1. Hòn đá tảng về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, khoa học, kỹ thuật
1.1. Sự tác động của thời đại tới Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ những yếu tố dân tộc và quốc tế. Việc hướng tới phương Tây để tìm đường cứu nước cho thấy một trí tuệ sáng suốt của Người, bởi so với phương Đông hằng nghìn năm phong kiến chuyên chế và hằng trăm năm dưới chế độ thực dân cũng không kém phần chuyên chế, thì phương Tây là nơi có khoa học, kỹ thuật phát triển. Từ khi sinh ra cho đến tận cuối đời, trong hơn hai phần ba thế kỷ, Hồ Chí Minh luôn chịu tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của nhiều yếu tố quốc tế. Từ khi còn trên ghế trường tiểu học Pháp- bản xứ ở thành phố Vinh, được kích thích bởi những khái niệm Tự do- Bình đẳng- Bác ái và Hồ Chí Minh đã muốn làm quen với nền văn minh Pháp.
Với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, Hồ Chí Minh đã nhận thức được quy luật phát triển của lịch sử là phải đặt cách mạng Việt Nam trong trào lưu chung của cách mạng thế giới. Chủ nghĩa tư bản ra đời đã mở rộng thị trường quốc tế, làm tăng tiến sự phát triển của khoa học kỹ thuật, giao thông vận tải, thu hẹp khoảng cách giữa các khu vực... Bằng nhãn quan cách mạng, khoa học và nhân văn của chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận ra rằng sự đoàn kết quốc tế, hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là đòi hỏi khách quan. Từ khi ở trong nước và sau đó ra nước ngoài, Hồ Chí Minh đã chịu ảnh hưởng của nhiều cuộc cách mạng xã hội như Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776, Cách mạng mạng tư sản Pháp năm 1789, Cách mạng Nga năm 1905, Cách mạng Tân hợi Trung Quốc năm 1911, Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Cùng với những sự kiện đó, đồng thời Hồ Chí Minh đã tiếp cận Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp, học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn. Những sự kiện đó đã để lại dấu ấn đậm nét ngay trong những dòng đầu của Tuyên ngôn độc lập năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việc khẳng định “Độc lập, Tự do, Hạnh phúc”, quyền con người, quyền dân tộc không chỉ thể hiện mục tiêu đấu tranh của dân tộc Việt Nam mà còn khẳng định hạt nhân trong nền văn hóa của loài người. Rồi sau này, khi nói về cách mạng Tháng Mười Nga, Người coi đó là mặt trời chói lọi,chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Cách mạng Tháng Mười là ánh sáng cách mạng, ánh sáng văn hóa, chiếu sáng khắp năm châu, xua tan bóng tối của áp bức, bất công, bất bình đẳng, đói nghèo, bệnh tật, dốt nát, sự hận thù và chiến tranh..., đem lại cho mọi người trên trái đất hòa bình, ấm no, hạnh phúc, quyền tự quyết và quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài.
Hồ Chí Minh cũng từng biết đến cao trào cách mạng vô sản ở một số nước châu âu như cách mạng công – nông 1848 ở Pháp, Công xã Pari 1871. Đặc biệt Người đã chứng kiến phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước châu á mà sau này được phản ánh đậm nét trong nhiều tác phẩm của Người, đặc biệt là Bản án chế độ thực dân Pháp năm 1925.
