1. Một số nội dung cơ bản của Đại X liên quan tới tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng có 12 nội dung đều liên quan ở những mức độ khác nhau tới môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là mười nội dung cuối. Ngay chủ đề Đại hội cũng chứa đựng những vấn đề lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng và phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Có thể khái quát những vấn đề dưới đây, hoặc là quan điểm mới, hoặc không mới nhưng liên quan tới môn học tư tưởng Hồ Chí Minh:
- 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa(phần I) là sự phát triển các đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường. Nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý của Nhà nước. Phát triển các thành phần kinh tế(phần III).
- Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực(phần V).
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội(phần VI).
- Phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội(phần VII).
- Tăng cường quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc(phần VIII).
- Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế(phần IX).
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân(phần X).
- Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa(phần XI).
- Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng(phần XII). Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng(trong phần thứ hai “Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ tới”).
Những vấn đề nêu trên đều có thể khai thác khi dạy phần vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở cuối mỗi bài, hoặc ở bài cuối. Bài viết này chỉ bàn các khía cạnh liên quan tới bài “ văn hóa”.
2. Quán triệt quan điểm Đại hội X vào nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Phần này không bàn tới văn hóa theo nghĩa rộng, mà chỉ bàn tới văn hóa theo nghĩa nền tảng tinh thần của xã hội. Bài viết chủ yếu khai thác những quan điểm mới về văn hóa(ở phần định hướng phát triển) để khẳng định rằng những quan điểm này thực chất là trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh.
Một là, nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân(tr.213).
Luận đề này bước đầu đã có đề cập ở Đại hôi IX, nhưng vẫn được coi là một điểm mới trong Đại hội X vì có sự phân tích kỹ hơn. Tuy nhiên, về cơ bản, đây là sự trở lại đích thực với tư tưởng Hồ Chí Minh khi Người khẳng định “ văn hóa không thể đứng ngoài mà phải đứng trong kinh tế và chính trị”. Vấn đề cần nhận thức ở đây là hoạt động kinh tế không phải vì kinh tế mà vì mục tiêu văn hóa. Hoạt động chính trị phải thấm nhuần tinh thần văn hóa và nhân văn. Đó là “ chính trị đời thường”, “chính trị giữa dân gian”, “ chính trị liêm khiết” như cách nói của Bác Hồ. Hoạt động xã hội và sinh hoạt của nhân dân cũng như vậy, tức là phải có hướng đích tới giá trị và cái đẹp. văn hóa có trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, sinh hoạt của cộng đồng... cũng có nghĩa văn hóa là động lực của các hoạt động đó, tác động vào kinh tế, chính trị, xã hội, làm cho kinh tế, chính trị, xã hội phát triển, đồng thời văn hóa cũng là mục tiêu hướng tới của các hoạt động đó.
Trong mấy năm trở lại đây, cùng với việc mở rộng phạm trù văn hóa, chúng ta bắt đầu nói tới văn hóa chính trị. Tuy nhiên, đây vẫn là vấn đề mới trong giới nghiên cứu Việt Nam. Có người hiểu văn hóa chính trị là văn hóa phục vụ chính trị; văn hóa ở trong chính trị; chính trị có văn hóa; nhận thức đúng nguồn gốc, mục đích sử dụng, phương thức, phương pháp thực thi quyền lực là văn hóa chính trị( vì then chốt của chính trị là quyền lực); văn hóa có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại với chính trị, nền tảng cho mục tiêu chính trị. văn hóa chính trị là tập hợp các lập trường và các xu hướng cá nhân của những người tham gia trong một hệ thống nào đó, là lĩnh vực chủ quan làm cơ sở cho hành động chính trị và làm cho hành động chính trị có ý nghĩa; v.v.. Tôi hiểu văn hóa chính trị không phải là chính trị mà là chính trị có văn hóa, tức là chính trị thấm sâu vào tâm lý quốc dân, vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng như một sức mạnh văn hóa, sức mạnh hợp chất lý và tình, thuyết phục bằng cảm hoá. Điều này được thể hiện ở sự thống nhất giữa tư duy và hành động, lời nói và việc làm, được kiểm nghiệm bằng thực tiễn . Theo cách hiểu này và trở lại với văn kiện Đại hội X khi Đảng ta khẳng định “ nâng cao tính văn hóa trong chính trị”, thì tôi hiểu đây là bàn về văn hóa chính trị. Như vậy, rõ ràng đây là một điểm