Văn hoá là kết tinh cái đẹp, cái giá trị của con người, của một cộng đồng, của đời sống một dân tộc, một xã hội. văn hóa nói chung là trình độ “Người”, là “chất người” thước đo mức độ nhân bản của con người trong những quan hệ xã hội. Và nếu văn hóa là hiểu biết thì hiểu biết làm người, hiểu biết xử sự, xử thế đối với bản thân, gia đình, xã hội và thiên nhiên là biểu hiện đẹp đẽ nhất của văn hóa. Nhận thức như vậy để thấy rằng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức là tu dưỡng, rèn luyện văn hóa ở đỉnh cao, và sự xuống cấp, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức- hẳng hạn như bệnh quan liêu, cơ hội, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân...- là phản văn hóa. Vì vậy, cùng với giải pháp kinh tế- vì đạo đức là sản phẩm của kinh tế, phản ánh nền kinh tế- để tu dưỡng, rèn luyện phong cách, đạo đức và chống lại tư tưởng và hành vi phi đạo đức, thì giải pháp văn hóa là cực kỳ quan trọng. Bởi vì, xét đến cùng, hoạt động và phát triển kinh tế là dựa trên động lực văn hóa và vì mục tiêu văn hóa. Thiếu những con người có đạo đức và văn hóa thì không những không có kinh tế tăng trưởng mà còn chứa đựng hiểm hoạ cho cả nền kinh tế. Mặt khác, nguy cơ luôn tiềm ẩn khi kinh tế tăng trưởng, nếu thiếu những giải pháp văn hóa.
Đạo đức, văn hóa và nhân văn gắn liền với nhau. Theo Phạm Văn Đồng, “đạo đức đòi hỏi văn hóa và văn hóa lên đến đỉnh cao là đạo đức”. Còn Võ Nguyên Giáp thì cho rằng, “tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Tư tưởng nhân văn, tư tưởng đạo đức là nền tảng tinh thần của nền văn hóa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn xây dựng. Và tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gắn bó thống nhất của những quan điểm tư tưởng chính trị với tư tưởng nhân văn, tư tưởng đạo đức, tư tưởng văn hóa”.
Phong cách chính là con người, được hiểu theo nghĩa rộng là lề lối, cung cách, cách thức, phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành nền nếp ổn định của một người hoặc của một lớp người, được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động như lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt…tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ thể đó. Phong cách của người cách mạng, người cán bộ đảng viên có quan hệ mật thiết với tư tưởng, đường lối và phương pháp cách mạng, phương pháp công tác, trong đó, tư tưởng, đường lối có tính chất quyết định nhất, còn phương pháp là những cách thức để đưa đường lối vào cuộc sống. Và đường lối, phương pháp chỉ được thực hiện thông qua hoạt động cụ thể của những con người cụ thể với những phong cách khác nhau.
Phong cách liên quan chặt chẽ với đạo đức. Chẳng hạn, đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức phục vụ nhân dân, tinh thần trách nhiệm đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên cần có, nhưng được thể hiện rất khác nhau qua phong cách khác nhau. Như vậy, việc xây dựng phong cách mới, mang tính cách mạng và khoa học vừa phải kết hợp giáo dục văn hóa với việc tự giáo dục, tự tu dưỡng. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Aristotle đã từng nói rằng “người được giáo dục khác với người không được giáo dục tương tự như sự khác biệt giữa người sống và người chết”. Còn nhà văn R.Tagore thì viết rằng “một ngày mà quên giáo hóa, ta lùi về gần thú tính ngay.”
