Văn hóa là phạm trù chỉ toàn bộ đời sống cuả con người, trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên. Quan hệ đó hình thành và tạo nên các giá trị vật chất và tinh thần (văn hóa vật thể và phi vật thể); kết tinh năng lực hoạt động của con người (gồm phương thức sống, trình độ hoạt động) và trình độ phát triển của chính bản thân con người về phẩm chất, nhân cách, trình độ người. Hồ Chí Minh coi văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. Phương thức sinh hoạt mà Hồ Chí Minh đề cập tới ở đây bao gồm những sinh hoạt về kinh tế, chính trị, xã hội... Đời sống mà Người nói tới bao gồm đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Từ quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa, có thể hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng.
Đời sống xã hội và nhu cầu của con người nói gọn lại chỉ có hai vấn đề, là nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Muốn đảm bảo nhu cầu về vật chất như ăn, mặc, ở, đi lại... thì phải lấy kinh tế làm nền tảng. Muốn bảo đảm nhu cầu về tinh thần như thưởng thức nghệ thuật, giao tiếp, tâm linh... thì phải lấy văn hóa làm nền tảng. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội với ý nghĩa là chức năng định hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội, chi phối hành vi của mỗi người và toàn xã hội. Một xã hội thiếu một nền tảng tinh thần tiến bộ, lành mạnh, một định hướng giá trị đúng đắn sẽ không có sự phát triển kinh tế, xã hội bền vững. Nền tảng tinh thần còn thể hiện ở chỗ, hệ giá trị về chính trị, đạo đức, pháp luật, khoa học, văn học, nghệ thuật, tập quán, phong tục, lối sống...tạo nên đặc trưng riêng, gọi là bản sắc văn hóa của dân tộc.
Văn hóa là mục tiêu, vì sự phát triển kinh tế nhằm mục tiêu vì con người, phát triển con người toàn diện. Triết lý phát triển Hồ Chí Minh cho thấy mục tiêu, lý tưởng là chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Người mong muốn xây dựng một xã hội không chỉ có dân giàu, nước mạnh mà là công bằng, dân chủ, văn minh. Trong toàn bộ quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã đưa ra định hướng phát triển bền vững trong đó chứa đựng những yếu tố về xóa nghèo, phổ cập giáo dục tiểu học, bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ, vấn đề sức khỏe, bảo đảm bền vững về môi trường, thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu. Nói gọn lại, Hồ Chí Minh lấy hạnh phúc làm tiêu chuẩn của sự phát triển. Trong Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng ngày 17-10-1945, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” 34 .
34 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr. 56.
Người khẳng định: “Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực” vào lòng” 35.
35 Hồ Chí Minh, Sdd, t. 4, tr. 58.
Vai trò động lực của văn hóa trước hết thông qua chức năng của văn hóa để bồi dưỡng nguồn lực con người, xây dựng một xã hội phát triển. Theo Hồ Chí Minh, văn hóa bồi dưỡng tư tưởng và tình cảm cách mạng cho con người. Tư tưởng cách mạng lớn nhất là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tình cảm cách mạng đáng quý nhất là thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ, bị áp bức. Văn hóa nâng cao dân trí, giúp con người từ chỗ xóa mù chữ, biết đọc, biết viết, đến nắm vững các tri thức về chính trị, kinh tế, văn hóa và quy luật phát triển của xã hội loài người. Văn hóa bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp và phong cách lành mạnh cho con người. Đó là những phẩm chất về nhân cách, đạo đức, phong cách ứng xử văn hóa...
Rõ ràng, văn hóa “soi đường cho quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”. Trong văn hóa, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần nhấn mạnh vai trò động lực của tư tưởng mácxít, giúp định hướng các giá trị trong xã hội nhằm tạo nên sự phát triển lành mạnh. Văn hóa tạo nên sức mạnh to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong cách mạng Việt Nam, những thắng lợi huy hoàng của nhân dân ta chính là nhờ văn hóa thấm sâu vào quần chúng nhân dân, biến “vũ khí phê phán thành sức mạnh vật chất”, đó là thắng lợi của văn minh đối với bạo tàn.
Tóm lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với sự phát triển kinh tế, văn hóa sẽ góp phần to lớn tạo nên sự phát triển lành mạnh, nhanh, hiệu quả, bền vững của đất nước.
Thứ hai, giữ gìn cốt cách văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Hồ Chí Minh rất quan tâm tới văn hóa dân tộc và cốt cách văn hóa dân tộc. Người coi tinh thần độc lập tự cường, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, thái độ bao dung... của dân tộc là động lực, sức mạnh to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chúng ta phải có ý thức trân trọng, giữ gìn, khai thác, phát huy, phát triển cốt cách văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, cốt cách văn hóa dân tộc không phải “nhất thành bất biến”, mà nó luôn được bổ sung, ngày càng phong phú hơn và có cả sự đào thải, phù hợp với từng giai đoan lịch sử. Giữ gìn không phải là khư khư đóng cửa mà phải biết mở rộng cửa tiếp nhận tinh hoa nhân loại để làm giàu cho văn hóa dân tộc. Với tinh thần ấy, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Văn hóa Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đông phương và Tây phương chung đúc lại... Tây phương hay Đông phương có cái gì tốt, ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam để hợp với tinh thần dân chủ” 36 . Cách trình bày của Hồ Chí Minh cho thấy, mục đích của việc tiếp thu văn hóa nhân loại là để làm giàu cho văn hóa Việt Nam. Nhưng chỉ tiếp thu cái gì tốt, còn cái gì không tốt thì phải loại dần ra. Tiếp thu trong sự ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng nhằm “trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam hợp với tinh thần dân chủ”. Như vậy, tiếp thu nhưng vẫn giữ được cốt cách văn hóa dân tộc và cái chất Việt Nam.
36 Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản, Hà Nội, 1997, tr. 350.
Thứ ba, tư tưởng về mặt trận văn hóa và chiến sĩ văn hóa.
Trên nền cách ứng xử của cha ông, Hồ Chí Minh sớm ý thức về vai trò, vị trí của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng. Bắt đầu bước chân vào con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh đã coi văn hóa là một mặt trận trong cuộc cách mạng của dân tộc và Người luôn luôn là chiến sĩ anh dũng, ngoan cường trên mặt trận ấy. Hồ Chí Minh là người viết nhiều nhất để tố cáo tội ác của bọn thực dân, phong kiến và bênh vực mạnh nhất, nhiều nhất những người bị áp bức. “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Người cùng khổ” và hàng nghìn bài báo, bài văn, bài thơ khác là những minh chứng hùng hồn cho vai trò mặt trận của văn hóa, nghệ thuật . Theo Người, những người hoạt động trên mặt trận văn nghệ phải tự coi mình là chiến sĩ, lấy ngòi bút làm vũ khí sắc bén trong sự nghiệp “phò chính trừ tà”. Muốn đạt được điều đó, các chiến sĩ văn hóa phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, nắm vững chủ nghĩa Mác- Lênin, có đạo đức nghề nghiệp, gắn bó với quần chúng, đi vào thực tiễn, “từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”. Chiến sĩ văn hóa phải là những người biết quý trọng, bảo vệ văn hóa dân tộc, khai thác tinh hoa văn hóa nhân loại. Tóm lại, “văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”.
Thứ tư, văn hóa phục vụ sự nghiệp quần chúng nhân dân, là sự nghiệp của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Hồ Chí Minh trong văn hóa là: “Nền văn hóa mới của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở” 37 . Trong mọi vấn đề, cách nhìn của Hồ Chí Minh là phải luôn luôn “lấy lợi ích của nhân dân làm khuôn phép”. Để làm tốt điều này, người hoạt động văn hóa phải có cái nhìn đúng đắn về quần chúng nhân dân. Với vai trò chủ thể, nhân dân là những người sáng tác rất hay; ca dao, tục ngữ của quần chúng là những hòn ngọc quý. Nhân dân nuôi dưỡng các sáng tác của văn nghệ sĩ bằng những nguồn nhựa sống. Họ là chủ thể đánh giá, kiểm nghiệm các sản phẩm văn hóa.
37 Hồ Chí Minh: Về công tác văn hóa văn nghệ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1971, tr.71.
Với vai trò là khách thể (đối tượng phản ánh), phải nhìn nhận nhân dân lao động là “nhân vật” trung tâm của sự nghiệp cách mạng. Vì vậy, mọi hoạt động văn hóa phải phản ánh quần chúng nhân dân một cách chân thực, sống động; phải lột tả được tư tưởng, khát vọng, và lòng ước ao của quần chúng. Một trong những cách làm có hiệu quả là các hoạt động văn hóa phải phù hợp với trình độ của quần chúng, trong những thời kỳ lịch sử nhất định. Chẳng hạn, những năm 1945-1946, khi vừa từ vũng bùn nô lệ bước ra, không thể tuyên truyền “dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa”; càng không thể nói “giá trị thặng dư” cho đồng bào miền núi. Hợp trình độ phải gắn với hợp lứa tuổi. Hồ Chí Minh nói tới “cuộc sinh hoạt thực tại của con người chính là ở chỗ ấy”. Phát biểu trong buổi khai mạc phòng triển lãm văn hóa, ngày 7-10-1945, Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Các bức tranh này tỏ ra các nghệ sĩ của ta lâu nay đều đã cố gắng tìm một con đường đi. Nhưng tiếc một điều là không muốn đi ở dưới đất mà cứ muốn vụt lên trời: chất mơ mộng nhiều quá, mà cái chất thật của sự sinh hoạt rất ít... Thật là một thế giới tiên! Nhưng tôi nhớ mường tượng như Lỗ Tấn, nhà văn hào cách mạng Trung Hoa đã nói ở đâu một câu đại ý như thế này: Người trần lên tiên có lẽ cũng thích thật. Nhưng nhìn thấy mãi cái đẹp không thay đổi rồi cũng thấy chán nản, nhạt nhẽo và mới biết rằng: muốn tìm thấy sự thay đổi, sự ham mê thật, phải trở về với cuộc sinh hoạt thực tại của con người” 38 . Tiếp cận một cách tổng thể, văn hóa phục vụ quần chúng nhân dân là phải luôn tư duy và trả lời được bốn câu hỏi: Viết cho ai? Viết cái gì? Viết nhằm mục đích gì? Viết như thế nào? Bằng cách tiếp cận đó, các hoạt động văn hóa mới tránh được lối viết rau muống, rỗng tuếch, thích dùng chữ nước ngoài. Và cũng bằng cách tư duy đó, thì một tác phẩm văn nghệ mới bảo đảm được tính chân thật, nội dung phong phú, hình thức trong sáng, vui tươi, hấp dẫn. Theo Hồ Chí Minh, một tác phẩm văn nghệ thật sự vì nhân dân thì chỉ cần diễn đạt vừa đủ những điều đáng nói, được trình bày sao cho mọi người ai cũng hiểu được, khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích và phải suy ngẫm. Đó chính là tính hướng đích của văn hóa cách mạng. Cũng cần quan tâm tới tính phong phú, đa dạng của các hoạt động văn hóa. Trên cái nền sáng tạo không ngừng của văn nghệ sĩ, văn nghệ phải có nhiều thể loại, nhiều tác phẩm hay, thật và hùng hồn với nhiều cách thể hiện, xứng đáng với dân tộc anh hùng, thời đại vẻ vang, tạo ra nhiều món ăn bổ ích khác nhau cho quần chúng nhân dân.
38 Hồ Chí Minh: Về công tác văn hóa văn nghệ, Sdd, tr. 69.
Thứ năm, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam.
Hồ Chí Minh quan tâm tới việc xây dựng một nền văn hóa mới Việt Nam ngay khi nước nhà chưa giành được độc lập. Trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp rồi miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh càng có điều kiện tập trung suy nghĩ cho các vấn đề văn hóa. Nền văn hóa mới theo quan điểm của Hồ Chí Minh trước hết phải xây dựng tâm lý cho mỗi người và cả dân tộc Việt Nam, đó là tinh thần độc lập tự cường. Tâm lý dân tộc là một trong những yếu tố quyết định chất lượng nền văn hóa. Nếu là một dân tộc mang tư tưởng ỷ lại thì dân tộc đó không xứng được độc lập chứ chưa nói tới hưởng hạnh phúc. Còn dân tộc độc lập tự cường thì sớm hoặc muộn sẽ sánh vai được với các cường quốc năm châu. Nền văn hóa mới phải chứa đựng trong đó những yếu tố về đạo đức, quyền con người, quyền công dân, vì hạnh phúc và lợi ích của nhân dân. Đó là nền văn hóa giữ gìn, bảo lưu được các giá trị văn hóa dân tộc, tiếp thu yếu tố khoa học, hiện đại của nhân loại. Điều quan trọng nhất, đó là nền văn hóa tiến bộ, nhân văn, của đại chúng, do đại chúng và vì đại chúng.
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, vận dụng vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay như thế nào?
Việt Nam giờ đây đang tiến sâu vào con đường hội nhập. Bối cảnh đất nước và thế giới thập niên đầu thế kỷ XXI đã khác xa thế giới và Việt Nam lúc Hồ Chí Minh còn sống. Thế giới ngày nay là thế giới của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão. Thế giới của nền kinh tế tri thức. Tất cả đang từng ngày biến động trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, khi công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, cũng là lúc nhiều vấn đề bất cập nảy sinh. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã thẳng thắn thừa nhận: “ Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị, còn nhiều yếu kém. Lý luận chưa giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa đổi mới và ổn định và phát triển; giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế...” 39. Những vấn đề đó có thể liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới văn hóa, nhưng đều gắn rất chặt với việc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam. Bởi vì một nền văn hóa mới liên quan chặt chẽ tới chính trị mà sợi chỉ đỏ là chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; liên quan tới kinh tế, xã hội, những vấn đề đối nội, đối ngoại,v.v.. Tóm lại nó liên quan tới mọi hoạt động của con người, vì hạnh phúc của con người.
39 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 69.
Vấn đề lớn thứ nhất hiện nay là giữ gìn bản sắc văn hóa trong hội nhập. Hiện nay chúng ta chỉ bàn nhiều tới toàn cầu hóa về kinh tế. Có toàn cầu hóa về văn hóa hay không là một bài toán chưa có lời giải. Tuy nhiên trong khi chờ đợi, chúng ta không thể phủ nhận nguy cơ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là mối đe dọa làm nghèo đi giá trị văn hóa các dân tộc. Đang có một thực tế là hiện tượng “đế quốc văn hóa” đang muốn chà đạp, dẫm nát giá trị văn hóa bản địa. Khi một số nước lớn chiếm ưu thế về khoa học công nghệ, về tiềm năng kinh tế, đồng thời họ muốn áp đặt một giá trị chung toàn cầu. Ngày nay, mối quan hệ tương tác giữa kinh tế và văn hóa trong phát triển là rõ ràng. Cũng rất rõ ràng là trong “thế giới phẳng”, tức là thế giới của sự kết nối với sức mạnh và tính hữu dụng của in-tơ-nét, của những chiếc máy kỹ thuật số, của điện thoại di động, v.v.. khiến cả thế giới “thu gọn trong lòng bàn tay”. Vậy thì cách nào để những nước kinh tế kém phát triển giữ được bản sắc văn hóa? Trả lời câu hỏi này không dễ, nhưng rõ ràng không thể cứ kinh tế kém phát triển thì chịu thua thiệt về văn hóa. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc (vật thể và phi vật thể) không chỉ là vấn đề được đặt ra với nước ta mà đang là chuyện thời sự của thời đại. Vấn đề đặt ra ở đây là không nên và không thể ngăn chặn các làn sóng văn hóa từ nơi này sang nơi khác bằng biện pháp hành chính, không thể đóng cửa, “bế quan tỏa cảng”. Văn hóa là cái bình thông nhau. Tiếp biến văn hóa là quy luật. Bài học đắt giá mà chúng ta đã nhận được trước đây là do không nắm vững quy luật, không tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Phải nhận thức rằng trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, của “cánh tay nối dài” in-tơ-nét và nhất là khi việt Nam đã vào WTO thì việc xuất hiện ở Việt Nam những quán ăn nhanh Mc Donald, những quán cà-phê Starbuck, Coca Cola, phim Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, những phiên bản nhạc kiểu American Idol, những games Show, games online, thương hiệu hàng hóa nước ngoài, v.v..và v.v.. là tất yếu. Trên cơ sở nắm vững quy luật, chúng ta không nên và không được sợ bất cứ một điều gì. Trong thế giới ngày nay, đa dạng văn hóa là di sản chung của nhân loại, là một động lực của phát triển bền vững, nó có vai trò quan trọng đối với con người giống như vai trò sống còn của đa dạng sinh học đối với thế giới sinh vật. Giao lưu văn hóa đang trở thành phương tiện gắn kết nhân loại và làm cho đời sống tinh thần của con người ngày càng phong phú.
Phải làm gì để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc trong bối cảnh đó? Có quá nhiều việc phải làm, và dưới góc độ nghiên cứu khoa học thì không thể bàn trong một bài báo nhỏ. Nhưng ít nhất có hai việc cần quan tâm. Một là, phải có tinh thần tự cường, tự tôn dân tộc. Nếu ta không nhanh chóng lớn lên với nội lực của mình và ngày càng cường tráng, nhanh chóng ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì rất khó nói đến giữ gìn bản sắn văn hóa dân tộc. Khi nói về văn hóa, Hồ Chí Minh dạy: “số phận dân ta là ở trong tay dân ta”. Một ví dụ về nội lực: chúng ta phải có nhiều phim Việt, bài hát Việt hay thì mới thu hút được mọi người, làm cho mọi người tự giác rời bỏ các loại hình nghệ thuật khác. Muốn vậy, phải có sự phát triển đồng bộ, cả đường lối, chính sách, kinh tế, tư duy... Những gì chúng ta đã có thuộc bản sắc văn hóa dân tộc thì phải bằng nhiều cách để bảo lưu, giữ gìn. Không thể để tình trạng một sinh viên nước ngoài đam mê nghiên cứu và biểu diễn tuồng Việt Nam mà chính chúng ta lại không quan tâm. Trong đa dạng văn hóa có đối thoại văn hóa. Muốn làm tốt điều này, chúng ta không thể tụt hậu. Hai là, phải có những hoạt động xứng tầm để giới thiệu văn hóa Việt Nam với bạn bè thế giới. Chúng ta có Hồ Chí Minh, nhà văn hóa lớn, hiện thân của nền văn hóa hòa bình, tiêu biểu cho một kiểu chủ nghĩa xã hội đậm tính nhân văn. Chúng ta có nhã nhạc cung đình, có Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Và người Việt Nam phải khẳng định Thương hiệu hàng Việt Nam, v.v.. Chúng ta phải quảng bá các giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc ra thế giới.
Vấn đề lớn thứ hai là xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam gắn với những vấn đề chính trị- xã hội của đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định: “Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác- Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội” 40.
40 Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.10.
Đây là điều có ý nghĩa quyết định. Phải coi xây dựng văn hóa là một cuộc cách mạng thì mới xóa bỏ được cái cũ xấu xa, xây dựng cái mới tốt và hay. ở đây, tôi muốn nhắc lại một ý kiến sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Diễn văn khai mạc hội nghị văn hóa toàn quốc, ngày 24-11-1946. Người nói đại ý: “ Văn hóa có liên lạc với chính trị rất là mật thiết. Phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, được lười biếng, phù hoa, xa xỉ. Tâm lý của ta lại còn muốn lấy tự do độc lập làm gốc. Văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do. Đồng thời, văn hóa phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng mình. Đối với xã hội, văn hóa phải làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình nên được hưởng” 41 . Người lại dạy: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.
42 Hồ Chí Minh: Về công tác văn hóa văn nghệ, Sdd, tr.72.
Hiện nay, chống tiêu cực là vấn đề lớn , nếu làm không tốt thì dù có tăng trưởng kinh tế cao, vẫn không thể coi là một xã hội phát triển, hạnh phúc. Các nhà nghiên cứu đã cảnh báo nguy cơ đang tiềm ẩn trong tăng trưởng kinh tế. Dùng văn hóa chống tiêu cực là một trong những biện pháp có hiệu quả. Bằng vũ khí văn hóa, phải vạch mặt kẻ tham ô, tham nhũng trước quần chúng, làm cho họ xấu hổ, cắn rứt lương tâm. Gắn với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, hiện nay, văn hóa phải tham gia tích cực vào cuộc vận động 4 xây: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; ý thức tổ chức kỷ luật; ý thức trách nhiệm; ý thức phục vụ nhân dân; và 4 chống: chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham ô, lãng phí. Đây là cuộc chiến lâu dài, phức tạp, gian khổ, nhưng không thể không có hồi kết. Bởi vì, theo tinh thần của UNESCO, “phân tích đến cùng thì sự phát triển của văn hóa chính là sự phát triển của xã hội”; “sự thăng hoa của văn hóa chính là đỉnh cao nhất của sự phát triển”.
Liên quan tới phát triển, một khía cạnh khác là trong những nghiên cứu hiện đại khoảng chục năm nay, người ta coi tiêu chuẩn mới của phát triển là hạnh phúc. Phát triển, về lý thuyết, được quốc tế xác định từ sau Đại chiến II. Còn phát triển bền vững thì mới được xác định cũng khoảng chục năm (tháng 9-2000, Việt Nam cam kết cùng 189 nước thực hiện Tuyên bố Thiên niên kỷ, hay gọi là Chương trình Nghị sự XXI với 8 mục tiêu). Giờ đây là vấn đề hạnh phúc. Có chỉ số hạnh phúc hay không là do tiến bộ khoa học và do người dân từng nước cảm nhận. Nhưng nói chung, đó phải là chất lượng sống, là sự thích thú vật chất phù hợp với thích thú tinh thần, là cái thiện, là đạo người. Giàu có, luật pháp... chỉ là phương tiện, hạnh phúc mới là mục đích của phát triển xã hội. Hạnh phúc cá nhân gắn với tập thể, trách nhiệm công dân, tâm linh, từ thiện...Người ta phát hiện bằng khoa học là hạnh phúc cá nhân chưa đủ. Chẳng hạn, khi thích thú cá nhân (uống cà phê, đi nhảy...) thì chất hormon tiết ra không bằng làm một điều thiện giúp một người khác.
Trong khi xây hạnh phúc thì phải chống cái xấu. Cái xấu cá nhân là những người có hành vi phi đạo đức; cái xấu xã hội là những mô hình phát triển xấu. Chống cũng nhằm xây. Hiện nay, các nhà nghiên cứu bàn tới 5 “mô hình xấu” của tình hình phát triển một số nước cần chống. Đó là tăng trưởng kinh tế không đi đôi với giải quyết thất nghiệp; dẫn tới sự phân hóa giàu-nghèo, bất ổn xã hội; không bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; dẫn tới hủy hoại môi trường sống; làm băng hoại xã hội, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc.
Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam trong xu thế hội nhập là vấn đề rất lớn. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII nêu 5 quan điểm, 10 nhiệm vụ cụ thể, được Nghị quyết Trung ương 10 khóa IX và Đại hội X bổ sung, phát triển. Đây là những định hướng lớn cần được tiếp tục nghiên cứu. Mỗi một quan điểm, nhiệm vụ- chẳng hạn nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới- là một vấn đề nghiên cứu lớn. Bài viết chỉ tập trung vào một vài vấn đề mà người viết vừa tâm đắc vừa cho là những điểm mới cần đột phá.