rất mới về văn hóa trong Đại hội X. Nói tới văn hóa chính trị, trước hết phải nói tới hệ thống các giá trị của mọi hoạt động chính trị một cách toàn diện và sâu sắc mang tính khoa học, cách mạng và nhân văn, dựa trên lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, phấn đấu vì một xã hội nhân đạo, dân chủ, công bằng, văn minh, đạt được mục đích cuối cùng, cao nhất là giải phóng con người, giải phóng nhân loại toàn diện, triệt để.văn hóa chính trị là sự thấm nhuần thế giới quan khoa học duy vật biện chứng, bảo đẩm tính khách quan, trung thực, quan diểm thực tiễn, phát triển và lịch sử- cụ thể, có trí tuệ và bản lĩnh trong “xây” và “chống” với một tính nguyên tắc cao, kết hợp với tinh thần cởi mở, năng động, sáng tạo, biết trân trọng và tiếp biến những di sản tinh thần của thời đại trên cơ sở đậm đà cốt cách văn hóa dân tộc để không ngừng nâng cao hiệu quả của hoạt động chính trị. Xét dưới góc độ tổ chức, văn hóa chính trị là một tấm gương phản chiếu của hệ thống chính trị hoặc cá nhân các nhà chính trị và những cán bộ công chức trong hệ thống chính trị. Cùng với tính dân tộc và tính nhân loại là những yếu tố trường cửu của văn hóa, thì văn hóa chính trị macxit còn đậm đà tính giai cấp ( công nhân). Với hệ tư tưởng cốt tuỷ là chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa chính trị Việt Nam có chức năng định hướng giá trị xã hội chủ nghĩa và chức năng giáo dục, điều chỉnh tư tưởng và hành vi con người theo hướng nhân văn. Thế giới quan Mác- Lênin, Hồ Chí Minh chi phối văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại, tạo ra tinh thần nhân văn, chủ nghĩa nhân đạo hiện thực của nền văn hóa chính trị Việt .
Hai là, bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa- nền tảng tinh thần của xã hội(tr.213).
Điểm mới này, như đã nói, đã được kết luận trong Hội nghị lần thứ X Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, tạo ra cái “ kiềng ba chân” của sự phát triển. Đây chính là những yếu tố để tạo được sự phát triển đồng bộ, điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước. Trước đây, Đảng ta đã xác định xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt như hai chân của sự phát triển. Nhưng trong tình hình mới, với sự chuyển động của xu thế toàn cầu cho thấy văn hóa phải có mặt trong các nhiệm vụ đó. Xây dựng kinh tế là trung tâm, nhưng kinh tế phải gắn với văn hóa, dựa trên động lực văn hóa và vì mục tiêu văn hóa. ở đây, nhiệm vụ trọng yếu nhất là xây dựng con người Việt Nam với những đức tính tốt đẹp về lòng yêu nước, bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, trí tuệ, thì mới thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhưng không chỉ xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, mà nhất thiết phải xây dựng, phát triển văn hóa từ trong Đảng, xây dựng Đảng về văn hóa.
Mỗi một một lĩnh vực như kinh tế, Đảng, văn hóa có một vai trò cụ thể, nhưng để tạo ra sự phát triển bền vững của đất nước thì ba lĩnh vực đó phải gắn kết chặt chẽ với nhau, trong đó văn hóa vừa là nền tảng tinh thần của cả xã hội, soi đường cho quốc dân đi vừa là hạt nhân, yếu tố thẩm thấu bên trong của kinh tế và bộ máy Đảng. Không có văn hóa trong kinh tế, trong Đảng và không gắn việc nâng cao văn hóa với phát triển kinh tế và xây dựng Đảng thì không thể nói tới phát triển bền vững.
Ba là, đặc biệt coi trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong kinh doanh và văn hóa trong nhân cách của thanh niên, thiếu niên(tr.213).
Gắn với luận điểm này, trong phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ tới, Đảng ta nêu trong Văn kiện Đại hội X vấn đề “ nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng”(tr.279).
Trong điểm mới thứ ba này, tôi đặc biệt quan tâm tới khía cạnh “ nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý”. Nếu gắn với luận điểm “ nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng”, thì ở đây chúng ta hiểu có văn hóa lãnh đạo, quản lý và văn hóa cầm quyền. Điều này liên quan tới Đảng, Nhà nước và cán bộ, đảng viên. văn hóa quản lý nghiêng về phía Nhà nước. văn hóa lãnh đạo, cầm quyền nghiêng về phía Đảng, nhưng với hai mức độ và phạm vi khác nhau. Có thể hiểu lãnh đạo và cầm quyền tuy hai mà một, tuy một mà hai. Theo tôi, trong tình hình hiện nay, nói văn hóa cầm quyền vừa bao quát được văn hóa lãnh đạo vừa chứa đựng được nội dung nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, vừa đáp ứng được đòi hỏi của thời cuộc. Nói văn hóa lãnh đạo và quản lý còn liên quan tới trách nhiệm của cá nhân người lãnh đạo, quản lý.
