Hồ Chí Minh là một nhà lý luận mácxít đầy sáng tạo, một nhà hoạt động thực tiễn phong phú. Người là một trong số ít những lãnh tụ cách mạng vô sản ở thế kỷ XX quan tâm đặc biệt tới đạo đức cách mạng. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một bộ phận đặc sắc trong chỉnh thể tư tưởng Hồ Chí Minh, được hình thành từ nhiều nguồn gốc lý luận và thực tiễn, trong đó quan trọng nhất là đạo đức mácxít. "Đạo đức học" Hồ Chí Minh là một bộ phận lớn trong triết lý sống của Người, mà nội dung chủ yếu là "yêu nhất điều thiện, ghét nhất điều ác"; mong sao cho "nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do; đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó là "ở đời và làm người", nghĩa là phải "thương nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ, áp bức"... Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thuộc phạm trù đạo đức mácxít, đạo đức mới, cách mạng; là sự kế thừa và nâng cao đạo đức truyền thống của dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển đạo đức Mác Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta.
Nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có cấu trúc nội tại, bao gồm một hệ thống các luận điểm có quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một chỉnh thể từ những năm hai mươi đến tận cuối đời. Đó là các nội dung về vai trò, vị trí của đạo đức cách mạng; phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam trong thời đại mới; những nguyên tắc rèn luyện đạo đức trong toàn bộ tiến trình cách mạng từ giải phóng dân tộc đến xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những điều Người viết, nói rất thiết thực, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm. Nó vừa là những vấn đề gần gũi hằng ngày, vừa có ý nghĩa lâu dài. Đó chính là những đặc trưng bản chất thể hiện bằng tính thống nhất và tính toàn diện trong tư tưởng đạo đức của Người.
1. Tính thống nhất trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
- Thống nhất giữa tư tưởng chính trị và tư tưởng đạo đức.
Từ khi tiếp nhận được ánh sáng cách mạng của thời đại mới là chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã khẳng định một cách nhất quán con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam là con đường cách mạng vô sản. Từ đó Người cống hiến toàn bộ trí lực cho sự nghiệp cách mạng chuyên nghiệp của mình vì mục tiêu và lý tưởng chính trị giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp chính trị và văn hóa Hồ Chí Minh. Để hoàn thành được mục tiêu cách mạng cao cả đó, Hồ Chí Minh đã xây dựng chiến lược đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Những tư tưởng chính trị đó nhằm mang lại độc lập cho Tổ quốc, hạnh phúc tự do cho nhân dân. Nó không những chứa đựng và thấm nhuần những tư tưởng đạo đức sáng ngời mà chính những tư tưởng chính trị đó cũng là đạo đức của người cách mạng. Bởi vì đạo đức cách mạng theo quan điểm Hồ Chí Minh là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng; là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân; là ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng; là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng...
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là nhằm phục vụ cho lý tưởng chính trị và tư tưởng chính trị của Người lại luôn luôn thấm nhuần và quán triệt tư tưởng đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng theo quan điểm của Hồ Chí Minh là làm sao cho dân tin, dân phục, dân yêu, đoàn kết quần chúng chặt chẽ chung quanh Đảng, tổ chức, tuyên truyền và động viên quần chúng thực hiện được mục tiêu cách mạng của Đảng và dân tộc. Những mệnh đề "Nước lấy dân làm gốc", "Trung với nước, hiếu với dân"... vừa là tư tưởng đạo đức, vừa là tư tưởng chính trị. Đó chính là tư tưởng đạo đức nhằm giải phóng con người và là đạo đức của những con người được giải phóng.
- Thống nhất giữa tư tưởng và hành động; lời nói và việc làm.
Hồ Chí Minh quan tâm tới đạo đức trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn, tri và hành. Các phương diện này luôn thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau.
Về phương diện tư tưởng, lý luận: Trên cơ sở hệ giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức nhân loại mà đỉnh cao là đạo đức mácxít, Hồ Chí Minh đã xây dựng hệ thống lý luận đạo đức Việt Nam làm nền tảng cho Đảng, cho các chiến sĩ cách mạng và toàn dân. Đó là những phẩm chất "Trung với nước, hiếu với dân"; "Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư"...