Sau kết thúc thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, đất nước đi vào con đường đổi mới vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nhờ nhiều biện pháp đồng bộ, khá quyết liệt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, có ý nghĩa lịch sử. Nhưng xã hội và cả hệ thống chính trị còn những khuyết điểm và yếu kém. Nguyên nhân sâu xa của tình hình là vì chúng ta chưa bắt đúng mạch của những căn bệnh trầm kha, chưa tìm được gốc rễ của vấn đề. Chẳng hạn, những vụ tham nhũng lớn vừa qua, nhiều khi chúng ta chỉ nhìn nhận nó dưới góc cạnh kinh tế, vật chất mà chưa nhìn nhận từ phương diện văn hóa, tinh thần. Trong khi đó, xét đến cùng thì kinh tế chỉ là cái ngọn của tham nhũng, là cái đích cuối cùng của tham nhũng. Để đạt được mục đích kinh tế thì phải có quyền lực. Đảng ta nói tới hiện tượng chạy chức, chạy quyền, thực chất là mua chức, mua quyền. Vì vậy gốc rễ của tham nhũng là tham nhũng quyền lực. Hồ Chí Minh từng giải nghĩa chữ “liêm” là không tham địa vị, không tham tiền tài, vì có địa vị, quyền hành thì mới có điều kiện tham nhũng vật chất, tiền bạc. Người cũng đã dùng tới khái niệm “nhũng lạm”, tức là lạm dụng quyền lực để tham nhũng. Hồ Chí Minh viết: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần kiệm liêm chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân” 28. “Cán bộ các cơ quan, đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút” 29.
28 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.104.
29 Hồ Chí Minh: Sđd, t.5, tr.641.
Có lúc ta coi ngọn là gốc như khi chỉ ra nguyên nhân chủ quan của khuyết điểm, yếu kém là do một bộ phận cán bộ, đảng viên yếu kém về phẩm chất và năng lực. Thực chất của một số cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất, năng lực là do thiếu nền tảng đạo đức,văn hóa. Đây là cái gốc. Hồ Chí Minh chỉ rõ: đạo đức là gốc của người cách mạng. Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không. Người còn nhấn mạnh đạo đức là thước đo trình độ “người” của một con người; thiếu một đức(trong bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính) thì không thành người. Những tìm tòi và suy ngẫm về nguyên nhân của tình trạng suy thoái đạo đức cho thấy chúng ta đang thiếu một tư duy về giải pháp văn hóa và hạn chế trong sự chỉ đạo tổ chức thực hiện. Vì vậy, cần những giải pháp về văn hóa để nâng cao đạo đức cách mạng , quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Có nhiều lĩnh vực văn hóa đã và đang được nghiên cứu với ý nghĩa là nền tảng tinh thần của xã hội. Đó là văn hóa chính trị; văn hóa lãnh đạo và quản lý; văn hóa đạo đức và lối sống; văn hóa pháp luật; văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân; xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước; v.v.. Chắt lọc từ các loại hình văn hóa đó, bước đầu chúng tôi thử đưa ra một số giải pháp giáo dục văn hóa nhằm rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Giải pháp này như thang thuốc có tác dung đối với mọi người, nhưng trước hết cần chữa cho cán bộ, đảng viên, vì đã là cán bộ, đảng viên ít nhiều đều có quyền hành; họ tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc, là tấm gương của hệ thống chính trị. Theo tinh thần cốt lõi một bài báo của nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng đăng trên báo Tuổi trẻ Xuân Đinh Hợi thì thách thức phức tạp nhất trên đường phát triển, tai họa đi từ sự tha hóa của bộ phận nòng cốt, tiền phong của dân tộc. Xét đến cùng, những tổ chức chống tham nhũng được thiết lập tuy có nhắm vào toàn bộ cơ chế, song chủ yếu vẫn nhắm vào số đảng viên cầm quyền. Đâu có vụ án kinh tế nghiêm trọng nào không dính dáng đến con người đảng viên, thậm chí có trường hợp dính dáng