1.2. Hồ chí Minh tác động vào thời đại
Thế kỷ XX là thế kỷ phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học kỹ thuật, thế kỷ bùng nổ của tri thức nhân loại, làm cho hiểu biết của nhân loại trong thế kỷ XX vượt xa tổng số tri thức của tất cả các thời đại trước cộng lại. Không phải ngẫu nhiên mà chỉ mới hai mươi sáu ngày sau buổi lễ độc lập, thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã công bố chính sách với các nước Đồng Minh và với nước Pháp, khẳng định, “đối với các nước Đồng Minh, Việt Nam chủ trương hết sức thân thiện và thành thực cộng tác trên lập trường bình đẳng tương ái để xây đắp lại nền hòa bình của thế giới”.Ngày 23-10-1945, trả lời các nhà báo về thái độ hiện thời của Chính phủ Việt Nam đối với Trung Hoa và Pháp, Hồ Chí Minh nêu rõ lập trường của chúng ta là “không chống tất cả nước Pháp, tất cả dân chúng pháp. Nếu có những người Pháp muốn qua đây điều đình một cách hòa bình, lẽ tất nhiên chúng ta sẽ hoan nghênh. Chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác. Có thể rằng, chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia”. ngay sau Đại hội quốc dân Tân Trào, ngày 18-8-1945, Hồ Chí Minh đã gửi thông điệp cho Chính phủ Pháp nêu ra đề nghị 5 điểm, trong đó điểm 4 là: Chính phủ Pháp hưởng quyền ưu đãi trong kỹ nghệ và thương mại ở Việt Nam. Từ đầu năm 1946, nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã có lời kêu gọi hai cường quốc Liên Xô và Mỹ “nhận chúng tôi vào Hội đồng Liên hợp quốc”. Đồng thời Người gửi thư cho Tổng thống Mỹ đề nghị “tiếp nhận 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ với ý định một mặt thiết lập những mối quan hệ văn hóa thân thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác... Tha thiết mong muốn tạo được mối quan hệ với nhân dân Mỹ là những người mà lập trường cao quý đối với những lý tưởng cao thượng về công lý và nhân bản quốc tế, và những thành tựu kỹ thuật hiện đại của họ đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trí thức Việt Nam”.
Tư tưởng hợp tác với các quốc gia trong việc xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn và một nền hòa bình bền vững xuyên suốt trong quá trình hoạt động và lãnh đạo cách mạng của Hồ Chí Minh. Trong năm 1946, trong lời kêu gọi Liên hợp quốc, Hồ Chí Minh đã đề xuất những định hướng rõ ràng cho đất nước mở cửa, hội nhập, hợp tác kinh tế, văn hóa với khu vực và quốc tế. Trong chính sách đối ngoại, Người nêu hai nguyên tắc, trong đó điểm 2 là : “ Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: a) Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế. c) Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc” 50.
Ngày 16-7-1947, trả lời một nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh khẳng định rằng “ chúng tôi rất hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản các nước khác thật thà cộng tác với chúng tôi. Một là để xây dựng lại Việt Nam sau lúc bị chiến tranh tàn phá, hai là để điều hòa kinh tế thế giới và giữ gìn hòa bình”. Với tư duy Việt Nam sẵn sàng đứng với tất cả các nước bầu bạn, Hồ Chí Minh khẳng định “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà”. Trả lời một nhà báo nước ngoài ngày 22-6-1947, Hồ Chí Minh khẳng định rằng “Việt Nam có nhiều phụ nguyên, chúng tôi rất hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản các nước cộng tác thật thà với chúng tôi”.
Rõ ràng là Hồ Chí Minh đã sớm phát hiện ra vai trò to lớn, động lực mạnh mẽ của vấn đề hợp tác quốc tế trong thời đại mới, trong đó hạt nhân là khoa học, kỹ thuật, văn hóa, giáo dục. Người viết: “Năm mươi năm vừa qua có những biến đổi mau chóng hơn và quan trọng hơn nhiều thế kỷ trước cộng lại. Trong năm mươi năm đó, đã có những phát minh như chiếu bóng, vô tuyến điện, vô tuyến truyền hình (television) cho đến sức nguyên tử. Nghĩa là loài người đã tiến một bước dài trong việc điều khiển sức thiên nhiên” 51.