Trong khi xây dựng những phẩm chất đạo đức mới, Hồ Chí Minh luôn ý thức về sự thống nhất giữa lời nói với việc làm. Người là một tấm gương sáng ngời về thực hành đạo đức cách mạng. Điều này được thể hiện ở những mức độ khác nhau. Trước hết, nói đi đôi với làm. Người phê phán tình trạng nói mà không làm, thậm chí nói một đường làm một nẻo. Thứ hai, Hồ Chí Minh thường căn dặn chúng ta nên nói ít làm nhiều chứ không phải nói nhiều làm ít. Hiệu quả công việc là thước đo và là minh chứng hùng hồn cho tư tưởng. Thứ ba, ở Hồ Chí Minh, nhiều khi không biểu lộ bằng lời nói, mà mỗi hành vi, việc làm của Người đều tiềm ẩn những tư tưởng đạo đức cách mạng sáng ngời. Người dạy rằng "trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Từ truyền thống văn hóa phương Đông Người khẳng định: một tấm gương sống có giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền.
- Thống nhất giữa đức và tài.
Người cách mạng theo quan điểm của Hồ Chí Minh phải vừa có đức, có tài; có tài phải có đức, trong đó đức là gốc. Cách mạng càng đi lên, càng phát triển, trên cơ sở nền tảng là đạo đức, người cán bộ cách mạng càng phải có tri thức, nắm khoa học - khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn; phải có trình độ ngoại ngữ, chuyên môn... Tuy nhiên đức và tài phải gắn bó chặt chẽ, thống nhất với nhau, ở những mức độ khác nhau. Có tài mà không có đức, chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người.
Sự thống nhất giữa đức và tài còn được thể hiện ở một mức độ khác, cao hơn, đó là trong đức có tài, trong tài có đức. Đạo đức chúng ta bàn tới ở đây là đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Cho nên trong nội hàm khái niệm đạo đức đã chứa đựng tài và ngược lại nói tới tài phải bao chứa cả đức. Chẳng hạn, trí, dũng là đức, nhưng cũng là tài; hiểu biết, hoàn thành nhiệm vụ là tài, nhưng cũng là đức. Bởi vì đức - tài, xét cho cùng là lấy việc hoàn thành nhiệm vụ của Đảng, của dân làm thước đo. Để đưa cách mạng đến thắng lợi không thể chấp nhận một thứ đạo đức chung chung, trừu tượng kiểu tôn giáo; không thể chấp nhận một thứ tài không nhằm hưng lợi cho nước, cho dân. Tài đức đều phải vì lợi ích của Đảng, của dân. Vì vậy, đức - tài là thống nhất, không thể chia cắt.
- Thống nhất giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường.
Đạo đức cách mạng là trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính; chí công vô tư, là tinh thần quốc tế trong sáng thủy chung... Đó là những chuẩn mực đạo đức luôn luôn được Hồ Chí Minh nêu lên hàng đầu với ý nghĩa là những điều chủ chốt nhất. Bởi vì không rèn luyện, tu dưỡng theo những phẩm chất đạo đức đó thì không thể nói tới thắng lợi của cách mạng. Hồ Chí Minh đã từng tổng kết: "Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân" 1.
1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 9, tr. 291.
Tuy vậy, Hồ Chí Minh cũng rất quan tâm tới việc giáo dục rèn luyện đạo đức đời thường, tức là những hành vi trong cuộc sống thường ngày, trong học tập, lao động, trong đối nhân, xử thế... Quan điểm và việc làm của Người cho thấy chúng ta không thể chỉ chú trọng ở những việc lớn mà coi khinh việc nhỏ. Đạo đức cách mạng là phục vụ và hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Vì vậy "Chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải làm tròn nhiệm vụ". Đúng như Xã luận báo Chiến đấu, Cơ quan Trung ương Mặt trận dân tộc An-giê-ri, 6/9/1969 đã viết: "Một trong những bài học mà chúng ta có thể rút ra từ cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Người ta không thể là nhà cách mạng trong những việc lớn mà lại thiếu sót trong những việc nhỏ".
2. Tính toàn diện trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh giáo dục đạo đức cho mọi tầng lớp nhân dân lao động.
Một đặc điểm lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là Người bàn tới việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của mọi thành viên trong xã hội, mà Người gọi là đạo đức công dân. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Một trong những yếu tố để tạo ra sức mạnh cho quần chúng là giáo dục đạo đức cho mọi người và mỗi người. Giai cấp công nhân, nông dân, trí thức, bộ đội, công an, thanh thiếu niên, nhi đồng, phụ lão, phụ nữ... tất cả đều tiếp nhận được từ Hồ Chí Minh những lời dạy bảo ân cần, quý giá về đạo đức, các tầng lớp nhân dân coi những lời dạy của Hồ Chủ tịch là cái "cẩm nang thần kỳ" cho lực lượng của mình để không ngừng rèn luyện tu dưỡng, phấn đấu vươn lên, hoàn thành nhiệm vụ.
Trong khối lực lượng cách mạng đông đảo đó, đặc biệt Hồ Chí Minh chú trọng tới việc giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên và thế hệ trẻ.
