Hàng ngàn năm dưới chế độ quân chủ chuyên chế và mấy chục năm dưới chế độ thực dân cũng không kém phần chuyên chế, nước ta không có hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Ra đi tìm đường cứu nước, từ thân phận một người dân nô lệ, mất nước, cùng với yếu tố quan trọng nhất trong hành trang là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, Hồ Chí Minh đã được kích thích bởi những tư tưởng dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái của phương Tây. Người muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau các khái niệm đó. Trong ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh có mặt ở nhiều nước, nhưng chủ yếu là ở châu Âu nên Người chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng của phương Tây. Ra đi từ một nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã được tôi luyện những lý tưởng cách mạng, tiến bộ, tự do, dân chủ ở phương Tây, nhưng đó là một sự tiếp nhận qua lăng kính giải phóng dân tộc. Người tiếp cận Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà khai sáng như Vonte, Rútxô, Môngtetxkiơ. Tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng qua các tác phẩm như Tinh thần pháp luật của Môngtetxkiơ, Khế ước xã hội của Rútxô, đặc biệt là Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Đại cách mạng Pháp đã ảnh hưởng tới tư tưởng của Nguyễn ái Quốc. Hồ Chí Minh còn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và hình thành phong cách dân chủ của mình qua cuộc sống thực tiễn. Từ cách sinh hoạt khoa học ở Câu lạc bộ Phôbua ở ngoại ô Pari, không khí tranh luận ở Đại hội Tua (tháng 2-1920), Hồ Chí Minh đã học được cách làm việc dân chủ. Dù còn nhiều hạn chế, nhưng những gì Hồ Chí Minh học được từ tư tưởng và phong cách dân chủ ở phương Tây đã làm giàu cho trí ruệ của Người, để từ đó Người thâu hái, gạn đục khơi trong, tìm lấy hạt nhân hợp lý, suy nghĩ, lựa chọn, kế thừa, đổi mới, vận dụng và phát triển sáng tạo trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh được tiếp thu tư tưởng dân chủ mang tính cách mạng, khoa học, nhân văn. Từ đây, tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh không chỉ phong phú thêm, mà còn mang một chất lượng mới, trình độ mới, phản ánh được trí tuệ của thời đại, mang đậm sắc thái Hồ Chí Minh.
Là một nhà cách mạng chuyên nghiệp của quần chúng nhân dân, từ phong trào quần chúng trở thành người lãnh đạo và khi đã trở thành lãnh tụ vẫn kiên trì công tác quần chúng, tư tưởng và phong cách dân chủ Hồ Chí Minh hình thành từ sớm, xuyên suốt, nhất quán đến tận cuối đời. Ngay sau khi sáng lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã kiên trì xây dựng nền dân chủ và một nhà nước thật sự dân chủ- nhà nước của dân, do dân, vì dân. Mối quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh là làm cho mọi người dân hiểu nhà nước mới, chế độ mới khác nhà nước cũ, chế độ cũ ở điều quan trọng nhất là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nước dân chủ. Dân chủ được Người giải thích ngắn gọn, súc tích là dân làm chủ và dân là chủ. Khi người dân chưa hiểu dân chủ là gì thì không thể thực hành được dân chủ. Phải làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm. Hiểu dân chủ tức là nhân dân có quyền lợi làm chủ và phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân. Nước dân chủ, chế độ dân chủ thì bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới là trách nhiệm của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Trong nước dân chủ thì địa vị cao nhất là dân, dân là quý nhất, dân là mạnh nhất.
Tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh thể hiện trong phong cách lãnh đạo của Người và biến thành một phẩm chất đạo đức quý giá. Hồ Chí Minh trước sau gắn bó với nhân dân, tin tưởng, quý trọng nhân dân, đi đúng đường lối quần chúng nhân dân. Người không bao giờ coi mình cao hơn thiên hạ, đặt mình trên nhân dân, trên Đảng, trên Nhà nước. Theo Người, quyền lực thuộc về nhân dân và do nhân dân ủy thác. Trước sau, Người chỉ xem mình là một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận, bao giờ đồng bào cho lui thì Người vui lòng lui. Đứng ở đỉnh cao quyền lực 24 năm nhưng Hồ Chí Minh không xử sự như một người cầm quyền. Người quan tâm tới đảng cầm quyền nhưng ít khi nói đến quyền lực của Đảng đối với dân, với nước. Quyền uy của Đảng, theo Người, phụ thuộc vào tính đúng đắn, sáng suốt của đường lối chính trị và phẩm chất, nhân cách của cán bộ, đảng viên. Người thường đối thoại bình đẳng với mọi người, không thích ra lệnh, lên lớp. Người đến với mọi người bằng hợp chất lý và tình, thuyết phục bằng cảm hóa.