50 Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr. 170
51 Hồ Chí Minh, Sdd, t.6, tr. 153.
Chúng ta lưu ý rằng, đoạn nói về tình hình khoa học- kỹ thuật ở trên được trình bày ngay trong những dòng đầu tiên trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng, tức là khi cả dân tộc đang dồn trí tuệ, sức lực và của cải để cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nhanh chóng thắng lợi. Vấn đề ở đây không chỉ dừng lại ở những con số, sự kiện về khoa học, kỹ thuật mà chứa đựng cả một tầm nhìn, một trí tuệ và bản lĩnh của lãnh tụ. Hồ Chí Minh không chỉ xác định vấn đề thời đại thông qua cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại là cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, mà Người còn khẳng định “thời đại chúng ta bây giờ là thời đại vệ tinh nhân tạo, nghĩa là thời đại của khoa học phát triển rất mạnh” 52. Trên tinh thần đó, khi miền bắc bước vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa, nói chuyện tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai, Hồ Chí Minh căn dặn thanh niên phải có sáu cái yêu, đó là yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, yêu khoa học và kỷ luật. “Bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có khoa học và kỷ luật” 53. “Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học chắc chắn sẽ đưa loài người tới hạnh phúc vô tận” 54.
52 Hồ Chí Minh, Sdd, t.9, tr.174.
53 Hồ Chí Minh, Sdd, t.9, tr.174.
54 Hồ Chí Minh, Sdd, t.9, tr.131.
Là một nhà cách mạng chuyên nghiệp, Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm đến cách mạng xã hội. Khi đất nước đang đắm chìm trong đêm dài nô lệ, chưa có đảng, chưa rõ tương lai của dân tộc, Hồ Chí Minh đã nghiêm túc nhận xét thanh niên Trung Quốc về thái độ cầu thị thực sự chấn hưng nền kinh tế nước nhà bằng khoa học như là một lời cảnh báo cho thanh niên Việt Nam. Người tin tưởng không bao lâu nữa, Trung Quốc sẽ có một địa vị trong hàng các cường quốc công nghiệp và thương nghiệp thế giới. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, khi cắt nghĩa “Cách mệnh là gì?”, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt. Thí dụ, ông Galilê (1633) là khoa học cách mệnh. Ông Stêphenxông (1800) là cơ khí cách mệnh. Ông Đácuyn (1859) là cách vật cách mệnh. Ông Các Mác là kinh tế học cách mệnh... Trên nền tư duy khoa học đó, trong khi có mặt ở hầu khắp các nước trên thế giới, Hồ Chí Minh luôn khẳng định: “Thế giới ngày nay đang tiến những bước khổng lồ về mặt kiến thức của con người. Khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội không ngừng mở rộng ra những chân trời mới, con người ngày càng làm chủ được thiên nhiên , cũng như làm chủ được vận mệnh của xã hội và của bản thân mình” . Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh nhắc nhở thanh niên không chỉ vượt khó khăn để mà chiến thắng, để hưởng thụ tất cả những khoa học, những hiểu biết của thời đại thế kỷ XX, mà còn phải biết vận dụng những thành tựu khoa học đó nhằm thiết thực giải quyết những vấn đề do cách mạng nước ta đặt ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật.
Trong những dịp nói chuyện với nhân dân các nước trên thế giới cũng như nói chuyện với sinh viên quốc tế tại Việt Nam, Hồ Chí Minh không bỏ lỡ một cơ hội nào để nhấn mạnh và khẳng định vai trò, vị trí to lớn của mặt trận văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật; nhấn mạnh tinh thần hợp tác anh em giữa tất cả các dân tộc về mọi mặt để xây dựng đời sống hạnh phúc, tươi vui. Nói chuyện tại Hội nghị chuyên đề sinh viên quốc tế họp tại Việt Nam, Hồ Chí Minh nhấn mạnh một nhiệm vụ quan trọng của thanh niên trí thức là phát triển giáo dục.Theo Người, thời đại này là thời đại vẻ vang của thanh niên. Mà thanh niên phải là những đội xung phong trên các mặt trận chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Thanh niên đã thực hiện những điều mơ ước của loài người từ bao thế kỷ. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai thanh niên Liên Xô là đồng chí Gagarin và Titốp đã thành công rực rỡ trong việc đưa hai con tàu vũ trụ chọc thủng bầu trời, bay quanh quả đất. Thêm một thắng lợi của khoa học thế giới, Hồ Chí Minh lại thêm một niềm vui về mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật. Nhân sự kiện Liên Xô phóng thành công con tàu vũ trụ “phương Đông” bay vòng quanh quả đất một giờ rưỡi, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đó là một thắng lợi vô cùng rực rỡ. Song những người cộng sản không ngạc nhiên. Trước đây độ 100 năm, Các Mác đã đoán trước: Giai cấp công nhân sẽ tiến công lên trời...Trước đây gần bốn năm (10-1957), Liên Xô là nước đầu tiên trên thế giới đã phóng thành công quả vệ tinh đầu tiên trong lịch sử loài người. Từ đó đến nay, Liên Xô liên tiếp phóng những vệ tinh lượng ngày càng nặng, bay ngày càng cao. Kết quả ngày càng kỳ diệu. Tên lửa Liên Xô đã đặt Quốc huy búa liềm vào mặt trăng (9-1959) và chụp ảnh phía sau mặt trăng (10-1959). Tên lửa hạng to của Liên Xô đã hai lần từ 12.500 cây số bay trúng vào đích ở Thái Bình Dương; các nhà khoa học phương Tây đã kinh ngạc mà nói rằng: thế là như bắn trúng một con ruồi cách xa 12 cây số!. Liên Xô là nước đầu tiên phóng vệ tinh lên Sao Kim, cách quả đất mấy chục triệu cây số. Ngày nay Liên Xô lại là nước đầu tiên thành công trong việc cho người bay lên vũ trụ, mở ra kỷ nguyên mới trong sự phát triển vĩ đại của loài người...Khoa học xôviết đã chinh phục được vũ trụ” 56 .
56 Hồ Chí Minh, Sdd, t.10, tr.341-342.
Có thể khẳng định rằng, Hồ Chí Minh đã xây đắp một kho tàng lý luận và thực tiễn về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật. Đây chính là hòn đá tảng cho Đảng và dân tộc ta vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của Người về hợp tác quốc tế về tất cả các lĩnh vực trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.
2. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
2.1. Tình hình thế giới
Công cuộc đổi mới đất nước đã đi được chặng đường hơn 20 năm. Loài người đang bước những bước cuối cùng của chặng đường đầu 20 năm trong thế kỷ XXI. Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển, nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Cạnh tranh kinh tế- thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệ... giữa các nước ngày càng gay gắt. Khoa học và công nghệ đang có những bước tiến nhảy vọt và những đột phá lớn. Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn rất gay gắt. Nhiều vấn đề toàn cầu bức xúc đòi hỏi các quốc gia và các tổ chức quốc tế phối hợp giải quyết. Khu vực châu á- Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam á nói riêng, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục gia tăng, nhưng luôn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Nhìn chung, xu thế lớn trên thế giới vẫn là hòa bình, hợp tác và phát triển.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, trên cơ sở phân tích những đặc điểm của tình hình thế giới và những xu thế tất yếu trong quan hệ quốc tế đã xác định: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” 57. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, chúng ta cần quán triệt và vận dụng tốt những quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận của Hồ Chí Minh trong việc hợp tác quốc tế về văn hóa, khoa học, kỹ thuật.
57 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H, 2006, tr.112.
2.2. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa
Bàn tới văn hóa là phải nói đến tiếp biến văn hóa, có nghĩa là tiếp biến văn hóa là một quy luật. Sinh thời Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng văn hóa Việt Nam là văn hóa Đông phương và Tây phương chung đúc lại. Ngày nay, trong xu thế hội nhập ngày càng sâu, trước hết phải làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất nước và con người Việt Nam với thế giới. Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, kết tinh những gì đẹp nhất trong cuộc đấu tranh thiên nhiên và đấu tranh xã hội. Văn hóa Việt Nam gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Và nói đến văn hóa là nói đến con người, nói đến đất nước. Ngành đất nước học cùng với văn hóa học phải có nhiệm vụ giới thiệu văn hóa và những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam với bạn bè thế giới. Một trong những việc cần làm ngay là khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc và làm cho bè bạn năm châu ngày càng nhận thức rõ hơn về vấn đề này. Đó là những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình- làng xã- Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo như tiếng nói, phong tục, tập quán, lễ hội...