Tại sao như vậy? Bởi vì cán bộ là gốc của mọi công việc; là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được. Làm cán bộ tức là suốt đời làm đầy tớ trung thành của nhân dân. Tư tưởng và hành động của mỗi một cán bộ, đảng viên quan hệ nhiều đến toàn quốc. Nếu một người sơ suất, một việc sơ suất là có thể hỏng việc to; sai một ly đi một dặm. Mặt khác, đảng viên và cán bộ cũng là người. Ai cũng có tính tốt và tính xấu. Nhưng tính xấu của một đảng viên, một cán bộ, sẽ có hại đến Đảng, có hại đến nhân dân. Điều đáng quan tâm nhất là: "Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút" 1. Hoặc: "Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân" 2.
1 Hồ Chí Minh, Sđd, t. 5, tr. 641.
2 Hồ Chí Minh, Sđd, t. 5, tr. 104.
- Đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập trong mọi môi trường khác nhau, mà chủ yếu là trong gia đình, ở công sở và ngoài xã hội.
Từ mọi lực lượng đến mọi môi trường thể hiện tính nhất quán trong quan niệm giáo dục đạo đức của Hồ Chí Minh. Đừng ai nghĩa rằng Hồ Chí Minh chỉ quan tâm giáo dục đạo đức cho cán bộ ở công sở: Người từng khẳng định hạt nhân của xã hội là gia đình. Vì vậy muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải chú ý hạt nhân cho tốt. Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc giáo dục đạo đức trong gia đình, xây dựng gia đình văn hóa mới.
Bàn tới đạo đức trong gia đình, Hồ Chí Minh thường đề cập tới quyền bình đẳng vợ chồng với tinh thần "đó là một cuộc cách mạng khá to và khó". Người lại nói đến tình, đến nghĩa của người cộng sản với thái độ "người kiên quyết cách mạng nhất lại là người đa tình, chí hiếu nhất". Đời sống tinh thần vật chất trong một nhà phải đặc biệt được quan tâm. Đó là cơ sở của phong trào "xây dựng gia đình, nuôi dạy con cái tốt". Người quan tâm giáo dục thiếu niên, nhi đồng một cách toàn diện: yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; học tập tốt, lao động tốt; đoàn kết tốt, kỷ luật tốt; giữ gìn vệ sinh; thật thà dũng cảm; thương yêu giúp đỡ cha mẹ anh em,...
Từ gia đình tới công sở, ra xã hội, đạo đức được bàn tới và xây dựng như một "quy trình khép kín" bịt chặt các kẽ hở, ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng phi đạo đức. Một môi trường văn hóa lành mạnh được tạo lập. Gia đình, công sở, xã hội là "kiềng ba chân" để xây dựng đạo đức mới cho từng người, từng gia đình, từng tập thể, cộng đồng và toàn xã hội.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức có giá trị to lớn, sâu xa trong phạm vi dân tộc và nhân loại.
Cống hiến của Hồ Chí Minh về đạo đức không chỉ có ý nghĩa trong công cuộc giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, mà còn để lại kỳ vọng cho các thế hệ mai sau trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, vì sự phát triển và tiến bộ của đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức có giá trị to lớn, sâu xa, vượt ra ngoài biên giới quốc gia, để lại những ấn tượng đẹp đẽ trong lòng nhân loại tiến bộ. Hồ Chí Minh, một nhân cách hoàn hảo, hiện thân cho nền văn hóa của tương lai. Trong trái tim nhân loại tiến bộ, có một chủ nghĩa nhân văn - đạo đức Hồ Chí Minh. Thủ tướng Nê-ru cho rằng được gặp Bác Hồ, chúng ta không những tăng thêm về sự hiểu biết, lớn lên về tầm vóc mà còn là niềm sung sướng được thấy lòng tốt của con người, tình bạn, lòng nhân ái. Người là một con người không nghĩ gì đến mình, giản dị và khiêm tốn. Là Chủ tịch nước, nhưng Người không tự giam mình trong tháp ngà. Người là một con người của quần chúng, một lãnh tụ có sự kết hợp hiếm có giữa lòng khoan dung tột độ và ý chí kiên quyết nhất.
Thủ tướng Găng-đi cho rằng đức độ lượng, tính giản dị, tình yêu nhân loại, sự tận tuỵ hy sinh và lòng dũng cảm của Hồ Chí Minh sẽ cổ vũ các thế hệ mai sau. Nhiều học giả nước ngoài nhận xét rằng "Ông Hồ không cố ý tìm kiếm những cái trang sức cho quyền lực, vì ông tự tin ở mình và mối quan hệ của ông với nhân dân. Ông tỏ ra có quyền lực lãnh đạo đối với mọi người bằng tấm lòng nhân hậu, chí công vô tư, bằng trí thông minh và trình độ học thức, nói chung bằng tất cả vốn văn hóa cách mạng".