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên thực hành phong cách dân chủ kiểu mới mang nội dung khoa học, cách mạng và được tiến hành như một nghệ thuật. Người đã động viên được đông đảo nhân dân, làm chuyển biến nhiều người lao động bình thường thành người yêu nước, người chiến sĩ cách mạng. Người đã gắn chặt tư tưởng dân chủ với hoạt động cách mạng và coi tư tưởng dân chủ là một nội dung đặc biệt quan trọng trong công tác cách mạng. Trong khi vun đắp tư tưởng và phong cách dân chủ, Hồ Chí Minh đã phê phán những cán bộ thoát ly quần chúng, đè đầu cưỡi cổ dân, trở thành “quan cách mạng”. Người viết: “Miệng thì nói dân chủ nhưng làm việc thì theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ” 42 .
42 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1995, t.6, tr.292-293.
Nghiên cứu tư tưởng và phong cách dân chủ Hồ Chí Minh là đi vào thực chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Cốt lõi của dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, mà nòng cốt là nhân dân lao động công nhân, nông dân, trí thức về tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, bao gồm lực lượng của cả cộng đồng và lực lượng của từng cá nhân. Sức mạnh này chỉ có thể có được khi họ được tổ chức chặt chẽ, được phát huy dân chủ hết cỡ. Làm cách mạng phải dựa vào dân, phát huy lực lượng của toàn dân- lực lượng vật chất, lực lượng tinh thần. Chung quy cách mạng là động viên con người để giải phóng và mang lại hạnh phúc cho con người
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện trên ba mặt gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau là dân quyền, dân sinh, dân trí. Hồ Chí Minh đặc biệt chăm lo dân quyền. Nền chính trị mà Người hướng tới và xây dựng là chính trị dân quyền. Người càng chăm lo dân sinh và rất chăm lo dân trí. Trong suốt quá trình cách mạng, Người quyết tâm và động viên toàn dân thực hiện: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Người dạy rằng, nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì. Vì vậy, việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân ta phải hết sức tránh. Hồ Chí Minh rất quan tâm và coi trọng xây dựng một nhà nước mà “mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”; xây dựng một Chính phủ là công bộc của dân. “Dân là chủ thì Chính phủ phải là đày tớ. Làm việc ngày nay không phải là để thăng quan phát tài. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ” 43.
Là người sáng lập nhà nước dân chủ mới Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng là người có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp. Trên cương vị Chủ tịch nước, Người đã hai lần đứng đầu ủy ban soạn thảo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh và nhiều văn bản khác dưới luật. Theo Người, trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải đi đôi với nhau. Pháp luật là bà đỡ của dân chủ, bảo đảm cho quyền tự do dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế và dân chủ phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật. Trong việc xây dựng nhà nước, Hồ Chí Minh coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền thành những cán bộ thấm nhuần đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, tẩy sạch bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí và thành thạo nghiệp vụ chuyên môn, nghiệp vụ hành chính, am hiểu pháp luật, thực hành tốt văn hóa ứng xử. Xây dựng pháp luật, tăng cường một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm việc thực hiện quyền lực của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi của nhân dân lao động là mối quan tâm suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Người, “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì” 44.
