một thứ do tâm trí tạo ra. Nó không có thực tại, không có thực chất nào trong nó; nó là cái bóng thuần túy, và lãng phí cuộc sống với nó là ngớ ngẩn. Nói họ từ bỏ là không đúng, đúng hơn là nói rằng họ đã trở nên nhận biết đến mức tự nó khô héo đi.
Họ không còn tính sở hữu. Không phải là họ không sở hữu thứ gì, mà họ không còn tính sở hữu. Họ sử dụng mọi thứ. Họ không phải những kẻ ăn mày.

Họ sống vui vẻ, tận hưởng mọi thứ họ có, nhưng họ không có tính sở hữu, họ không phải những người bám chấp. Đó là sự từ bỏ đích thực: sống trong thế giới mà vẫn tuyệt đối không có tính sở hữu. Họ yêu thương, nhưng không ghen tuông. Họ yêu thương một cách trọn vẹn mà không có bất kỳ bản ngã nào xen vào, không có bất kỳ ý tưởng nào muốn thống trị người khác.
Đó là điều tôi đang cố gắng làm ở đây, và có những tên ngốc ở Ấn Độ nghĩ tôi chống lại văn hóa Ấn Độ.
Đương nhiên là tôi chống lại điều đã xảy ra trong ba ngàn năm qua – đó không phải văn hóa thực sự, đó là sự lầm lạc, đó là sự xấu xí. Nó đã khiến Ấn Độ bần cùng, nó đã khiến Ấn Độ phải làm nô lệ trong nhiều thế kỉ; nó đã khiến Ấn Độ đói kém, ốm yếu, bẩn thỉu, vì lí do đơn giản là nếu bạn dạy người ta rằng cuộc sống là không tốt – nó chỉ đáng từ bỏ, nó không có giá trị, giá trị duy nhất nó có là từ bỏ nó, đức hạnh duy nhất là chống lại cuộc sống – thì tự nhiên cuộc sống sẽ đau khổ.
Nhưng đây không phải là thông điệp của Upanishad, và Upanishad chính là linh hồn của Ấn Độ – không chỉ của Ấn Độ mà của tất cả những người có tôn giáo ở bất cứ nơi nào. Họ sẽ tìm thấy trong bộ kinh Upanishad trái tim mình, họ sẽ hân hoan trong bộ kinh Upanishad bởi vì Upanishad dạy sự toàn vẹn.