Vậy thế nào là văn hóa lãnh đạo và quản lý? Đây là lĩnh vực mới nên có thể còn có những cách hiểu khác nhau. Từ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và qua cách trình bày của Đảng trong các văn kiện gần đây về văn hóa, tôi hiểu văn hóa lãnh đạo, quản lý thuộc phạm trù văn hóa chính trị, được nhận thức trong điều kiện Đảng cầm quyền. văn hóa lãnh đạo - quản lý là một hệ thống quan điểm về những giá trị trong lãnh đạo - quản lý, thể hiện trí tuệ, bản lĩnh, trình độ “người” và mức độ được “ vun trồng” của Đảng cầm quyền, Nhà nước pháp quyền và người lãnh đạo - quản lý.
Trước hết nói về văn hóa lãnh đạo của Đảng. Đảng cầm quyền là bước chuyển biến cách mạng, bước nhảy vọt về chất của Đảng trong toàn bộ hoạt động của mình kể từ lúc Đảng ra đời. Đảng vừa có nghĩa vụ cầm quyền, vừa có điều kiện thi thố năng lực cầm quyền, mà theo cách nói của Lênin là từ đây “lý luận biến thành thực tiễn”. Nghĩa vụ và năng lực cầm quyền đó được thể hiện ở trách nhiệm lãnh đạo toàn xã hội, xây dựng chế độ mới (chứ không phải như đập tan chế độ cũ trước đây). Cái “thực tiễn” mà Lênin nói tới ở đây là chất lượng văn hóa của việc cầm quyền và lãnh đạo. Không phải ngẫu nhiên mà Lênin đã nói và Hồ Chí Minh nhấn mạnh lại việc “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Rõ ràng cái khó là Đảng cầm quyền phải thực hiện được nghĩa vụ “kép” “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Cái khó còn ở chỗ - như Hồ Chí Minh đã chỉ ra - do nhiều thói hư tật xấu nảy sinh còn nguy hiểm hơn kẻ thù bên ngoài, như quan liêu mệnh lệnh, tham nhũng, tha hoá, địa phương chủ nghĩa, v.v.. tạo thành nguy cơ một khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Thực chất đó là những tư tưởng và hành vi phi văn hóa, phản văn hóa, dưới văn hóa.
văn hóa có sứ mệnh, sức mạnh, tầm quan trọng to lớn và ý nghĩa cách mạng sâu xa đối với vận mệnh của dân tộc. văn hóa lãnh đạo - quản lý trong bộ máy cầm quyền lại càng quan trọng vì nó tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc. Đảng là đội tiên phong của giai cấp và dân tộc. Trí tuệ, bản lĩnh và phẩm chất của Đảng cầm quyền bao giờ cũng là một tấm gương phản chiếu đối với dân tộc mình và các dân tộc khác. Gương sáng thì dân tin, dân phục, dân yêu. Gương mờ thì lòng dân ly tán.
Vấn đề văn hóa lãnh đạo - quản lý đã được Hồ Chí Minh suy nghĩ hàng chục năm trước khi có chính quyền. Từ năm 1939 Người đã chỉ ra rằng “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”. Năm 1943, khi bàn đến xây dựng văn hóa mới, Người nói đến việc xây dựng một “nền chính trị dân quyền”. Đặc biệt từ khi chính quyền thuộc về nhân dân, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh trăn trở với sự cầm quyền của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước. Xử lý mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với dân và phát huy quyền làm chủ của dân là những lĩnh vực chủ yếu của văn hóa lãnh đạo - quản lý trong bộ máy cầm quyền. Về mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ “ phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Đây chính là cách lãnh đạo, quản lý bằng thuyết phục, cảm hoá, là “chính trị đời sống” từ đó sẽ tạo ra quyền uy của Đảng, thay vì áp đặt quyền lực.
Đảng cầm quyền thì phải xác định vai trò lãnh đạo của Đảng chứ không phải là một Đảng cai trị. Nhưng dù là Đảng lãnh đạo thì người dân vẫn là những người bị lãnh đạo như cách nói của Bác Hồ. Giải quyết mâu thuẫn này chính là ứng xử văn hóa của Đảng cầm quyền. Cách tốt nhất là nâng cao trình độ, phẩm chất và ý thức phục vụ nhân dân ngang tầm quyền lực của Đảng. Đó thực chất vừa là nâng cao năng lực lãnh đạo vừa nâng cao năng lực đầy tớ của Đảng.
văn hóa lãnh đạo của Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền nằm ở trí tuệ, bản lĩnh, phẩm chất của Đảng. Bởi vì Đảng lãnh đạo quần chúng đấu tranh giữ chính quyền, xây dựng xã hội mới phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. ở đây không có đất cho sự dốt nát và suy thoái, sự nhũng lạm và xa dân... Ngược lại, Đảng cầm quyền đòi hỏi sự gắn bó mật thiết giữa văn hóa với chính trị, văn hóa đứng trong chính trị. Không có một sự thấu hiểu dân, nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý; thực hiện dân quyền, dân chủ, dân sinh, nâng cao dân trí với ý nghĩa là hạt nhân của văn hóa Đảng cầm quyền thì không bao giờ được dân tin, dân phục, dân yêu.