đến cả tổ chức của Đảng. Trong trường hợp này, chỉnh đốn Đảng đã gần như đồng nghĩa với chỉnh đốn xã hội. Như vậy , mục tiêu chỉnh đốn đã rõ, dễ cũng ở đây mà khó cũng ở đây. Dễ vì phát hiện nhanh chóng, thậm chí chính xác. Khó vì sự che chắn của quyền lực, thậm chí liên minh giữa quyền lực tự bảo vệ sai trái, có khi tác động đến cả cơ quan tư pháp. Trên ý nghĩa đó, làm thế nào để tuyển chọn trong 3 triệu đảng viên cộng sản một nửa số tích cực, trong sáng thì cục diện chung sẽ chuyển biến theo hướng xây dựng lành mạnh. Và đó là tiền đề để thực hiện những nhiệm vụ chiến lược mà đại hội X đề ra (xem: Trần Bạch Đằng: Thách thức phức tạp nhất trên đường phát triển, Báo Tuổi trẻ, Xuân Đinh Hợi, 2007), trước hết là thực hiện Chỉ thị 06 của Bộ Chính trị về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Giáo dục làm người là một giải pháp quan trọng và cần thiết. Hơn sáu mươi năm đã trôi qua kể từ khi nền giáo dục cách mạng Việt Nam ra đời từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945. Nền giáo dục đó là động lực cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nhưng giờ đây, trong kỷ nguyên toàn cầu hoá, chúng ta phải nghiêm túc xem lại mục đích của giáo dục. Khi nhân loại(UNESCO) đã kịp thời điều chỉnh, đặt lên hàng đầu mục đích của sự học là “học để học cách học”, và thứ hai là “học để làm”, thì chúng ta vẫn loay hoay ở thành tích, ở mục đích thi cử, dẫn tới tập trung chống bệnh thành tích và“ nói không với tiêu cực trong thi cử”. Không đặt thành tích và thi cử lên hàng đầu thì cũng không cần chống bệnh thành tích và chống tiêu cực trong thi cử. Gần đây, phát biểu nhân mùa khai trường ở Singapore, Thủ tướng Lý Hiển Long đã có một tầm nhìn về giáo dục khi phê phán “ kiểu thi cử hiện nay đã sản sinh ra nhiều thế hệ học sinh không có cảm xúc hay niềm đam mê nào, ngoài thi cử. Ông cho rằng thứ hạng là quan trọng, nhưng thứ hạng không phải là điều duy nhất trong cuộc sống. Sự hữu hiệu của hệ thống giáo dục phải được đo bằng khả năng trang bị cho người học những năng lực đối phó một cách thành công với một thế giới không ngừng thay đổi và đầy xung động”(Tuổi trẻ online, 9- 11- 2006). Chúng ta đã có nhiều cố gắng, nhưng có điều quan trọng nhất thì hầu như chúng ta chưa làm được, đó là quán triệt sâu sắc và làm theo quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh: học để làm việc, làm người. Học để làm người là khó nhất và cũng cần thiết nhất. Bao giờ người đi học được học để làm người, học để làm việc, sáng tạo, chứ không phải chỉ học để thi cử, bằng cấp thì đây chính là một thang thuốc để vừa nâng cao đạo đức, vừa chống suy thoái về đạo đức.
Gắn với giáo dục làm người và trong giáo dục làm người thì nội dung giáo dục đạo đức, lịch sử, văn hóa là quan trọng nhất. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo: “Coi chừng, có nhiều người Việt Nam lại không hiểu rõ lịch sử, đất nước, con người và những cái vốn rất quý báu của mình bằng những người nước ngoài” 30. Người phê bình nội dung giáo dục đạo đức chỉ viết sơ sài có mấy dòng trong sách giáo khoa. Trong giáo dục đạo đức- dù đạo đức công dân hay đạo đức cán bộ, đảng viên- rất cần thiết giáo dục tính liêm, sỉ và “văn hóa từ chức” cho con người, cho cán bộ, đảng viên. Một khi con người không còn tính liêm, sỉ; không còn “dây thần kinh xấu hổ” thì- như Khổng tử đã dạy, và Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Người mà không Liêm, không bằng súc vật” 31 . Một con người, trước hết là cán bộ, công chức, khi đã không còn tính liêm, sỉ, điều đó đồng nghĩa với sự vô cảm trước đông đảo quần chúng nhân dân, thì họ sẵn sàng làm những hành vi phi đạo đức. Họ sẽ không bao giờ có bản lĩnh để thực hiện “văn hóa từ chức”.
30 Hồ Chí Minh: Sđd, t.12, tr.556-557.
31 Hồ Chí Minh: Sđd, t. 5, tr.641.
Gắn chặt với giáo dục làm người là giáo dục tư duy về nhà nước pháp quyền. Ở một số nước phát triển, người dân- chớ chưa nói tới cán bộ- rất quan tâm học(ở trường hoặc tự học) môn học “nhà nước và pháp luật” để không phải có bằng cấp và hành nghề luật sư, mà cốt để tuân thủ đúng pháp luật và không để cho những quan chức lợi dụng chức quyền chà đạp lên pháp luật, làm trái pháp luật.. Nghiên cứu, học tập, chắt lọc kinh nghiệm các nước, gắn với thực tiễn Việt Nam, đặt trong bối cảnh thế giới hiện nay, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần phải xây dựng, từng bước hoàn thiện và triển khai thực hiện văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật, văn hóa lãnh đạo- quản lý. Nói tới văn hóa pháp luật là liên quan tới “pháp trị” và “ đức trị”, dân chủ, sự minh bạch trong bộ máy và vấn đề cán bộ công chức. Xây dựng nhà nước pháp quyền thì trước hết phải làm cho mọi người hiểu vai trò tối thượng của pháp luật, trong đó có một một điểm quan trọng là mọi người đều phải chấp hành nghiêm chỉnh và bình đẳng trước pháp luật. Phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ, đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh:“Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa nào, làm nghề nghiệp gì”32.
32 Hồ Chí Minh, Sđd, t. 5, tr.641.
Pháp luật, đặc biệt là sự nghiêm minh về pháp luật, bao giờ cũng là một biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức nào đó và biến nó thành thói quen. Chuẩn mực đạo đức càng khó bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Chẳng hạn, hiện nay mọi người đều nhận thức được rằng tham nhũng là một hiện tượng phổ biến, nước nào cũng có, xuất hiện cùng một lúc với bộ máy nhà nước. Có nhà nước và còn nhà nước là còn tham nhũng. Nhưng tại sao các nước giàu ở châu Âu lại có điểm Chỉ số nhận thức tham nhũng(CPI) cao nhất, tức trong sạch nhất, trong lúc đó nước ta trong số 75 nước trên tổng số 159 nước vẫn nằm trong tình trạng tham nhũng nặng nề (dưới 3 điểm)? Bởi vì các nước có cơ chế quản lý tốt, thị trường khá minh bạch, phát huy tốt sức mạnh của báo chí, của phản biện xã hội… Còn ta, đang tồn tại những yếu kém trong cơ chế quản lý. Vì vậy, cần có cơ chế hình thành luật pháp và các quy chế; cơ chế giám sát thực thi luật pháp và cơ chế; cơ chế giáo dục làm người; cơ chế đánh giá, lựa chon, cất nhắc cán bộ; cơ chế khen thưởng và xử phạt; cơ chế dân chủ; cơ chế trách nhiệm của người đứng đầu; cơ chế từ chức( văn hóa từ chức); cơ chế tạo minh bạch trong bộ máy; cơ chế kiểm soát chặt tài sản và lối sống của các quan chức. Rõ ràng là chống tham nhũng chỉ bằng kêu gọi đạo đức không thôi thì không bao giờ giải quyết được vấn đề, mà phải dùng sức mạnh của “pháp trị”. Nhưng cũng rất rõ ràng là phải đặc biệt chú trọng vai trò của vấn đề giáo dục đạo đức. Bởi vì luật pháp và nói rộng ra là mọi việc đều do người làm ra. Một khi con người đã không còn liêm, sỉ; không đặt việc phục vụ nhân dân lên trên hết thì không có một luật pháp nào có thể thi hành được. Lấy một ví dụ: cùng một quyền lực, trao vào tay người có trí, có đức thì quyền lực đó sẽ trở thành sức mạnh để phát triển đất nước; ngược lại trao vào tay kẻ không có trí, có đức thì người cầm quyền sẽ bị tha hóa, và người cầm quyền càng cao thì càng nguy cơ cho vận nước. Thuyết “nhân trị’ của Khổng Tử lấy đạo nhân làm gốc, lấy lễ nhạc, hiếu đễ làm nội dung cơ bản cho sự giáo hoá là có tính hợp tình, hợp lý. Hồ Chí Minh coi đạo đức và giáo dục đạo đức là gốc, là nền tảng, gắn chặt với không ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật là một nét đằc sắc, mang sắc thái Hồ Chí Minh. Trong sự giáo hoá thì giáo dục đạo làm gương là quan trọng nhất. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, “ đối với người phương Đông, một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Không thể xem nhẹ việc giáo dục những tấm gương của các ông vua hiền, chúa minh, những vị quan thanh liêm, đức độ, những kẻ sĩ hiền tài dưới thời phong kiến. Càng phải thường xuyên giáo dục và có biện pháp hữu hiệu làm theo tấm gương trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong một nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật phải luôn đi đôi với nhau. Không thể có dân chủ ngoài pháp luật và pháp luật bảo đảm cho quyền tự do dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế. Cái chưa hoàn thiện của chúng ta hiện nay là giáo dục dân chủ và thật sự thực thi dân chủ. Nếu hiểu dân chủ là một giá trị văn hóa, thì giáo dục giá trị văn hóa này trong nhân dân, đặc biệt và trước hết trong Đảng là tạo ra một trong những sức mạnh to lớn để nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Muốn giáo dục dân chủ thì trước hết phải hiểu dân chủ là gì. Có ý kiến coi “dân chủ là việc chính sách, pháp luật được hình thành trên cơ sở ý chí của đa số; chính kiến của xã hội được hình thành trên cơ sở của tranh luận của xã hội”. Còn theo Hồ Chí Minh thì giáo dục dân chủ là làm cho mọi người biết hưởng quyền dân chủ, “dám mở mồm ra”. Mà để cho người dân dám mở mồm thì phải có thiết chế văn hóa, phải thực hiện dân chủ cơ sở một cách thiết thực, có cơ chế giám sát việc thực thi quyền lực. ở đâu có quyền lực thì ở đó phải có giám sát quyền lực, phải có những giải pháp văn hóa như khen chê, thưởng phạt đúng mức, bồi dưỡng ý thức làm chủ và tính tích cực công dân... Chỉ có như vậy thì người dân, cán bộ đảng viên mới biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm.
Sự minh bạch của bộ máy nhà nước, của những người có chức có quyền, đặc biệt là người đứng đầu, là một tố chất văn hóa rất quan trọng và cần thiết để chống tham nhũng, lãng phí. Bài học Thuỵ Điển qua lời Giáo sư Ari Kokko của Trường đại học kinh tế Stockholm khi sang làm việc ở Việt Nam tháng11- 2005 cho thấy: “Nếu thông tin luôn được chia sẻ với mọi người, càng ít góc khuất để người ta lợi dụng kiếm chác cho cá nhân. Tất cả mọi tài liệu của nhà nước ở Thuỵ Điển đều là công khai, trừ khi nó được đóng dấu mật. Một công dân Thuỵ Điển hoàn toàn có thể yêu cầu văn phòng thủ tướng cung cấp toàn bộ thông tin về chi phí đi lại của thủ tướng Thuỵ Điển khi ông đến thăm Việt Nam cuối năm ngoái. Luật pháp bắt buộc phải công khai những thông tin như vậy và người dân có quyền được biết nếu họ quan tâm. Trong quá trình tác nghiệp, phóng viên có quyền tiếp cận với toàn bộ các tài liệu mà họ cho là cần thiết cho bài báo của họ. Không một cơ quan nào được từ chối cung cấp thông tin. Khi báo chí đã lên tiếng, cơ quan bị đề cập phải có trách nhiệm phản hồi và giải trình. Như vậy báo chí phải là người mở cánh cửa”(Báo Tuổi trẻ, 7-11-2005). Sự tù mù bao giờ cũng dẫn đến tiêu cực. Ngược lại, minh bạch là ngọn đèn pha chiếu rọi vào tất cả ngõ ngách của tham nhũng, lãng phí, lôi ra ánh sáng mọi sự khuất tất. Muốn làm tốt điều này, cần tạo dựng văn hóa đối thoại. Điều này không chỉ duy trì trong các kỳ họp Quốc hội, mà phải thấm vào trong sinh hoạt đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng. Vấn đề không phải chỉ là văn hóa phê bình, tự phê bình, mà còn là văn hóa đối thoại, và đối thoại có văn hóa. Đây phải là việc làm thường xuyên, có tổng kết, rút kinh nghiệm.
Còn nhiều khía cạnh có thể hình thành một hệ giải pháp văn hóa để nâng cao đạo đức cách mạng, chống suy thoái về đạo đức mà chưa thể nêu lên trong một bài báo. Tuy nhiên, xét đến cùng thì giải pháp văn hóa quan bao trùm là “tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác- Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội” . Các giải pháp văn hóa phải được nhận thức và thực hiện như một cuộc cách mạng thật sự thì mới có thể quét sạch được chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và cả hệ thống chính trị.