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, vì sự sinh tồn và mục đích của cuộc sống, con người Việt Nam đã sáng tạo ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật... Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa Việt Nam. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa là phải giới thiệu những giá trị đó ra thế giới. Dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam không chỉ là đất nước của lịch sử hàng ngàn năm chống giặc giữ nước, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, mà còn là một đất nước nhiều kỳ quan thiên nhiên, chứa đựng những vẻ đẹp tiềm ẩn. Đó là lợi thế của chúng ta. Trong xu thế hội nhập, ta phải phát huy lợi thế đó để bè bạn cảm nhận được những kỳ diệu của đất nước Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam là văn hóa trọng tình. Con người Việt Nam sống có tình có nghĩa, có thủy có chung, có nhân có đức, có trước có sau. Chiến tranh đã lùi xa hơn ba mươi năm. Chúng ta cần khẳng định với bè bạn thế giới, trước đây chúng ta chiến đấu không phải chỉ vì độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn vì độc lập, hòa bình thế giới. Ngày nay trong xây dựng đất nước, chúng ta sắn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế. Sự có mặt của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế như WTO, ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là chúng ta sẽ đóng một vai trò tích cực vì những khát vọng chung về những giá trị văn hóa, giá trị nhân phẩm của loài người tiến bộ. Tinh thần quốc tế thủy chung, trước sau như một, trọn nghĩa vẹn tình của Hồ Chí Minh trước đây như thế nào, thì ngày nay nhân dân Việt Nam cũng son sắt, thủy chung như vậy.
Trong mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, cần chú ý tiếp thu có chọn lọc các giá trị khoa học nhân văn, tiến bộ của nước ngoài. Phổ biến những kinh nghiệm tốt xây dựng và phát triển văn hóa của các nước. Hiện nay Việt Nam đã trở thành một thành viên của Tổ chức thương mại thế giới. Việc tiếp thu những thành tựu văn hóa trong Tổ chức WTO và tất cả các nước trên thế giới là hết sức cần thiết. Những năm gần đây, thế giới phương Tây đã nhận ra sự cần thiết phải khai thác những giá trị văn hóa phương Đông và thế giới phương Đông cũng nhận thấy sự cần thiết phải khai thác những giá trị văn hóa phương Tây. Lời tiên tri “Đông là Đông, Tây là Tây” của Kiplin đã bị thực tiễn phủ nhận. Trong khi đó, loài người ngày càng nhận ra tính đúng đắn trong lời khẳng định của Hồ Chí Minh: “Chúng ta đều được kích thích bởi một tinh thần. Triết lý đạo Khổng, và triết lý phương Tây đều tán dương một nguyên tắc đạo đức: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” 58 .
58 Hồ Chí Minh, Sdd, t.4, tr.267.
Điều cần thiết là trong khi nhấn mạnh những tính ưu trội của văn hóa Việt Nam, cần phải thẳng thắn thừa nhận và chỉ ra những mặt yếu kém của văn hóa Việt Nam, những thói hư tật xấu của con người Việt Nam. Cũng phải nhìn nhận trong mặt tích cực có hạn chế. Trong đổi mới, hội nhập hiện nay, nhất là khi tập trung xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải loại khỏi tư duy những nhận thức chỉ thấy mặt tốt mà không thấy mặt yếu kém, hoặc thấy yếu kém mà không dám chỉ ra. Phải hiểu rằng, về mặt văn hóa, trong tư duy cũng như các mặt khác, dám thừa nhận khuyết điểm, dù có đau lòng, vẫn chứa đựng một giá trị phát triển. Chỉ có như vậy thì chúng ta mới tiếp thu được các giá trị nhân loại. Một ví dụ: văn hóa Việt Nam là văn hóa trọng tình như đã nói. Và để khẳng định điều đó, chúng ta “tự hào” rằng “trăm cái lý không bằng tí cái tình”. Nhưng đặt điều đó trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền với ý nghĩa pháp luật là tối thượng, phải nghiêm và minh về pháp luật, thì rõ ràng không thể chấp nhận “một tí cái tình” lại có thể đánh đổ “trăm cái lý”. Nhìn nhận như vậy để thấy rằng chúng ta phải tiếp thu có chọn lọc, có phê phán, kế thừa và phát triển những giá trị và tư duy pháp lý nhân loại. Nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta thấy rằng nhiều