1. Quan điểm xây dựng và phát triển văn hóa trước đổi mới
Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh muốn giải phóng dân tộc mình khỏi sự thống trị của thực dân Pháp về cả thể xác và tinh thần; muốn xây dựng ở Việt Nam một xã hội văn minh, tốt đẹp, không có áp bức, bóc lột, bất công, người với người là bạn.
Trên nền tảng văn hóa tốt đẹp của dân tộc và phát huy truyền thống ấy, chắt lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã có một nhận thức đúng đắn về văn hóa. Theo Người, “văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Từ nhận thức đó, Người đã hướng tới xây dựng một nền văn hóa dân tộc gồm các nôi dung về tâm lý, luân lý, xã hội, chính trị, kinh tế.
Sau khi ra đời, trong khi lãnh đạo toàn dân tộc đấu tranh xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến, giành độc lập dân tộc, Đảng ta đồng thời đưa ra Đề cương về văn hóa Việt Nam. Quan điểm của Đảng về văn hóa trước Cách mạng Tháng Tám khá toàn diện, bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. văn hóa và kinh tế, chính trị có quan hệ mật thiết với nhau: nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội. Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận : kinh tế, chính trị, văn hóa. Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. Cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công. Nền văn hóa mà cuộc cách mạng Đông Dương phải thực hiện phải là nền văn hóa mới, văn hóa xã hội chủ nghĩa, nhưng trước mắt, đó là thứ văn hóa có trình độ dân chủ và tính chất dân tộc. Ba nguyên tắc của cuộc vận động văn hóa mới Việt Nam là dân tộc hoá, đại chúng hoá, khoa học hoá. Đó là một nền văn hóa hợp với khoa học và hợp với trình độ, nguyện vọng của dân. Sau khi nước ta có độc lập, Hồ Chí Minh xác định trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi là quan trọng ngang nhau, đó là chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, và “ văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.
Tại Đại hội II của Đảng, trong Báo cáo chính trị , Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng.
Đại hội III của Đảng(9-1960) xác định cần phải tiến hành ba cuộc cách mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng tư tưởng và văn hóa, cách mạng khoa học-kỹ thuật. Đại hội IV của Đảng tiếp tục khẳng định, giai đoạn mới của cách mạng đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa cách mạng tư tưởng và văn hóa. Nhiệm vụ trung tâm của cuộc cách mạng này là xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hóa mới; là tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin và đường lối chính sách của Đảng, làm cho chủ nghĩa Mác- Lênin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống chính trị và tinh thần của toàn dân, làm cho đường lối, chính sách của Đảng thấu suốt trong cán bộ, đảng viên và quần chúng; là tiến hành đấu tranh chống tư tưởng và văn hóa phản động của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân, và nói chung là của giai cấp bóc lột. Trong toàn bộ công tác văn hóa, phải luôn luôn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng; làm cho đường lối của Đảng được thực hiện. Đại hội V khẳng định lại tinh thần của Đại hội IV, chỉ rõ nền văn hóa mới là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Nền văn hóa mới vừa kết tinh và nâng lên một tầm cao mới những gì đẹp nhất trong truyền thống bốn nghìn năm của tâm hồn Việt Nam, của văn hóa Việt Nam, vừa hấp thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh loài người, những thành tựu văn hóa, khoa học hiện đại. Nền văn hóa mới kết hợp hài hoà những tinh hoa văn hóa có phong cách riêng của các dân tộc anh em trong đại gia đình Việt Nam.
Nhìn chung lại, ngay từ khi ra đời và suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và bước đầu tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm tới vấn đề văn hóa, xác định văn hóa soi đường cho quốc dân đi và chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam theo phương châm dân tộc, khoa học, đại chúng. Từ Đại hội III, Đảng ta xác định không chỉ là xây dựng mà là tiến hành cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa. Đặc biệt từ khi cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta coi một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa, tính chất dân tộc, có tính đảng, tính nhân dân . Đại hội IV và đại hội V đã cố gắng làm rõ những nội dung cụ thể của các ngành trên lĩnh vực văn hóa như xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn học nghệ thuật xã hội chủ nghĩa; các ngành báo chí, thông tấn, xuất bản, phát thanh, thông tin; công tác bảo tồn, bảo tàng; xây dựng nếp sống mới... Tuy nhiên, Đảng ta vẫn chưa có được một nhận thức đầy đủ, đúng đắn, vừa sâu sắc vừa toàn diện về văn hóa và vai trò đích thực của văn hóa trong đời sống kinh tế- xã hội. Đời sống chiến tranh và những năm tháng bước đầu đi lên chủ nghĩa xã hội chưa đủ điều kiện để chúng ta có tầm nhìn về văn hóa, có một sự đột phá trong tư duy về văn hóa.
2. Quan điểm xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới, đến trước Đại hội X
Đại hội VI của Đảng(12-1986) mở đầu sự nghiệp đổi mới, nhưng về mặt văn hóa thì chưa có một sự đổi mới thật sự, thậm chí vấn đề văn hóa còn khá mờ nhạt trong văn kiện đại hội. Đại hội VII của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó khẳng định một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Một trong bảy phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác- Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu nhữn tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hóa phản tiến bộ, trái với những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hiến pháp năm 1992 khẳng định nền văn hóa Việt nam có tính chất (đặc trưng) dân tộc, hiện đại, nhân văn.
Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII (14-1-1993) “ Về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt” khẳng định: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết còn chỉ rõ “nhiệm vụ trung tâm của văn hóa, văn nghệ nước ta là góp phần xây dựng con người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách tốt đẹp, có bản lĩnh vững vàng ngang tầm sự nghiệp đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh. Nghị quyết Trung ương 4 nêu 5 tư tưởng chỉ đạo xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc:
1.Vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là cốt lõi trong tư tưởng văn hóa văn nghệ nước ta. Sự nghiệp văn hóa, văn nghệ là bộ phận khăng khít của sự nghiệp đổi mới. Thấm nhuần và thực hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “ văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.
2. Bảo đảm dân chủ, tự do cho mọi sự sáng tạo và hoạt động văn hóa, vun đắp các tài năng, đồng thời đề cao trách nhiệm của văn nghệ sĩ trước công chúng, dân tộc và thời đại.
3. Phát triển văn hóa dân tộc đi liền với mở rộng giao lưu văn hóa với nước ngoài, tiếp thụ những tinh hoa của nhân loại, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam. Ngăn chặn và đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn hóa độc hại, bảo vệ nền văn hóa dân tộc.
4. Nâng cao tính chiến đấu của các loại hoạt động văn hóa và văn học, nghệ thuật, khẳng định mạnh mẽ và sâu sắc những nhân tố mới, những giá trị cao đẹp của dân tộc ta, khắc phục những gì cản trở quá trình đi lên của đất nước. Phê phán cái sai, lên án cái ác, cái xấu là để hướng con người tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp. Đấu tranh không khoan nhượng chống các luận điệu độc hại của các thế lực thù địch.
5. văn hóa , văn nghệ là sự nghiệp của toàn xã hội. Phát triển các hoạt động văn hóa, văn nghệ của nhà nước, tập thể và cá nhân theo đúng đường lối của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Khắc phục tình trạng “hành chính hoá” các tổ chức văn hóa, nghệ thuật và xu hướng “ thương mại hoá” trong lĩnh vực này.
Để đạt những mục tiêu nêu trên, nghị quyết cũng nêu 8 biện pháp cần tập trung thực hiện.
So với các nghị quyết trước đó, có thể coi Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII là một bước đột phá về văn hóa, khi khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội , vừa là động lực vừa là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, và nêu ra được các tư tưởng chỉ đạo xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ nghị quyết có thể thấy rõ việc Đảng ta bàn về văn hóa lúc đó chủ yếu nhấn mạnh nhiều về văn hóa văn nghệ, tức là nhấn mạnh các lĩnh vực văn học, nghệ thuật trong văn hóa. Tuy xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nhưng chưa làm rõ được nội hàm “nền tảng tinh thần”, cũng như chưa làm rõ được nội hàm “ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết Trung ương 4 được coi như một dấu mốc về sự đổi mới trong tư duy về văn hóa, đặt cơ sở cho những đổi mới tiếp theo.
Đại hội VIII của Đảng (6-1996) và các nghị quyết nhiệm kỳ Đại hội VIII về văn hóa đánh dấu sự đổi mới toàn diện trong tư duy về văn hóa của Đảng. Đại hội VIII coi việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong các định hướng phát triển của đất nước.
Để thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương bàn và ra Nghị quyết về “ Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Đây là lần đầu tiên Đảng ta có một văn kiện mang tính cương lĩnh về văn hóa trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội , đặc biệt là trong sự nghiệp đổi mới. Với cương lĩnh này, Đảng ta xác định rõ những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng; mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, văn hóa và chính trị, văn hóa và quốc tế. Cương lĩnh là một bước đột phá xây dựng chiến lược phát triển văn hóa song song với chiến lược phát triển kinh tế.
Phương hướng xây dựng và phát triển văn hóa được xác định: “Phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo nên trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển , phục vụ đắc lực sự nghịêp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh. xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Gốc rễ của phương hướng này chính là tư tưởng Hồ Chí Minh về “văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc dân” được Người nói từ sau khi nước nhà giành được độc lập. Trong đổi mới, luận đề đó trở thành định hướng chung của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa nước ta.
Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII nêu năm quan điểm chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước:
1.văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội.
Quan điểm này cho thấy văn hóa là một mặt của đời sống xã hội- mặt nền tảng tinh thần, gắn bó chặt chẽ với một mặt khác của đời sống xã hội- mặt nền tảng vật chất. Hai mặt này được coi như hai chân của con người. Nền tảng tinh thần là tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc, truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, là đạo đức và tinh thần nhân văn, là lối sống có tình có nghĩa, có thuỷ có chung, có nhân có đức, có trước có sau, biết trung biết hiếuV.V.. Tóm lại, đó hệ thống giá trị đặc trưng cho dân tộc được chắt lọc, lưu giữ, truyền bá, phát triển trong hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc bao gồm chính trị, đạo đức, pháp luật, khoa học, văn học nghệ thuật, phong tục, tập quán, lối sống... Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì không thể có sự phát triển kinh tế- xã hội bền vững.
văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội trong đó hàm chứa văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực. văn hóa là mục tiêu vì chúng ta luôn luôn hướng tới mục tiêu con người phát triển toàn diện, hướng tới một xã hội phát triển bền vững, tức là hướng tới sự thăng hoa của văn hóa. Nội dung cơ bản của xã hội phát triển bền vững là công bằng, dân chủ, văn minh, được thể hiện cụ thể ở xoá đói giảm nghèo, phổ cập giáo dục tiểu học, bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ, chăm lo giáo dục và bảo đảm quyền trẻ em, chăm lo sức khoẻ và vấn đề môi trường, thiết lập quan hệ hoà bình, hữu nghị hợp tác toàn cầu vì phát triển.
văn hóa là động lực vì văn hóa có những chức năng cơ bản mà không một lĩnh vực nào có được, đó là các chức năng về bồi dưỡng tư tưởng và tình cảm cách mạng; bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức và phong cách tốt đẹp, lành mạnh; định hướng giá trị chân, thiện, mỹ; nâng cao dân trí... văn hóa lãnh đạo quốc dân, soi đường cho quốc dân đi để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. văn hóa chứa nguồn lực nội sinh tạo đà cho sự phát triển và sức mạnh to lớn để chiến thắng bạo tàn nội xâm và ngoại xâm.
2. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Lần đầu tiên, nghị quyết Đảng làm rõ thế nào là “tiên tiến”, là “đậm đà bản sắc dân tộc”. Nền văn hóa tiên tiến là một nền văn hóa yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hoà giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ trong nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện hiện đại để chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí độc lập, tự cường, tự chủ của dân tộc, tinh thần đoàn kết; tính cộng đồng gắn kết cá nhân- gia đình- làng xã- Tổ quốc; lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống. Nói bản sắc dân tộc là nói những giá trị trường tồn của dân tộc, những nét chủ yếu, nổi bật nhất, đúng với thực tế dân tộc ta, chứ không có nghĩa không dân tộc nào có cả.
Nói tới bản sắc văn hóa dân tộc trước hết cần có thái độ trân trọng những giá trị dân tộc, trên cơ sở đó biết giữ gìn, khai thác, phát huy đưa bản sắc văn hóa dân tộc vào phục vụ sự nghiệp cách mạng. Bản sắc văn hóa dân tộc không phải “nhất thành bất biến” mà có sự bổ sung, phát triển những giá trị mới nảy nở trong thực tiễn mới, cùng với việc khảo lại những giá trị cũ, chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ. Giữ gìn bản sắc dân tộc không có nghĩa khư khư đóng cửa mà phải gắn kết chặt với việc mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thụ có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Mở rộng giao lưu trên cơ sở gĩư gìn bản sắc và giữ gìn bản sắc phải mạnh dạn, có bản lĩnh và biết cách mở rộng giao lưu. Đó là một khía cạnh trong tính biện chứng của văn hóa.
3.Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam được biểu hiện ở mẫu số chung, điểm tương đồng, quy tụ của văn hóa Việt Nam, đó là cùng một nòi giống tổ tiên con Lạc cháu Hồng, với dòng chủ lưu là chủ nghĩa yêu nước và đại nghĩa lớn là khát vọng độc lập tự do. Đó là bản sắc dân tộc như đã trình bày ở trên với bổn phận lớn nhất là đối với Tổ quốc. Nhưng Việt Nam có hơn 50 dân tộc anh em cùng sống trên giải đất Việt Nam có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng. Các giá trị và sắc thái văn hóa đó như văn học, nghệ thuật, tiếng nói, lễ hội, phong tục, tập quán, cách cảm nghĩ của mỗi dân tộc,...bổ sung cho nhau làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em.
4. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết tòan dân tộc, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa. Đội ngũ trí thức với chức năng và vị trí của mình, giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa. Đảng lãnh đạo chủ yếu bằng cương lĩnh, chiến lược phát triển văn hóa với những định hướng lớn thông qua đường lối, nghị quyết của Đảng về văn hóa. Đồng thời, đội ngũ cán bộ, đảng viên là tấm gương sáng về tư tưởng, đạo, đức, lối sống để nhân dân noi theo là cách lãnh đạo thực tiễn trong việc xây dựng và phát triển văn hóa.
5. văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Tư tưởng về mặt trận văn hóa được Hồ Chí Minh nêu từ thập kỷ năm mươi cần được hiểu nó ngang hàng các mặt trận khác; đồng thời khó khăn, phức tạp, lâu dài với ý nghĩa mặt trận. Mặt trận văn hóa là một bộ phận của quá trình cách mạng, không thể tiến hành bằng biện pháp hành chính, nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Đấu tranh trên mặt trận này là sự đan xen vừa ‘xây’ vừa “chống”. Tính chiến đấu ở mặt trận không có tiếng súng này không phải là vào sinh ra tử mà là dám nhìn thẳng vào sự thật, có bản lĩnh phân biệt thiện- ác, đúng- sai, tốt- xấu, thật- giả..., kiên quyết chống lại cái ác, cái sai, cái xấu, cái giả dối. Cùng với cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, chống mọi mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện “diễn biến hoà bình”, thì điều quan trọng nhất là chống giặc nội xâm, cội nguồn của mọi thói hư tật xấu về văn hóa. Tất nhiên , cuộc chiến “chống” không phải vì “chống’ mà hướng tới “xây”. Vì vậy, phải lấy “xây” làm chính và là nhiệm vụ chủ yếu, lâu dài. Cái đích cuối cùng chúng ta cần đạt được là xây dựng một nền văn hóa mới Việt Nam, xây dựng những con người Việt Nam có văn hóa, có nhiều đức tính tốt đẹp.
Đại hội IX của Đảng (4-2001) đặt việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong cùng nội dung phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. So với Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII, vấn đề văn hóa trong Đại hội IX không có gì mới. Hội nghị Trung ương 10 khoá IX (7-2004) có nhiệm vụ đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII, đề ra mục tiêu, các nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp chủ yếu để tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa trong những năm tới. Trên cơ sở Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII, Nghị quyết Trung ương 10 có 2 điểm mới. Một là, khẳng định muốn xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc, nhất thiết phải xây dựng, phát triển văn hóa từ trong Đảng, tức là xây Đảng về văn hóa. Chỉ có như vậy thì Đảng mới giữ vững và nâng cao được vai trò lãnh đạo của mình đối với xã hội nói chung và đối với văn hóa nói riêng. Hai là, trong mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa trong những năm sắp tới, Đảng ta đặt lên hàng đầu đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa- nền tảng tinh thần của xã hội. Đây là mục tiêu chiến lược bao trùm, thể hiện sự quán triệt và cụ thể hoá mục tiêu chung của sự nghiệp đổi mới, là phấn đấu xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”.
3. Vấn đề văn hóa trong đại hôi X
3.1. Tiếp tục phát triển và hoàn thiện các quan điểm, mục tiêu về văn hóa của Đảng tại các Đại hội trước.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng trình bày 12 nội dung trong đó nội dung thứ VII là “Phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội”. Trong phần này, Đảng ta nhấn mạnh “ tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế- xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế”. Báo cáo cũng đề cập tới việc phát triển các lĩnh vực văn hóa cụ thể như bảo tồn các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, các lĩnh vực thông tin đại chúng, văn học, nghệ thuật,v.v..
Cách đặt vấn đề của Đại hội X là có tính đột phá về nhận thức. Nếu Đại hội IX trở về trước đặt vấn đề xây dựng văn hóa cùng mục với việc phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, thì Đại hội X đặt vấn đề phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội thành một mục riêng, “ độc lập” với giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ. Nếu Đại hội IX chỉ đặt vấn đề “ Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, thì Đại hội X khẳng định “Phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội”. Khi nói “ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” là nói tới một khía cạnh để trả lời cho câu hỏi đó là nền văn hóa gì? Còn khi nói “ phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội” là nói tới vị trí, vai trò của văn hóa, nó chi phối, bao trùm toàn bộ các vấn đề của văn hóa. Muốn hiểu văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội thì trước hết phải hiểu đó là một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa không tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thì không thể trở thành nền tảng tinh thần của xã hội được. văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội vì văn hóa có chức năng định hình các giá trị, chuẩn mực trong đời sống xã hội mà vai trò cốt tuỷ là hệ tư tưởng. Điều này cũng thuộc phạm trù văn hóa tiên tiến. văn hóa có trục xuyên suốt là hệ tư tưởng giai cấp. Mà theo C. Mác thì “tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị”. Nền văn hóa chúng ta xây dựng là nền tảng tinh thần của xã hội vì cốt tuỷ của nền văn hóa đó là chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, học thuyết cách mạng, khoa học, nhân văn, hướng vào giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người một cách triệt để, toàn diện theo đúng bản chất “ người” tốt đẹp nhất.
Đại hội X khẳng định lại việc đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa đã được xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 là “ làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi truỵ, độc hại”. Khẳng định lại phương hướng này là cần thiết, bởi vì chỉ có thấm sâu vào tâm lý, vào toàn bộ đời sống con người và xã hội thì cái đẹp, cái giá trị tức là văn hóa mới trở nên bền vững, thật sự là nền tảng tinh thần của xã hội.
3.2. Những điểm mới về văn hóa trong Đại hội X.
Một là, nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân.
Luận đề này bước đầu đã có đề cập ở Đại hôi IX, nhưng vẫn được coi là một điểm mới trong Đại hội X vì có sự phân tích kỹ hơn. Tuy nhiên, về cơ bản, đây là sự trở lại đích thực với tư tưởng Hồ Chí Minh khi Người khẳng định “ văn hóa không thể đứng ngoài mà phải đứng trong kinh tế và chính trị”. Vấn đề cần nhận thức ở đây là hoạt động kinh tế không phải vì kinh tế mà vì mục tiêu văn hóa. Hoạt động chính trị phải thấm nhuần tinh thần văn hóa và nhân văn. Đó là “ chính trị đời thường”, “chính trị giữa dân gian”, “ chính trị liêm khiết” như cách nói của Bác Hồ. Hoạt động xã hội và sinh hoạt của nhân dân cũng như vậy, tức là phải có hướng đích tới giá trị và cái đẹp. văn hóa có trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, sinh hoạt của cộng đồng... cũng có nghĩa văn hóa là động lực của các hoạt động đó, tác động vào kinh tế, chính trị, xã hội, làm cho kinh tế, chính trị, xã hội phát triển, đồng thời văn hóa cũng là mục tiêu hướng tới của các hoạt động đó.
Trong mấy năm trở lại đây, cùng với việc mở rộng phạm trù văn hóa, chúng ta bắt đầu nói tới văn hóa chính trị. Tuy nhiên, đây vẫn là vấn đề mới trong giới nghiên cứu Việt Nam. Có người hiểu văn hóa chính trị là văn hóa phục vụ chính trị; văn hóa ở trong chính trị; chính trị có văn hóa; nhận thức đúng nguồn gốc, mục đích sử dụng, phương thức, phương pháp thực thi quyền lực là văn hóa chính trị( vì then chốt của chính trị là quyền lực); văn hóa có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại với chính trị, nền tảng cho mục tiêu chính trị. văn hóa chính trị là tập hợp các lập trường và các xu hướng cá nhân của những người tham gia trong một hệ thống nào đó, là lĩnh vực chủ quan làm cơ sở cho hành động chính trị và làm cho hành động chính trị có ý nghĩa; v.v.. Tôi hiểu văn hóa chính trị không phải là chính trị mà là chính trị có văn hóa, tức là chính trị thấm sâu vào tâm lý quốc dân, vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng như một sức mạnh văn hóa, sức mạnh hợp chất lý và tình, thuyết phục bằng cảm hoá. Điều này được thể hiện ở sự thống nhất giữa tư duy và hành động, lời nói và việc làm, được kiểm nghiệm bằng thực tiễn . Theo cách hiểu này và trở lại với văn kiện Đại hội X khi Đảng ta khẳng định “ nâng cao tính văn hóa trong chính trị”, thì tôi hiểu đây là bàn về văn hóa chính trị. Như vậy, rõ ràng đây là một điểm rất mới về văn hóa trong Đại hội X. Nói tới văn hóa chính trị, trước hết phải nói tới hệ thống các giá trị của mọi hoạt động chính trị một cách toàn diện và sâu sắc mang tính khoa học, cách mạng và nhân văn, dựa trên lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, phấn đấu vì một xã hội nhân đạo, dân chủ, công bằng, văn minh, đạt được mục đích cuối cùng, cao nhất là giải phóng con người, giải phóng nhân loại toàn diện, triệt để.văn hóa chính trị là sự thấm nhuần thế giới quan khoa học duy vật biện chứng, bảo đẩm tính khách quan, trung thực, quan diểm thực tiễn, phát triển và lịch sử- cụ thể, có trí tuệ và bản lĩnh trong “xây” và “chống” với một tính nguyên tắc cao, kết hợp với tinh thần cởi mở, năng động, sáng tạo, biết trân trọng và tiếp biến những di sản tinh thần của thời đại trên cơ sở đậm đà cốt cách văn hóa dân tộc để không ngừng nâng cao hiệu quả của hoạt động chính trị. Xét dưới góc độ tổ chức, văn hóa chính trị là một tấm gương phản chiếu của hệ thống chính trị hoặc cá nhân các nhà chính trị và những cán bộ công chức trong hệ thống chính trị. Cùng với tính dân tộc và tính nhân loại là những yếu tố trường cửu của văn hóa, thì văn hóa chính trị macxit còn đậm đà tính giai cấp ( công nhân). Với hệ tư tưởng cốt tuỷ là chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hóa chính trị Việt Nam có chức năng định hướng giá trị xã hội chủ nghĩa và chức năng giáo dục, điều chỉnh tư tưởng và hành vi con người theo hướng nhân văn. Thế giới quan Mác- Lênin, Hồ Chí Minh chi phối văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại, tạo ra tinh thần nhân văn, chủ nghĩa nhân đạo hiện thực của nền văn hóa chính trị Việt Nam ( Xem thêm: Bùi Đình Phong: văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, tạp chí văn hóa Nghệ An, số 67, tháng 12-2005).
Hai là, bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa- nền tảng tinh thần của xã hội.
Điểm mới này, như đã nói, đã được kết luận trong Hội nghị lần thứ X Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, tạo ra cái “ kiềng ba chân” của sự phát triển. Đây chính là những yếu tố để tạo được sự phát triển đồng bộ, điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước. Trước đây, Đảng ta đã xác định xây dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt như hai chân của sự phát triển. Nhưng trong tình hình mới, với sự chuyển động của xu thế toàn cầu cho thấy văn hóa phải có mặt trong các nhiệm vụ đó. Xây dựng kinh tế là trung tâm, nhưng kinh tế phải gắn với văn hóa, dựa trên động lực văn hóa và vì mục tiêu văn hóa. ở đây, nhiệm vụ trọng yếu nhất là xây dựng con người Việt Nam với những đức tính tốt đẹp về lòng yêu nước, bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, trí tuệ, thì mới thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhưng không chỉ xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, mà nhất thiết phải xây dựng, phát triển văn hóa từ trong Đảng, xây dựng Đảng về văn hóa.
Mỗi một một lĩnh vực như kinh tế, Đảng, văn hóa có một vai trò cụ thể, nhưng để tạo ra sự phát triển bền vững của đất nước thì ba lĩnh vực đó phải gắn kết chặt chẽ với nhau, trong đó văn hóa vừa là nền tảng tinh thần của cả xã hội, soi đường cho quốc dân đi vừa là hạt nhân, yếu tố thẩm thấu bên trong của kinh tế và bộ máy Đảng. Không có văn hóa trong kinh tế, trong Đảng và không gắn việc nâng cao văn hóa với phát triển kinh tế và xây dựng Đảng thì không thể nói tới phát triển bền vững.
Ba là, đặc biệt coi trọng nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong kinh doanh và văn hóa trong nhân cách của thanh niên, thiếu niên.
Gắn với luận điểm này, trong phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ tới, Đảng ta nêu trong Văn kiện Đại hội X vấn đề “ nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng”.
Trong điểm mới thứ ba này, tôi đặc biệt quan tâm tới khía cạnh “ nâng cao văn hóa lãnh đạo và quản lý”. Nếu gắn với luận điểm “ nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng”, thì ở đây chúng ta hiểu có văn hóa lãnh đạo, quản lý và văn hóa cầm quyền. Điều này liên quan tới Đảng, Nhà nước và cán bộ, đảng viên. văn hóa quản lý nghiêng về phía Nhà nước. văn hóa lãnh đạo, cầm quyền nghiêng về phía Đảng, nhưng với hai mức độ và phạm vi khác nhau. Có thể hiểu lãnh đạo và cầm quyền tuy hai mà một, tuy một mà hai. Theo tôi, trong tình hình hiện nay, nói văn hóa cầm quyền vừa bao quát được văn hóa lãnh đạo vừa chứa đựng được nội dung nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, vừa đáp ứng được đòi hỏi của thời cuộc. Nói văn hóa lãnh đạo và quản lý còn liên quan tới trách nhiệm của cá nhân người lãnh đạo, quản lý.
Vậy thế nào là văn hóa lãnh đạo và quản lý? Đây là lĩnh vực mới nên có thể còn có những cách hiểu khác nhau. Từ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và qua cách trình bày của Đảng trong các văn kiện gần đây về văn hóa, tôi hiểu văn hóa lãnh đạo, quản lý thuộc phạm trù văn hóa chính trị, được nhận thức trong điều kiện Đảng cầm quyền. văn hóa lãnh đạo - quản lý là một hệ thống quan điểm về những giá trị trong lãnh đạo - quản lý, thể hiện trí tuệ, bản lĩnh, trình độ “người” và mức độ được “ vun trồng” của Đảng cầm quyền, Nhà nước pháp quyền và người lãnh đạo - quản lý.
Trước hết nói về văn hóa lãnh đạo của Đảng. Đảng cầm quyền là bước chuyển biến cách mạng, bước nhảy vọt về chất của Đảng trong toàn bộ hoạt động của mình kể từ lúc Đảng ra đời. Đảng vừa có nghĩa vụ cầm quyền, vừa có điều kiện thi thố năng lực cầm quyền, mà theo cách nói của Lênin là từ đây “lý luận biến thành thực tiễn”. Nghĩa vụ và năng lực cầm quyền đó được thể hiện ở trách nhiệm lãnh đạo toàn xã hội, xây dựng chế độ mới (chứ không phải như đập tan chế độ cũ trước đây). Cái “thực tiễn” mà Lênin nói tới ở đây là chất lượng văn hóa của việc cầm quyền và lãnh đạo. Không phải ngẫu nhiên mà Lênin đã nói và Hồ Chí Minh nhấn mạnh lại việc “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Rõ ràng cái khó là Đảng cầm quyền phải thực hiện được nghĩa vụ “kép” “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Cái khó còn ở chỗ - như Hồ Chí Minh đã chỉ ra - do nhiều thói hư tật xấu nảy sinh còn nguy hiểm hơn kẻ thù bên ngoài, như quan liêu mệnh lệnh, tham nhũng, tha hoá, địa phương chủ nghĩa, v.v.. tạo thành nguy cơ một khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Thực chất đó là những tư tưởng và hành vi phi văn hóa, phản văn hóa, dưới văn hóa.
văn hóa có sứ mệnh, sức mạnh, tầm quan trọng to lớn và ý nghĩa cách mạng sâu xa đối với vận mệnh của dân tộc. văn hóa lãnh đạo - quản lý trong bộ máy cầm quyền lại càng quan trọng vì nó tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc. Đảng là đội tiên phong của giai cấp và dân tộc. Trí tuệ, bản lĩnh và phẩm chất của Đảng cầm quyền bao giờ cũng là một tấm gương phản chiếu đối với dân tộc mình và các dân tộc khác. Gương sáng thì dân tin, dân phục, dân yêu. Gương mờ thì lòng dân ly tán.
Vấn đề văn hóa lãnh đạo - quản lý đã được Hồ Chí Minh suy nghĩ hàng chục năm trước khi có chính quyền. Từ năm 1939 Người đã chỉ ra rằng “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”. Năm 1943, khi bàn đến xây dựng văn hóa mới, Người nói đến việc xây dựng một “nền chính trị dân quyền”. Đặc biệt từ khi chính quyền thuộc về nhân dân, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh trăn trở với sự cầm quyền của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước. Xử lý mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với dân và phát huy quyền làm chủ của dân là những lĩnh vực chủ yếu của văn hóa lãnh đạo - quản lý trong bộ máy cầm quyền. Về mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ “ phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Đây chính là cách lãnh đạo, quản lý bằng thuyết phục, cảm hoá, là “chính trị đời sống” từ đó sẽ tạo ra quyền uy của Đảng, thay vì áp đặt quyền lực.
Đảng cầm quyền thì phải xác định vai trò lãnh đạo của Đảng chứ không phải là một Đảng cai trị. Nhưng dù là Đảng lãnh đạo thì người dân vẫn là những người bị lãnh đạo như cách nói của Bác Hồ. Giải quyết mâu thuẫn này chính là ứng xử văn hóa của Đảng cầm quyền. Cách tốt nhất là nâng cao trình độ, phẩm chất và ý thức phục vụ nhân dân ngang tầm quyền lực của Đảng. Đó thực chất vừa là nâng cao năng lực lãnh đạo vừa nâng cao năng lực đầy tớ của Đảng.
văn hóa lãnh đạo của Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền nằm ở trí tuệ, bản lĩnh, phẩm chất của Đảng. Bởi vì Đảng lãnh đạo quần chúng đấu tranh giữ chính quyền, xây dựng xã hội mới phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. ở đây không có đất cho sự dốt nát và suy thoái, sự nhũng lạm và xa dân... Ngược lại, Đảng cầm quyền đòi hỏi sự gắn bó mật thiết giữa văn hóa với chính trị, văn hóa đứng trong chính trị. Không có một sự thấu hiểu dân, nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý; thực hiện dân quyền, dân chủ, dân sinh, nâng cao dân trí với ý nghĩa là hạt nhân của văn hóa Đảng cầm quyền thì không bao giờ được dân tin, dân phục, dân yêu.
Về văn hóa lãnh đạo- quản lý dưới góc độ Nhà nước. Hồ Chí Minh từng khẳng định “nước ta là nước dân chủ”, dân là chủ và dân làm chủ. Dân chủ là “làm cho người dân được quyền mở miệng ra”. Một nét quản lý đậm chất văn hóa phải là “Chính phủ là công bộc của dân”. Chính sách của Chính phủ phải hợp với nguyện vọng và quyền lợi của dân chúng. Đối với dân, Chính phủ phải xây dựng một nền chính trị liêm khiết. Thành quả lớn nhất sau khi giành được độc lập, chính quyền thuộc về nhân dân, đó là dân chủ trở thành một nguồn lực lớn, một giá trị văn hóa, vừa là động lực vừa là mục tiêu của cách mạng. Dân chủ đối lập với quan liêu. Tăng cường dân chủ là phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Chủ nghĩa quan liêu là phản văn hóa, là kẻ thù hủy diệt chúng ta.
Phải quan tâm xây dựng nhà nước pháp quyền, một nấc thang thể hiện trình độ văn minh của nhân loại. Một nét đẹp của văn hóa quản lý là quản lý xã hội bằng pháp luật và duy trì một xã hội dân sự. Cả hai vấn đề này đã được Hồ Chí Minh bàn tới ở những mức độ đậm nhạt khác nhau. Theo một số nhà nghiên cứu có tên tuổi, Hồ Chí Minh đã chọn một Nhà nước có phạm vi hoạt động rất rộng, kết hợp nhuần nhuyễn giữa Nhà nước (chính quyền - Nhà nước chính trị) với xã hội dân sự và cá nhân con người. Và nhà nước của Hồ Chí Minh không “ nuốt” mất xã hội dân sự và cá nhân con người. Trong vấn đề nhà nước, Hồ Chí Minh đã cực kỳ coi trọng cá nhân để cực kỳ coi trọng cộng đồng. Hồ Chí Minh đã phát huy được truyền thống cộng đồng là đặc điểm của Việt Nam và châu á, đồng thời đã vận dụng được thành quả về cá nhân của phương Tây.
Việc Hồ Chí Minh đề cao nhà nước pháp quyền, kết hợp dân chủ đại diện (mô hình bầu cử đại diện của phương Tây có lựa chọn) và dân chủ trực tiếp với sự góp mặt của xã hội dân sự (bước đầu), không giày xéo lên lợi ích cá nhân là một tầm nhìn xa về văn hóa quản lý phù hợp với thế giới ngày nay, thế giới toàn cầu hoá.
văn hóa lãnh đạo - quản lý của cá nhân cán bộ, đảng viên cũng phải đặt trong điều kiện Đảng cầm quyền. Theo Hồ Chí Minh, đã là cán bộ thì dù ít dù nhiều đều có quyền hành. Cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Có quyền mà thiếu lương tâm thì có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút. Trong tình hình đó, theo cách phân tích của Hồ Chí Minh, đã có quyền hành thì người cán bộ lãnh đạo - quản lý phải biết tập trung xử lý quyền lực một cách có văn hóa.
Thông thường có hai cách lãnh đạo: 1- Lãnh đạo có văn hóa là không dùng quyền lực, mà dùng thuyết phục, cảm hoá bằng trí tuệ và cái tâm, cái đức. Không dùng quyền lực mà có quyền uy. 2- Lãnh đạo phi văn hóa là dựa vào quyền lực. Trường hợp này rơi vào những người không có bản lĩnh, thiếu tâm, dưới tầm. Bác Hồ đã dạy rằng “không phải cứ viết lên trán chữ “cộng sản” là được quần chúng yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức”.
Có hai mặt của quyền lực: 1- Quyền lực tạo nên sức mạnh để giữ thành quả cách mạng, xây dựng chế độ mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Đó là mặt tích cực, mặt “văn hóa” của quyền lực- cả quyền lực của Đảng, Nhà nước và từng cán bộ, đảng viên. 2- Quyền lực làm tha hoá người nắm quyền, dẫn tới cậy quyền, lợi dụng quyền lực, lạm dụng quyền lực, say mê quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực, tham quyền cố vị. Đó là mặt tiêu cực, mặt phản văn hóa, phi văn hóa của quyền lực.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, tệ quan liêu, mệnh lệnh là kẻ thù của văn hóa. Quan liêu là xa rời quần chúng, không sát thực tế, nặng về mệnh lệnh, giấy tờ, thái độ hách dịch, khệnh khạng. Bác Hồ nói đó là những cán bộ “vác mặt làm quan cách mạng”; “miệng thì nói dân chủ nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Quan liêu đẻ ra tham ô, lãng phí. Lãnh đạo quan liêu là lãnh đạo vô văn hóa. Lãnh đạo có văn hóa là phải tẩy sạch bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Muốn vậy, theo Hồ Chí Minh, phải thực hiện đúng nguyên tắc “ Theo đúng đường lối nhân dân” và phải làm tốt 6 điều: Đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ. Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình. Sẵn sàng học hỏi nhân dân. Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính để nhân dân noi theo.
văn hóa lãnh đạo - quản lý thể hiện rõ sự ứng xử văn hóa trong các mối quan hệ với người, với việc, với mình; ứng xử có lý có tình, hài hoà nhuần nhị, không nịnh hót cấp trên, không coi thường và dùng mệnh lệnh với cấp dưới, không trù dập người có tài. Phải biết điều tra, nghiên cứu, đôn đốc, giúp đỡ, khuyến khích kiểm tra, làm đến nơi đến chốn, nói đi đôi với làm, công khai, minh bạch. Nói ngắn gọn theo tư tưởng của người xưa, được Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Phải chính tâm, tu thân, tề gia.( Xem thêm: Bùi Đình Phong: văn hóa lãnh đạo- quản lý trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận của Ban Tư tưởng- văn hóa trung ương, số 8-2006)
3.3. Những vấn đề đặt ra nhằm nâng cao văn hóa lãnh đạo, quản lý trong bối cảnh mới.
Từ tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa lãnh đạo - quản lý, ta phải làm gì trong tình hình hiện nay? Đâu là giải pháp cho văn hóa lãnh đạo - quản lý của Đảng, Nhà nước và từng cán bộ, đảng viên?
Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên cần một trình độ tư duy biện chứng duy vật ở mức độ toàn cầu và luôn được đổi mới. Điều này hoàn toàn xa lạ với tư duy chủ quan duy ý chí, kiểu tư duy dễ xảy ra khi Đảng độc quyền lãnh đạo. Năng lực vận dụng phép biện chứng hàng đầu là kiên định và nhận thức đúng về định hướng xã hội chủ nghĩa. Xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, một nấc thang xã hội cần đạt tới, đồng thời là một mô thức tổ chức xã hội, trong đó chứa đựng những giải pháp khoa học, một phương thức tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước với tầm văn hóa chính trị để đạt được kết quả.
Nhìn nhận theo hướng đó, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng và kim chỉ nam, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, cần tiếp tục phát huy cao độ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong khi tăng cường sức mạnh của nhà nước pháp quyền và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội dân sự.
Năng lực văn hóa cầm quyền của Đảng không thể tách rời “văn hóa dùng người” mà sinh thời Bác Hồ đã dạy “dụng nhân như dụng mộc”. Những suy thoái và tê liệt của một số cơ sở Đảng, những tiêu cực trong hệ thống chính trị hiện nay, xét đến cùng là vấn đề cán bộ - công việc gốc của Đảng. Một khi việc cất nhắc, đề bạt cán bộ bị đồng tiền và chủ nghĩa cá nhân chi phối, thiếu lý trí và bản lĩnh, không có cái tâm, cái đức trong sáng để chọn những người thật sự có đức, có tài giữ trọng trách lãnh đạo, thì đó là cách làm phản văn hóa.
Theo tinh thần Hồ Chí Minh, nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, giờ đây, văn hóa lãnh đạo- quản lý là phải chống thái độ vô cảm trước đời sống của quần chúng nhân dân. Nước ta còn nghèo, dân ta chưa thật sự có đời sống vật chất đầy đủ. Vì vậy, văn hóa lãnh đạo-quản lý không thể sống chung với xa xỉ, hoang phí, lãng phí, tham nhũng.
Một vấn đề có tính thời sự, nhưng thực chất đã có trong di sản Hồ Chí Minh, đó là vấn đề “ uỷ thác quyền lực”. Quyền lực thuộc về nhân dân và nhân dân uỷ thác quyền lực đó cho Đảng, Nhà nước, cán bộ, đảng viên. Những người nắm quyền, thay mặt dân lãnh đạo, quản lý đất nước mà không còn sự tín nhiệm của nhân dân nữa thì nên từ chức và phải xin lỗi trước nhân dân. Khi trả lời các nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh “ bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui thì tôi rất vui lòng lui”. Vậy nên giờ đây, bàn tới văn hóa lãnh đạo-quản lý thì phải biết đến “ văn hóa từ chức” và cần có những quy định cụ thể về vấn đề này.
Không mạnh dạn đổi mới thật sự, luyến tiếc với cái cũ trong tư duy, trong thực hành dân chủ, trong xây dựng nhà nước pháp quyền, trong công tác cán bộ chính là kẻ thù của văn hóa lãnh đạo - quản lý, cần phải được thanh toán để chúng ta có thể sánh vai cùng các nước trên thế giới trong nhịp bước khẩn trương của thời đại như mong muốn của Bác Hồ kính yêu, của Đảng và dân tộc ta./.