43 Hồ Chí Minh, Sdd, t.5, tr. 60.
44 Hồ Chí Minh, Sdd, t.5, tr. 641.
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề đấu tranh để ngăn ngừa các tệ nạn quan liêu, chuyên quyền, tham ô, nhũng lạm, lãng phí, đặc quyền đặc lợi. Người coi đó là những thứ giặc rất nguy hiểm, làm hư hỏng cán bộ, phá vỡ kỷ luật, kỷ cương, có thể làm ruỗng nát chế độ dân chủ từ bên trong. Theo tinh thần của Lênin và Hồ Chí Minh thì không ai có thể bôi nhọ được chúng ta trừ chúng ta bôi nhọ ta; không ai đánh đổ được chúng ta trừ chúng ta tự đánh đổ ta bởi “giặc trong lòng”, “giặc nội xâm”, bệnh quan liêu. V.I. Lênin viết: “Chúng ta khốn khổ trước hết về tệ quan liêu. Những người cộng sản đã trở thành những tên quan liêu. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó” 45. Hồ Chí Minh nói: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến. Vì nó làm chậm trễ công cuộc kháng chiến và kiến quốc của ta. Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính” 46. Hồ Chí Minh khẳng định có nạn tham ô và lãng phí là vì bệnh quan liêu. “Vì những người và những cơ quan lãnh đạo từ cấp trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Đối với công việc thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi, đến chốn. Nói tóm lại: vì những người và những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí. Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu” 47.
45 V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.54, tr.235.
46 Hồ Chí Minh, Sdd, t.6, tr.490.
47 Hồ Chí Minh, Sdd, t.6, tr.490.
Điều mà Hồ Chí Minh cảnh báo phải đề phòng khi mới thiết lập chính quyền cách mạng đang là vấn đề nổi cộm trong xã hội ta hiện nay. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phát động đã chỉ ra 4 điều cần kíp phải chống, đó là chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Rõ ràng 4 điều đó đã được Hồ Chí Minh nhắc nhở từ nửa sau thập kỷ bốn mươi mà hôm nay vẫn đang trở thành phổ biến và rất nghiêm trọng. Tài sản xã hội chủ nghĩa bị bòn rút. Kỷ cương, kỷ luật Đảng, Nhà nước lỏng lẻo. ý thức trách nhiệm không được đề cao. ý thức phục vụ nhân dân bị hạn chế. Quyền dân chủ và lợi ích của nhân dân bị xâm phạm, một số nơi khá nặng nề. Công tác phòng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đã có những kết quả bước đầu nhưng vẫn còn nghiêm trọng. Tình trạng tham nhũng , suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Tình hình đó đang “cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và giảm lòng tin trong nhân dân...; là một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta” 48.
48 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, H, 2001, tr. 67 và 76.
Theo Hồ Chí Minh, chống tham ô, lãng phí, quan liêu là cách mạng, là dân chủ. Dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng. Cho nên phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công. Phải động viên quần chúng, phải thực hành dân chủ, phải làm cho quần chúng hiểu rõ, làm cho quần chúng hăng hái tham gia thì mới chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng. Từ trên đến dưới đồng tâm hiệp lực để thắng lợi trong phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu thì sẽ giúp chính quyền ta thành một chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng hội nhập sâu, đang vận hành theo quy luật của nó trong khi ta chưa kịp thích nghi và phát hiện ra quy luật. Vì vậy, nhiều vấn đề kinh tế- xã hội, đặc biệt là các vấn đề xã hội, cải cách hành chính, công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đang gặp những khó khăn, lúng túng. Vì sao trong công tác phòng chống tham nhũng hiện nay, “thanh tra đụng vào dự án nào, đơn vị nào đều thấy sai phạm ở mức độ khác nhau. Sai phạm không hoàn toàn do lỗi cơ chế mà nghi ngờ có động cơ tiêu cực phía sau. Tiếc là thanh tra chưa đủ điều kiện đi sâu. Mình cũng truy nhưng họ quanh co đủ thứ. Chứng cứ để khẳng định làm vậy là có vấn đề tiêu cực là rất nan giải”(Tổng Thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền trao đổi với báo chí tại giờ giải lao phiên họp Quốc hội sáng 25-10, báo Tuổi trẻ, 26-10-2007). Vấn đề rõ ràng là rất phức tạp và có nhiều nguyên nhân, nhưng có một nguyên nhân quan trọng không thể bỏ qua, đó là thiếu dân chủ và bệnh quan liêu. Còn mất dân chủ, đặc biệt là trong Đảng thì không thể chống tham nhũng và tiêu cực đạt hiệu quả cao. Báo cáo của Chính phủ trước kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XII, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thừa nhận “hầu hết các vụ việc tham nhũng là do các cơ quan chức năng và nhân dân phát hiện”. Thiếu và chưa thật sự phát huy dân chủ trong đảng, quyết tâm chống tham nhũng trong cán bộ chủ chốt chưa cao nên không có một vụ tham nhũng nào được phanh phui từ đơn vị.
Để giải quyết vấn đề trên, theo Hồ Chí Minh phải kết hợp cuộc đấu tranh chống các tệ nạn nói trên với việc chỉnh đốn đảng, làm trong sạch bộ máy quản lý nhà nước, quản lý kinh tế. Hồ Chí Minh đòi hỏi các chi bộ phải tích cực tham gia cuộc đấu tranh này để xây dựng chi bộ, nâng cao sức chiến đấu của đảng viên, tăng cường mối liên hệ giữa đảng với nhân dân, giữa người lãnh đạo và cán bộ. Người đặc biệt lưu ý phải làm cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến. Theo Người, dân chủ thật thà trong Đảng không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh dạn đề ra ý kiến và phê bình. Ngược lại, nếu cán bộ không nói năng, không đề ý kiến, không phê bình, thậm chí lại tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có gì nói, nhưng vì họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong Đảng. Thế là nội bộ Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói ra, do uất ức mà hóa ra oán ghét, chán nản. “Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo “đập đi, hò đứng”, không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng” 49. Lời căn dặn cuối cùng trong Di chúc, Người viết: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”.
49 Hồ Chí Minh, Sdd, t.5, tr.281.
Tóm lại, Hồ Chí Minh là con người của lý tưởng dân chủ. Tư tưởng dân chủ của Người là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về giá trị của dân chủ; về địa vị và quyền lợi của người dân; về bộ máy nhà nước dân chủ; về dân chủ trong Đảng và vai trò của Đảng cùng các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp xây dựng nền dân chủ; về giải pháp thực hiện dân chủ. Tư tưởng và phong cách dân chủ Hồ Chí Minh là những bài học quý giá soi sáng trong giai đoạn hiện nay, gắn chặt với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, nhằm tăng cường mối liên hệ giữa đảng với nhân dân, thực hiện tốt đẹp đặc trưng chính trị hàng đầu của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là chế độ do nhân dân làm chủ./.
Tư tưởng và phong cách dân vận
Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
1. Là một nhà cách mạng chuyên nghiệp, từ phong trào quần chúng trở thành người lãnh đạo và khi đã là lãnh tụ, vẫn kiên trì công tác quần chúng cho đến khi qua đời, Hồ Chí Minh là một lãnh tụ đặc biệt quan tâm tới công tác dân vận. Người sống giữa lòng quần chúng và mong muốn khi về cõi vĩnh hằng, “làm bạn với cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không màng gì tới danh lợi bản thân”. Hồ Chí Minh là cán bộ dân vận bậc thầy. Người làm công tác dân vận với mọi tầng lớp nhân dân, từ những người lao động bình thường đến những người trí thức lớn, các nhà hoạt động chính trị, người trong nước và người ngoài nước, cả với các cháu thiếu niên, nhi đồng. Hồ Chí Minh bắt đầu làm công tác dân vận từ lúc ra đi tìm đường cứu nước, dạy các thủy thủ mù chữ trên tàu, khêu gợi lòng yêu nước ở họ. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin, Người gắn chặt công tác dân vận với hoạt động cách mạng và coi công tác dân vận là một nội dung đặc biệt quan trọng của công tác cách mạng. Hiểu rõ thân phận người dân một nước thuộc địa, Hồ Chí Minh trước sau gắn bó với nhân dân, quý trọng, tin tưởng nhân dân. Người không bao giờ coi mình cao hơn thiên hạ, đặt mình trên nhân dân, trên Đảng. ở cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh coi quyền lực đó thuộc về nhân dân, do nhân dân ủy thác. Còn mình chỉ như “một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho lui thì rất vui lòng lui”. Đứng ở đỉnh cao quyền lực 24 năm, Hồ Chí Minh không cư xử như một người cầm quyền, mà thường đối thoại bình đẳng với mọi người, không thích ra lệnh, lên lớp, thuyết phục bằng cảm hóa.
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên làm công tác vận động quần chúng kiểu mới mang nội dung khoa học, cách mạng và được tiến hành như một nghệ thuật. Điểm xuất phát công tác dân vận của Hồ Chí Minh là quan niệm vấn đề ở đời và làm người, tức là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ, bị áp bức
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận bao gồm một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc liên quan tới những vấn đề cơ bản về DÂN. Trên quan điểm giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh cho rằng mỗi cán bộ, đảng viên phải yêu dân, kính dân, trọng dân, tin dân, lắng nghe, học hỏi dân, liên hệ chặt chẽ và bàn với dân; nắm vững dân tình, dân ý, dân tâm; thực hành dân quyền, dân sinh, dân trí, dân chủ; làm cho dân tin, dân phục, dân yêu... Tóm lại có một nguyên tắc là theo đúng đường lối nhân dân. Tất cả những nội dung đó liên quan tới và nằm trong công tác DÂN Vận. Vậy dân vận là gì? Đây là một nội dung rộng, nhưng cốt tuỷ là vận động mỗi một người dân đến tất cả lực lượng của toàn dân, không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân tộc, thực hiện mục tiêu cách mạng từng thời kỳ và cuối cùng như Người dặn lại trong Di chúc: "Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".
Nhìn từ một góc độ khác, có thể hiểu thực chất công tác dân vận là xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với dân. Công tác dân vận là nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm dân vận của Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận phát triển , lý luận mở, không phải giáo điều, bất di bất dịch, không phải kinh thánh, không phải là một cái gì đã "xong xuôi hẳn" như cách nói của Lênin, mà là kim chỉ nam cho hành động. Nó luôn luôn cần được bổ sung, phát triển theo sự vận động không ngừng của thực tiễn cách mạng. Đồng thời trong hệ thống đó chứa đựng nhiều quan điểm có tính nguyên tắc, tính chiến lược bền vững, lâu dài, nhiều nội dung "bất biến". Trong tiến trình cách mạng, ở các giai đoạn khác nhau, đặc biệt ở những thời điểm nhạy cảm, có tính chất bước ngoặt, phải "dĩ bất biến ứng vạn biến", nghĩa là lấy cái không thay đổi để ứng phó với mọi điều thay đổi.
Sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng dân vận một mặt nằm trong các nguyên lý, hệ thống quan điểm, phương pháp biện chứng có tính nguyên tắc; mặt khác thông qua sự vận dụng và phát triển sáng tạo các quan điểm đó của các thế hệ tiếp theo.
3.Sinh thời, lý luận của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc gắn chặt với công tác dân vận có một điểm rất đáng chú ý là Người mở rộng biên độ khái niệm DÂN đến tất cả những ai vẫn còn thừa nhận mình là con dân nước Việt. Người thường nói đến "con Rồng cháu Tiên", "đồng bào", "gốc tích Việt Nam ", "Hồng Bàng là tổ nước ta", "người chung một nước"... Tâm trí Hồ Chí Minh dồn về đại đoàn kết dân tộc lấy công nông liên minh làm nòng cốt. Nói như nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng "tư tưởng Hồ Chí Minh cố tìm mẫu số chung của toàn dân tộc thay vì khoét sâu sự cách biệt, đặt tiến trình xoáy trôn ốc đi lên của lịch sử trên căn bản quy tụ thay vì loại trừ".
Trong sự nghiệp đổi mới, qua nghiên cứu lý luận và sự vận động của thực tiễn, Đảng ta đã có bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận. Trên tinh thần các văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới liên quan tới việc "phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, coi đó là động lực chủ yếu để phát triển đất nước", Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương (khoá IX) đã ra Nghị quyết "Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Nghị quyết này gắn bó chặt chẽ với công tác dân vận. Vì vậy, càng thấm nhuần và quán triệt tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh , càng có cơ hội và điều kiện thực hiện đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới. Sinh thời Hồ Chí Minh đã cảnh báo: "Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công". Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã chỉ rõ một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới là do "nhiều tổ chức đảng, chính quyền còn coi nhẹ công tác dân vận" (Nghị quyết bảy Ban chấp hành Trung ương Khoá IX).
Trong giai đoạn mới, vấn đề không phải là xem công tác dân vận đã được đặt ra từ bao giờ và thống kê có bao nhiêu nghị quyết bàn tới công tác dân vận. Nói nhiều, bàn nhiều mới là cấp độ thứ nhất. Điều quan trọng và quyết định là phải hiểu thấu và làm đúng. Phải xem chúng ta đã thực hiện công tác dân vận đến đâu, cái gì làm tốt, cái gì chưa tốt. Điều này đã được Hồ Chí Minh mở đầu trong bài Dân vận: "Vấn đề Dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu, làm chưa đúng, cho nên cần phải nhắc lại". Người cũng đã phê phán thái độ coi thường công tác dân vận "xem khinh việc dân vận". Có cấp uỷ "cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những cán bộ kém rồi bỏ mặc họ", còn những cán bộ khác "không trông nom, giúp đỡ, tự cho mình không có trách nhiệm dân vận". Đó là những khuyết điểm và sai lầm rất to, rất có hại. Tình hình ấy đang diễn ra. Và đây là vấn đề đáng quan tâm hàng đầu. Bởi vì nếu không nhận thức đúng tầm quan trọng của công tác dân vận thì không thể nói tới các nôị dung tiếp theo của công tác dân vận.
4. Cục diện thế giới đã và đang trải qua nhiều thay đổi chưa từng thấy. ở trong nước toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang quyết tâm nghiên cứu, quán triệt sâu sắc thực hiện Nghị quyết Đại hội X và các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương, biến Nghị quyết Đại hội thành hiện thực. Vấn đề đặt ra cho công tác dân vận trong giai đoạn mới là trong khi kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" trên cơ sở nhận thức đầy đủ, sâu sắc tầm quan trọng của công tác dân vận, phải đổi mới nội dung và hình thức để đáp ứng đầy đủ yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng.
Hiện nay nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân là “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển” . Trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang đó, chúng ta có cả cơ hội lớn và thách thức lớn. Công tác dân vận phải tác động tới từng người, từng gia đình, đến cả cộng đồng xã hội, làm cho mỗi người và tất cả mọi người nhận rõ những thuận lợi và khó khăn của đất nước, nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, kiên trì mục tiêu cách mạng, giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc nguồn gốc, nội dung, giá trị, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần, tư tưởng của xã hội ta. Đồng thời qua công tác dân vận, tạo ra phong trào rèn luyện, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đẩy lùi sự suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Công tác dân vận hiện nay phải góp phần to lớn vào việc thực hiện “4 xây” là cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; ý thức tổ chức kỷ luật; ý thức trách nhiệm; ý thức phục vụ nhân dân và “4 chống’ là chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
5. Một vấn đề cực kỳ quan trọng đặt ra cho công tác dân vận là cần phải "óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm". Đây là một tổng kết quan trọng phản ánh quy luật của công tác dân vận trong mọi thời kỳ. Công tác dân vận hiện nay cần phải làm sáng tỏ quy luật đó trên ba phương diện chủ yếu sau:
Một là, phải chú trọng những vấn đề lý luận về công tác dân vận. Không có lý luận cách mạng không thể có phong trào cách mạng. Cần xây dựng một ngành Dân vận học. Hoạt động dân vận trước hết là một hoạt động về trí tuệ. Hồ Chí Minh đặt "óc nghĩ" lên hàng đầu với nghĩa như thế. Trên cơ sở nền tảng lý luận là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng, công tác dân vận đòi hỏi tính sáng tạo cao. Muốn sáng tạo phải phát huy dân chủ. Có hai yếu tố về dân chủ cần đề cập tới ở đây. Một là, mở rộng dân chủ, phát huy tự do tư tưởng, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo trong nghiên cứu lý luận. Hai là, dân chủ trong quá trình thực hiện và triển khai công tác dân vận để khơi dậy sáng kiến của người dân. Không phải ngẫu nhiên mà mở đầu bài báo Dân vận, Bác Hồ lại bàn đến dân chủ. Bởi vì dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn, liên quan tới công tác tư tưởng, lý luận, công tác dân vận và nhiều lĩnh vực khác. Không khơi nguồn dân chủ - dân chủ chân chính, dân chủ có kỷ cương, có lãnh đạo - không thể có công tác dân vận tốt.
Hai là, suy cho cùng thực chất của công tác dân vận là tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong quy luật của công tác dân vận Bác nói đến "tai nghe". Đây là biểu hiện thái độ cầu thị của mỗi người và cả hệ thống chính trị trong quá trình làm công tác dân vận. Điều đáng quan tâm là phải thật sự cầu thị nghe những ý kiến khác nhau để tìm ra chân lý. Phải có cách làm khoa học như một "nghệ thuật" phải có cái tâm, cái đức trong sáng mới nghe được ý kiến của dân, đặc biệt là loại ý kiến "nghịch", chân thành góp ý, phê bình cho cán bộ đảng viên.
Vấn đề đặt ra cấp bách và lâu dài là trách nhiệm của Đảng trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng như thế nào cho có hiệu quả. Có rất nhiều việc cần bàn, cần làm, nhưng ở đây xin được nên ba điểm như là những nhiệm vụ mấu chốt gắn bó chặt chẽ với công tác dân vận.Thứ nhất, trên cơ sở một đường lối cách mạng đúng, Đảng phải chú trọng những vấn đề lý luận về công tác dân vận để theo kịp sự phát triển của thực tiễn và yêu cầu của cách mạng, cần làm sáng tỏ những vấn đề quan trọng về công tác dân vận trong công cuộc đổi mới. Học lại, quán triệt và làm theo bài báo Dân vận của Hồ Chí Minh là một cách, nhưng phải vận dụng và phát triển sáng tạo trong tình hình mới. Thứ hai, làm cho Đảng trên cơ sở giữ vững tính giai cấp, tính tiên phong thường xuyên thấm nhuần tính quần chúng. Bác Hồ từng khẳng định Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là của dân tộc. Đảng theo đúng đường lối quần chúng, bắt rễ sâu xa trong tất cả các tầng lớp nhân dân. Đảng không thiên tư, thiên vị, mà thống nhất với lợi ích của dân tộc, lo việc cho cả nước. Thứ ba, Đảng giáo dục cán bộ, đảng viên giữ vững phẩm chất đạo đức và có phong cách dân vận tốt.
Ba là, quy luật của công tác dân vận cho thấy một phong cách nhất quán là phải đi vào thực tiễn, "từ trong quần chúng mà ra, trở lại nơi quần chúng", nói đi đôi với làm và phải làm gương cho quần chúng noi theo. Quan điểm của Bác Hồ về những người làm công tác dân vận là "không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh", dẫn tới "nghị quyết đầy túi áo, thông cáo đầy túi quần". Họ phải thật thà nhúng tay vào việc.
Rất đáng tiếc là hiện nay vẫn còn tình trạng nói nhiều làm ít, nói mà không làm, nói một đằng làm một nẻo. Một lời hứa thành thật trước dân xuất phát tự đáy lòng; một thái độ cầu thị yêu cầu nhân dân phê bình mình; một thái độ dám chịu trách nhiệm trước dân về những sai phạm khuyết điểm và vui lòng từ chức... quả thật còn hiếm trong công cuộc đổi mới.
Tại sao hiện nay mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới? Tại sao lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc? Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra "phần vì đời sống còn nhiều khó khăn, phần vì bất bình trước những bất công xã hội và tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí còn khá phổ biến và nghiêm trọng..." (Nghị quyết lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khoá IX).
Cách đây hơn 2000 năm, khi bàn về thuyết đại đồng và sự bình đẳng, Khổng Tử (551 - 479 trước CN) vĩ đại đã chỉ rõ: "Người ta không sợ thiếu, chỉ sợ có không đều". Với tinh thần đó, gần bốn mươi năm trước, Hồ Chí Minh đã cảnh báo:
"-Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng;
- Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên" 1.
1 Hồ Chí Minh. Sđd, t.12, tr.185.
Đúng là tham nhũng, quan liêu, không công bằng còn nguy hiểm và đáng sợ hơn cả sự thiếu thốn. Điều đó sẽ dẫn tới lòng dân không yên. Chúng ta không chấp nhận sự thiếu thốn, nghèo đói, mà phải phấn đấu thực hiện tăng trưởng kinh tế cao, không để tụt hậu ngày càng xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nhưng giàu có mà không công bằng; GDP cao mà đời sống nhân dân khó khăn thì còn đáng sợ hơn sự nghèo, thiếu, và như vậy sẽ không bao giờ nước mạnh.
Khổng Tử bàn về "hạnh phúc không phải cho một số đông mà cho tất cả mọi người". Triết lý nhân sinh - hành động của Hồ Chí Minh là làm đồng bào "ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành", thực hiện được điều này là một biểu hiện cụ thể làm cho dân tin, dân phục, dân yêu.
6. Sức sống mãnh liệt, nguyên tắc xuyên suốt trong tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh là phải đặt trên một tiền đề, một điều kiện là phát huy dân chủ. Để xây dựng mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thì mặt trận, đoàn thể phải bàn bạc dân chủ với dân, báo cáo công khai cho dân biết những công việc ở địa phương nhất là những việc liên quan trực tiếp đến lợi ích của người dân.