Về văn hóa lãnh đạo- quản lý dưới góc độ Nhà nước. Hồ Chí Minh từng khẳng định “nước ta là nước dân chủ”, dân là chủ và dân làm chủ. Dân chủ là “làm cho người dân được quyền mở miệng ra”. Một nét quản lý đậm chất văn hóa phải là “Chính phủ là công bộc của dân”. Chính sách của Chính phủ phải hợp với nguyện vọng và quyền lợi của dân chúng. Đối với dân, Chính phủ phải xây dựng một nền chính trị liêm khiết. Thành quả lớn nhất sau khi giành được độc lập, chính quyền thuộc về nhân dân, đó là dân chủ trở thành một nguồn lực lớn, một giá trị văn hóa, vừa là động lực vừa là mục tiêu của cách mạng. Dân chủ đối lập với quan liêu. Tăng cường dân chủ là phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Chủ nghĩa quan liêu là phản văn hóa, là kẻ thù hủy diệt chúng ta.
Phải quan tâm xây dựng nhà nước pháp quyền, một nấc thang thể hiện trình độ văn minh của nhân loại. Một nét đẹp của văn hóa quản lý là quản lý xã hội bằng pháp luật và duy trì một xã hội dân sự.
văn hóa lãnh đạo - quản lý của cá nhân cán bộ, đảng viên cũng phải đặt trong điều kiện Đảng cầm quyền. Theo Hồ Chí Minh, “ đã là cán bộ thì dù ít dù nhiều đều có quyền hành. Cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Có quyền mà thiếu lương tâm thì có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút”. Trong tình hình đó, theo cách phân tích của Hồ Chí Minh, đã có quyền thì người cán bộ lãnh đạo - quản lý phải biết tập trung xử lý quyền lực một cách có văn hóa.
Có hai cách lãnh đạo: 1- Lãnh đạo có văn hóa là không dùng quyền lực, mà dùng thuyết phục, cảm hoá bằng trí tuệ và cái tâm, cái đức. Không dùng quyền lực mà có quyền uy. 2- Lãnh đạo phi văn hóa là dựa vào quyền lực. Trường hợp này rơi vào những người không có bản lĩnh, thiếu tâm, dưới tầm. Có hai mặt của quyền lực: 1- Quyền lực tạo nên sức mạnh để giữ thành quả cách mạng, xây dựng chế độ mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Đó là mặt tích cực, mặt “văn hóa” của quyền lực. 2- Quyền lực làm tha hoá người nắm quyền, dẫn tới cậy quyền, lợi dụng quyền lực, lạm dụng quyền lực, say mê quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực, tham quyền cố vị. Đó là mặt tiêu cực, mặt phản văn hóa của quyền lực. Gìơ đây, với tư duy đổi mới, chúng ta nhận thức rằng tham nhũng kinh tế chỉ là phần ngọn của quốc nạn tham nhũng. “Chạy” để có quyền lực, tức là “tham nhũng quyền lực”, và khi có quyền lực thì lạm quyền để trục lợi. Đó mới là gốc của tham nhũng mà sinh thời Bác Hồ gọi là “nhũng lạm”. Muốn chữa bệnh “tham nhũng quyền lực” thì phải chữa nơi quyền lực, mà quan trọng nhất là phải dùng văn hóa lãnh đạo- quản lý như Đảng ta đã bàn trong Đại hội X.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, tệ quan liêu, mệnh lệnh là kẻ thù của văn hóa. Lãnh đạo quan liêu là lãnh đạo vô văn hóa. Lãnh đạo có văn hóa là phải tẩy sạch bệnh quan liêu, mệnh lệnh.
văn hóa lãnh đạo - quản lý thể hiện rõ sự ứng xử văn hóa trong các mối quan hệ với người, với việc, với mình; ứng xử có lý có tình, hài hoà nhuần nhị, không nịnh hót cấp trên, không coi thường và dùng mệnh lệnh với cấp dưới, không trù dập người có tài. Phải biết điều tra, nghiên cứu, đôn đốc, giúp đỡ, khuyến khích kiểm tra, làm đến nơi đến chốn, nói đi đôi với làm, công khai, minh bạch.
Những điểm mới về văn hóa trong Đại hội X cùng với tư duy xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt sễ góp phần quan trọng sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển.