Phan Bội Châu (1867-1940 ) kém Nguyễn Sinh Sắc ( 1860-1929 ) bảy tuổi và hơn Hồ Chí Minh 23 tuổi. Trong mối quan hệ đó, Phan Bội Châu là bậc cha chú của Hồ Chí Minh. Tuy vậy, cũng có lúc Phan Bội Châu tự xưng mình là bác với cháu Lý Thuỵ. Phan Bội Châu từng biết Hồ Chí Minh từ nhỏ, khi “ chửa thành niên”. Đó là những dịp Phan đến chơi nhà Nguyễn Sinh Sắc “ uống nước, gõ án ngâm thơ, luận bàn về những tấm gương nghĩa liệt và chuỵện đánh giặc cứu nước. Sau này, biết những hoạt động cứu nước của Nguyễn Ai Quốc, Phan tin tưởng chắc chắn sự nghiệp cách mạng thắng lợi nhờ ở Hồ Chí Minh. Đào Duy Anh- trong hồi ký “ Nhớ nghĩ chiều hôm” của mình- đã hé mở cánh cửa tư liệu về câu chuyện giữa một người khách với Phan Bội Châu mà ông được chứng kiến. Theo Đào Duy Anh, Phan Bội Châu- bằng tấm gương Nguyễn Ai Quốc- đã giải toả nỗi lo lắng của vị khách về thời cuộc “ liệu nước ta có độc lập được không?”: “… Nhưng dân tộc ta thế nào rồi cũng độc lập, nhất định phải thế. Hiện nay đã có lớp người khác giỏi hơn lớp chúng tôi nhiều đứng ra đảm đương công việc để làm trọn cái việc mà lớp chúng tôi không làm xong. Ông có nghe tiếng ông Nguyễn Ai Quốc không?… Ông ấy còn thì nhất định nước ta sẽ độc lập… Nếu Nam Đàn có Thánh thực thì chính là ông Nguyễn Ai Quốc chứ chẳng phải ai khác”( Đào Duy Anh: Hồi ký Đào Duy Anh - Nhớ nghĩ chiều hôm , Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2000, tr. 54-55 ).
Còn Hồ Chí Minh lúc trạc 15 tuổi đã thích câu thơ của nhà thơ Trung Quốc Tuỳ Viên mà Phan Bội Châu đọc:
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối hạ thị văn chương
Từ đó Người đã có lòng ham muốn hành động ích nước, lợi dân. Chỉ 5 năm sau khi quyết định đi theo con đường cách mạng của Lênin, Hồ Chí Minh đã có sự đánh giá đúng đắn về phan Bội Châu, “ con người đã hy sinh cả gia đình và của cải để xa lánh khỏi thấy mặt bọn cướp nước mình, sống xa lìa quê hương, luôn bị lũ này săn đuổi, bị chúng nhử vào muôn ngàn cạm bẫy, bị chúng kết án tử hình vắng mặt, và giờ đây đang bị, vẫn chúng, đeo gông lên vai, đày đoạ trong nhà giam, ngày đêm bị bóng dáng của máy chém như một bóng ma ám kề bên cổ… Bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng” ( Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, t.2, tr.172).
Các nhà nghiên cứu đã bàn nhiều về mối quan hệ giữa Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh. Đó là “ sự chuyển giao thế hệ trong đấu tranh cứu nước” ( GS. Phan Ngọc Liên và PGS. Nguyễn Đình Lễ ); là “ Đại đồng và đại dị” ( TS. Nguyễn Văn Khoan ); “ cụ Phan thất bại phải lui xuống vũ đài để nhường chỗ cho lớp người mới thích ứng với thời thế hơn, chỉ là vấn đề người trước ngã người sau lên, là vấn đề các thế hệ kế thừa nhau mà tiến bước” ( Đào Duy Anh ) v.v.. Nhưng có lẽ phải có một cách nhìn nhận nữa, đó là Từ Phan Bội Châu đến Hồ Chí Minh- sự kế tục và nâng cao những giá trị văn hóa.
Theo nghiên cứu và đánh giá của GS. Nguyễn Đình Chú thì Phan Bội Châu là một nhà văn hóa mà trước hết là “ sự kết hợp giữa hai phương diện chính trị và văn hóa trong phạm vi một nhà cách mạng”. Cũng có thể hiểu, đó là “ sự phát triển chính trị mang tính chất văn hóa” hay “ sự phát triển văn hóa trên phương diện chính trị”. Phan Bội Châu, với lòng yêu nước nhiệt thành, chủ trương Đông Du đưa thanh niên đi học, đào tạo nhân tài, nâng cao dân trí; say sưa viết sách, sáng tác thơ văn để vạch mặt tội ác bọn thực dân xâm lược, cổ vũ lòng yêu nước của nhân dân v.v.. Hồ Chí Minh cũng có sự kết hợp dặc biệt giữa cách mạng và văn hóa, viết sách, báo, đào tạo thanh niên… Nhưng Hồ Chí Minh đã vượt Phan Bội Châu ở cách nhìn, tầm nhìn, và chất văn hóa trong những hoạt động cụ thể. Từ sớm, trên nền tảng là chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã có tư tưởng hội nhập chớ không phải cầu viện theo kiểu “ đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau” như Phan Bội Châu. Cũng là ca ngợi Khổng Tử, Mạnh Tử, Tôn Trung Sơn, Găngđi và các nhà “ Khai sáng” phương Tây như Rútxô, Môngtexkiơ…, nhưng Hồ Chí Minh có một nhãn quan chính trị, nhãn quan văn hóa thấu suốt chất cách mạng tinh khiết và triệt để. Vì vậy, Người chỉ chắt lọc những “ hạt nhân hợp lý”, gạn đục khơi trong ở các nhà tư tưởng và các nền văn hóa nhân loại những điều hay, điều tốt để phục vụ cho sư nghiêp cách mạng. Kế tục Phan Bội Châu trong kiểu tư duy chính trị mang tính văn hóa , nhưng Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn rộng mở tư duy và hướng tầm nhìn ra thế giới, không ngừng học tập nâng cao trình độ văn hóa, làm giàu trí tuệ của mình bằng những kiến thức rất phong phú và sâu rộng.
Phan Bội Châu là nhà văn hóa thời cận đại để lại bộ toàn tập gồm 10 tập gần 4800 trang. Hồ Chí Minh là nhà văn hóa thời cận- hiện đại. Xét tầm vóc một nhà văn hóa về phương diện các bài viết, bài nói, các công trình học thuật, thì Hồ Chí Minh đã có sự kế tục và phát triển xứng đáng. Cũng như Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh để lai cho những người cùng thời và hậu thế bộ Hồ Chí Minh toàn tập gồm 12 tập khoảng 7850 trang với nhiều thể loại: chính trị học, triết học ,văn học, đạo đức học, sử học, kinh tế học… Nhưng rõ ràng Hồ Chí Minh- trên nền tảng văn hóa dân tộc, thổi hồn văn hóa thời đại vào những bài viết của mình, nên đã có sự nâng cao về chất, tạo ra một sức mạnh văn hóa mới, sức mạnh văn hóa thời đại Hồ Chí Minh. Người đã nhận thức rõ văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng. văn hóa là một mặt trận, anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy. văn hóa phải lấy hạnh phúc của nhân dân và dân tộc làm cơ sở. Giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, v.v.. Những quan điểm chỉ đạo đó đã góp phần to lớn, quyết định những chiến công vĩ đại trong thế kỷ XX.
Đi sâu vào một vài khía cạnh cụ thể, ta dễ dàng nhận thấy điều này. Chẳng hạn nội dung viết về chủ nghĩa xã hội và Lênin. Từ năm 1921 Phan Bội Châu đã có bài Lược truyện Liệt Ninh, vĩ nhân của nước Nga đỏ, in trên Binh sự tạp chí, Hàng Châu. Từ tháng 11-1920, khi “ nghiên cứu chân lý của Đảng Cộng sản” và trong lần đầu tiên kết giao với người Nga, Phan đã đặt vấn đề nhờ “ chỉ vẽ đường lối để đưa người nước ta đi du học qúy quốc” ( Phan Bội Châu: Phan Bội Châu niên biểu, Nxb. Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, 2001, tr. 286 ). Phan viết cuốn Xã hội chủ nghĩa trong khoảng thời gian 1929-1934… Như vậy, Phan đến sớm với Lênin và Cách mạng Tháng Mười. Ơ thời điểm năm 1921 “ quả chưa có người Việt Nam nào biết nhiều, viết kỹ về Lênin như cụ Phan” ( GS. Nguyễn Đình Chú: Phan Bội Châu, nhà văn hóa, trong Phan Bội Châu- con người và sự nghiệp, Hà Nội, 1998, tr.242 ). Trong tác phẩm của mình, Phan Bội Châu đã ca ngợi Các Mác là “ một vị thiên sứ” và “ chỉ cần Mã Khắc Tư chủ nghĩa là xong rồi”. Theo Phan thì “ xã hội chủ nghĩa vạn tuế”… Như vậy Phan Bội Châu đã sớm có cảm tình với chủ nghĩa xã hội, “ ít nhiều mon men đến trước ngưỡng cửa của cách mạng xã hội chủ nghĩa” ( Nguyễn Đình Chú, Sđ d, tr.334 ).
Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, khoảng đầu năm 1919, Hồ Chí Minh vào Đảng Xã hội Pháp. Đến cuối năm, Người đã tham gia các hoạt động của Uỷ ban Quốc tế III của Đảng Xã hội Pháp để bảo vệ, ủng hộ, giúp đỡ cách mạng Nga. Trước khi bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã phát biểu nhấn mạnh rằng Đảng Xã hội “ phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các thuộc địa”. Hồ Chí Minh đã làm phong phú cách tiếp cận và lý giải những vấn đề về chủ nghĩa xã hội theo phương diện văn hóa đạo đức. Như vậy sau thất bại của phong trào Cần Vương ( 1885-1896 ), nếu Phan Bội Châu là người đã mở ra “ con đường cách mạng đổi mới đầu thế kỷ XX” ( Chương Thâu, sách Phan Bội Châu- con người và sự nghiệp đã dẫn, tr.31 ), thì Hồ Chí Minh đã nâng cao chất “đổi mới” đó, thật sự đi vào con đường xã hội chủ nghĩa, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội . “ Đổi mới’ của Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh đều là những trí tuệ văn hóa, vì “ văn hóa là đổi mới, đổi mới là văn hóa” ( Phạm Văn Đồng: văn hóa và đổi mới, Nxb. CTQG, Hà Nội 1994, tr.5 ). Nhưng ở Hồ Chí Minh, đổi mới ở một tầm cao, đỉnh cao của một trí tuệ văn hóa, một tầm vóc văn hóa. Hồ Chí Minh có một tầm nhìn thời đại, nhìn xa trông rộng, không chỉ cho hiện tại mà cho cả tương lai lâu dài.
Về văn học, nghệ thuật- một bộ phận quan trọng của văn hóa, chúng ta khẳng định: Phan Bội Châu là nhà văn tiêu biểu nhất và văn thơ của ông là đỉnh cao của dòng văn thơ yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX. Ngòi bút của Phan Bội Châu sáng ngời chủ nghĩa yêu nước, căm thù giặc, lý tưởng anh hùng, tinh thần lạc quan cách mạng, quan điểm nhân sinh và nghệ thuật tiến bộ… Đúng như trong bài nói với văn nghệ sỹ dịp Tết 1972, đồng chí Lê Duẩn cho rằng: “ Lúc còn thanh niên, mỗi lần đọc thơ Phan Bội Châu, tôi thấy trong lòng có cái gì náo nức, như thúc dục lòng mình vùng dậy, thúc dục mình xông lên làm một điều gì cho Tổ quốc. Đó thực sự là những bài thơ tác giả viết ra từ bầu nhiệt huyết , bằng tất cả óc tim”. ( Theo Hoài Thanh: Phan Bội Châu, Nxb. văn hóa, Hà Nội 1978, tr. 164 ). Còn Hồ Chí Minh thì đánh giá: “ Dưới chế độ thực dân Pháp, dù chúng khủng bố tàn nhẫn và nuôi nấng thứ văn chương nịnh Tây, nhưng ở nước ta vẫn có văn chương cách mạng.
Văn chương cách mạng như những thơ ca của các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu và những người yêu nước khác, thì bị gọi là “ cấm vật”. Nếu không giữ được bí mật, thì người viết cũng như người xem đều bị bắt bớ tù đày. Tuy vậy, vì quần chúng sẵn lòng ghét Tây và yêu nước, cho nên những thơ ca ấy đã được truyền tụng trong dân gian và đã có tác dụng cổ động tinh thần cách mạng… Rõ ràng là dân tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng”( Hồ Chí Minh, Sđ d, t.10, tr.645-646 ). Danh nhân văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh không những đánh giá cao văn chương cách mạng của Phan Bội Châu mà còn xứng đáng là “ phường hậu tử tiến mau” như điều muốn nói nhất, điều cần nói nhất và là niềm tin của Phan Bội Châu trước khi đi vào cõi vĩnh hằng.