Cách đây không lâu, ở một địa phương, một cử tri đã trình bày thẳng thắn với đồng chí Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam là trong mệnh đề "Dân biết, Dân bàn, Dân làm, Dân kiểm tra" được Đại hội Đảng lần thứ VI (12 -1986) tổng kết và đã được Bác Hồ đề cập dưới nhiều hình thức khác nhau, thì chủ yếu mới thực hiện được một vế là "Dân làm". Cũng như vây, hiện nay người dân đang nói nhiều tới một nền hành chính mà hành dân là chính. Có thể điều này chưa diễn ra trên phạm vi cả nước, nhưng rất đáng để chúng ta suy nghĩ. Điều đáng mừng là nhờ không khí dân chủ mà một người dân có thể trao đổi cởi mở, thẳng thắn với người đứng đầu Đảng ta. Nhưng quả thật nếu dân mới chỉ làm, mà không được biết, không được bàn, không được kiểm tra; dân bị hành là chính thì chưa thể gọi là dân chủ.
Chúng ta phấn khởi thấy Trung ương Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới đã và đang quan tâm đến tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh, đặc biệt là bài báo Dân vận của Người ngày 15-10-1949. Một số đồng chí nguyên lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước tâm sự: "Tôi ngồi học lại bài Dân vận của Bác Hồ và nghĩ rằng những điều Bác căn dặn dễ hiểu, dễ nhớ, sâu sắc và đầy đủ" 1. Điều có ý nghĩa hơn là Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra những gì làm được và thiếu sót, khuyết điểm, từ đó vạch ra các biện pháp cụ thể để thực hiện tốt công tác dân vận trong tình hình mới. Theo tinh thần của Đảng, những biện pháp đó phải thể hiện tinh thần dũng cảm, trung thực của nguời cán bộ, đảng viên xuất phát từ tấm lòng vì dân, vì nước, để soát xét lại mình và công việc cơ quan, đơn vị mình. Đây cũng là tinh thần Bác Hồ đã nêu, phải chịu trách nhiệm trước dân. Phải lắng tai nghe ý kiến của đảng viên, các đồng chí lão thành cách mạng, cựu chiến binh, cán bộ công nhân viên, những người có khiếu nại, và đặc biệt là của nhân dân, của những người "không quan trọng" 2.
1 Lê Khả Phiêu. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, tr.95.
2 Hồ Chí Minh. Sđd, t.5, tr.285.
Lúc sinh thời Hồ Chí Minh nhấn mạnh "một giây, một phút cũng không thể giảm bớt mối liên hệ giữa ta và dân chúng. Bởi vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả sự lãnh đạo của ta". Công tác dân vận cũng như các vấn đề khác không thể giảm bớt mối liên hệ giữa ta và dân chúng. Bởi vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả sự lãnh đạo của ta. Công tác dân vận cũng như các vấn đề khác không thể thực hiện theo tuần, theo tháng, theo mùa, theo ngày kỷ niệm, mà phải thường xuyên, bền bỉ, không mệt mỏi, không phô trương, hình thức. Liên quan tới điều này là phải có kiểm tra, cùng dân rút kinh nghiệm, có khen, chê, đúng mức. Làm được như vậy chính là quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận trong giai đoạn mới.
Mỗi lần kỷ niệm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi lại nhớ lời một học giả nước ngoài tại lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người, rằng "chúng ta phải làm nhiều hơn, chứ không phải chỉ viết và đọc tài liệu về Hồ Chí Minh". Trước cách mạng, trong kháng chiến, công tác dân vận liên quan trực tiếp tới cái sống, cái chết. Khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền và đặc biệt trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội của chủ nghĩa, thời cơ, nguy cơ đan xen và như Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ ra, “ bọn thù địch chống phá ta bằng "diễn biến hoà bình", chúng biết nhân dân ta là kiên cường không thể coi thường, chúng biết Đảng ta với chỗ mạnh, chỗ yếu có thể khai thác”, thì rõ ràng công tác dân vận cũng liên quan tới cái sống, cái chết, tới thành công hoặc thất bại của cách mạng. Bởi vì Đảng, những người lãnh đạo, cán bộ, đảng viên "cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại" 1.
1 Hồ Chí Minh. Sđd, t.5, tr.286.