nước có những kinh nghiệm tốt trong xây dựng và phát triển văn hóa. Chẳng hạn Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan là những nước rất chú trong việc giáo dục đạo đức công dân. Không phải chỉ chúng ta mà nhiều nước trên thế giới rất quan tâm giáo dục công dân lòng yêu nước, yêu tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh. Nhiều nước không có được lịch sử hàng ngàn năm văn hiến, dựng nước và giữ nước như chúng ta, nhưng trong quá trình xây dựng đất nước, họ chú trọng đặt mình trong xu thế của thời đại, không tách mình ra khỏi thế giới, để giáo dục công dân nước họ những “điều hay, lẽ phải”. Gần đây, với vai trò bộ trưởng cố vấn, nhà sáng lập Singapore Lý Quang Diệu đã thẳng thắn trả lời báo chí rằng, tuy Singapore là nước “không có hệ tư tưởng”, nhưng việc thấm nhuần tinh thần phục vụ đất nước đến độ bản thân tinh thần này trở thành một hệ tư tưởng. Cây đũa thần của Lý Quang Diệu là ở chỗ “nếu điều gì đó cần thiết cho sự sống còn và tiến bộ, hãy làm điều đó”. Lý Quang Diệu tâm sự, “chúng tôi phải đi theo hướng mà hoàn cảnh của thế giới quy định nếu muốn sống sót và trở thành một phần của thế giới hiện đại này, bằng không chúng tôi sẽ trở về với làng chài ngày trước”.
Trong văn hóa chúng ta phải đặc biệt tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trong lĩnh vực giáo dục. Hơn mười năm nay, chúng ta đã xác định giáo dục là quốc sách hàng đầu. Nhưng rõ ràng, giáo dục vẫn là một bài toán lớn, chưa có lời giải. Chúng ta vẫn chưa có được một triết lý giáo dục, một chiến lược giáo dục ngang tầm khu vực, theo kịp thế giới và phù hợp với thực tế Việt Nam. Vì vậy, theo tinh thần Hồ Chí Minh, để Việt Nam có thể sánh vai với các cường quốc năm châu thì có cái gì tốt, cái gì hay của văn hóa, giáo dục Đông phương hay Tây phương thì ta phải học lấy để làm giàu cho văn hóa Việt Nam. Nhiều bài học kinh nghiệm hay của các nước mà ta phải nghiêm túc học hỏi. Chẳng hạn, đó là bài học của giáo dục Pháp, mở cửa cho trẻ ra toàn cầu, với sự đối thoại của các nền văn hóa. Đó không phải là sự chối từ bản sắc mà là sự hoàn thiện. Trong Thư của Tổng thống Pháp gửi các nhà giáo nhân bước vào năm học 2007-2008, ông nhấn mạnh “ta không giáo dục trẻ theo kiểu làm cho chúng tin rằng cuộc đời này chỉ là một trò chơi hoặc mọi kiến thức của nhân loại đã được bày lên mạng nên chẳng cần học nữa. Trong thời đại của video, điện thoại di động, Internet, của sự thông tin liên lạc tức thì, lớp trẻ càng cần đến một nền văn hóa tổng quát. Chúng càng cần hơn khả năng phân tích, tư duy phản biện. Nền giáo dục cần bớt thụ động, công thức, máy móc. Tiếp thu chọn lọc nền giáo dục các nước là hãy phá bỏ khuôn mẫu, đập bỏ kiểu dạy dỗ máy móc, hãy khai phá tiềm năng.
Cũng như nền giáo dục Pháp, học hỏi nền giáo dục Singapore là không phải thi cử, kiến thức là tất cả. Nền văn hóa thật sự đòi hỏi nhiều điều hơn là sự trả bài. Thật ra những điều đó nếu trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thì không phải là điều gì mới mẻ. Học để biết cách học, học để làm, đáp ứng nhu cầu xã hội, học để tự khẳng định mình là những vấn đề Hồ Chí Minh trăn trở từ thập kỷ bốn mươi của thế kỷ trước. Giờ đây, vận dụng tư tưởng của Người trong hợp tác quốc tế về văn hóa, giáo dục, chúng ta càng phải quán triệt sâu sắc để không tụt hậu xa hơn về giáo dục so với các nước, để góp phần quan trọng sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn phải ngăn ngừa sự xâm nhập các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã dạy, trong khi phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta xác định đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp. Với tinh thần đó, về mặt mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, phải giúp đỡ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiểu biết tình hình nước nhà, thu nhận thông tin và sản phẩm văn hóa từ trong nước ra, nêu cao lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc, phát huy trí tuệ, tài năng sáng tạo, đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước.
2.3. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ
Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nhấn mạnh việc nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của khoa học và công nghệ. Về phương hướng tổng quát, chúng ta xác định giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Về mặt hợp tác quốc tế, Đảng ta xác định “đẩy mạnh có chọn lọc việc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của các ngành có lợi thế cạnh tranh, có tỉ trọng lớn trong GDP, các ngành công nghiệp bổ trợ và tạo nhiều việc làm cho xã hội; phát triển công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới. Phát triển hệ thống thông tin quốc gia về nhân lực và công nghệ. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Có chính sách hấp dẫn để các công ty xuyên quốc gia đầu tư và chuyển giao công nghệ mới cho các doanh nghiệp Việt Nam. Chú trọng nhập khẩu công nghệ hiện đại. Có chính sách thu hút các nhà khoa học, công nghệ giỏi ở trong nước và ngoài nước, trong cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài”.
Trong hoạt động của khoa học và công nghệ, phải chú ý đồng bộ cả phát triển khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ. Để đến năm 2010, năng lực khoa học và công nghệ nước ta đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực quan trọng, cần phải tăng cường hợp tác quốc tế. Điều quan trọng trước hết là chúng ta phải nhận thức đầy đủ bức tranh của nhân loại khi bước vào thế kỷ XXI. Đó là sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ, của nền kinh tế tri thức. Nhận thức về tính tất yếu của hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ để đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển là điều có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Để hợp tác có hiệu quả và có khả năng hấp thụ tốt thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới thì chúng ta phải có lực. Lực ở đây không chỉ là sự phát triển khoa học công nghệ trong nước, mà điều quan trọng là đội ngũ cán bộ khoa học, trên cơ sở nhân cách phẩm chất đạo đức tốt, phải có trình độ khoa học, ngoại ngữ để tiếp nhận thành tựu khoa học thế giới. Số cán bộ này phải có một sự hiểu biết rộng trên phạm vi thế giới, phải có một tư duy toàn cầu, nắm bắt được xu thế khoa học công nghệ trên thế giới. Đội ngũ này phải nắm vững quan điểm của Đảng về tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường để trong quá trình tiếp thu công nghệ thế giới không bị choáng ngợp đi đến sùng ngoại, sùng bái khoa học hiện đại, cũng không bi quan, tự ti. Lịch sử đã cho thấy mọi thứ đều do con người làm ra. Trước đây, trong đánh giặc, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ súng đạn là cần, nhưng ai sử dụng vũ khí đó còn quan trọng hơn. “Người trước súng sau” là quan điểm cho thấy vai trò của con người trong việc làm chủ khoa học công nghệ.
Ngày nay văn minh trí tuệ có hai biểu hiện đặc trưng là xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cuộc cách mạng “kép”: cách mạng công nghệ và cách mạng tin học. Đây là điều kiện để “đi tắt đón đầu”. Vấn đề còn lại hiện nay là ở phía chúng ta. Phải nhận thức sâu sắc rằng xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể thiếu khoa học công nghệ. Xây dựng chính phủ điện tử không thể thiếu khoa học công nghệ. Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không thể thiếu khoa học công nghệ. Tăng trưởng kinh tế không thể thiếu khoa học công nghệ. Phát triển bền vững không thể thiếu khoa học công nghệ. V.v.. Tóm lại, khoa học công nghệ là công việc của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, do Nhà nước quản lý dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chỉ trên cơ sở phát huy năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ, kết hợp với việc tiếp thu những thành tựu về khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới thì mới có thể phát triển được khoa học công nghệ Việt Nam, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.