Rõ ràng là nhân loại đã và đang cần đến tư tưởng và tấm gương đạo đức kiểu Hồ Chí Minh. Lý giải điều này, Xan-ti Mau-roi (Santi Mauroy), một giáo sư Sử học ấn Độ viết: "Ngày nay nhân loại đang ở ngã tư đường một sự xáo động mãnh liệt khác. Nhân loại đói khát, bị tước đoạt, bị áp bức, đang kinh hoàng nhìn cuộc diễu hành huênh hoang của phồn vinh và giàu có, bị chà đạp bởi sự giả nhân giả nghĩa xã hội ghê gớm, đi liền với cuộc cách mạng kỹ thuật khổng lồ đã tạo cho loài người vô vàn quyền lực, của cải và ảnh hưởng, nhưng lại không có một sự tiến bộ tinh thần tương ứng và các giá trị nhân đạo phổ biến... Nhân loại dần dần đang nhường bước cho sự xuất hiện tàn nhẫn của ham muốn cá nhân, ích kỷ để thống trị như chưa hề thấy... Điều cần đến là một cuộc nổi dậy về đạo đức... ở giữa cơn khủng hoảng này, nhân loại đã sản sinh ra những danh nhân lỗi lạc làm nên thời đại như Lênin, Hồ Chí Minh và Găng-đi là những người đã để lại những dấu ấn không thể sai lầm của mình để được tiếp tục theo đuổi trong các đảo lộn nhiều biến động" 1.
Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở thành giá trị nhân loại. Đứng như một nhà báo đã hỏi Xan-va-đo A-gien-đê, người con quang vinh của nhân dân Chi-lê: "Ba đức tính nào của những nhà hoạt động chính trị mà Ngài muốn có và Ngài sẽ lấy ai làm gương?". A-gien-đê trả lời: "Liêm khiết, nhân đạo và vô cùng khiêm tốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh" 2.
1 Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr, 259-260.
2 Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh sống mãi trong trái tim nhân loại, Nxb. Lao động - Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993, tr. 113.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức giải quyết nhiều mối quan hệ khác nhau, tập trung chủ yếu vào bốn mối quan hệ chính: Tự mình, đối với người, đối với việc, với đoàn thể.
"Tự mình" là mỗi người phải lấy mình làm đối tượng để giải quyết vấn đề đạo đức. Mối quan hệ này diễn ra và phải được giải quyết từng giờ, từng ngày. Nó không đơn giản mà khá phức tạp vì mỗi người phải tự "mổ xẻ" mình để diệt trừ giặc trong lòng, một thứ giặc không có hình thù, không thể dùng súng đạn để tiêu diệt. Mình không giải quyết tốt mối quan hệ với mình thì không thể giải quyết tốt mối quan hệ với người, với việc. Vì vậy "tự mình" có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
"Đối với người" là lấy người khác làm đối tượng để giải quyết vấn đề đạo đức. Là cán bộ, đảng viên, trong quan hệ đối với người", cần đặc biệt lưu ý mối quan hệ với nhân dân, gắn bó mật thiết với dân. Phải thực hành tốt mệnh đề ba chữ "H": Học dân chúng; Hỏi dân chúng; Hiểu dân chúng. Phải chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Trong quan hệ với đồng sự thì phải thân ái, giúp đỡ. Với từng người thì có lòng khoan thứ.
"Đối với việc" là thông qua và bằng công việc để giải quyết vấn đề đạo đức. ở đây nổi lên hàng đầu là "Trung với nước", "Vị công vong tư". Mỗi người trong ứng xử văn hóa đạo đức phải luôn luôn biết đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của nước, của dân lên hàng đầu. Hồ Chí Minh cho rằng, nói tóm tắt thì đạo đức cách mạng là "quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng", đó là điều chủ chốt nhất. Đã là đạo đức cách mạng thì trong khi phải lựa chọn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cách mạng, bao giờ cũng phải đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình.
"Với Đoàn thể". Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927) Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng "với đoàn thể thì nghiêm; phục tùng đoàn thể". Từ khi Đảng ta rút vào hoạt động bí mật (cuối năm 1945 đến đầu năm 1951), Hồ Chí Minh bàn nhiều về mối quan hệ giữa cán bộ, đảng viên với Đoàn thể (chữ "Đ" viết hoa) với ý nghĩa là Đảng Cộng sản Đông Dương và một số Đoàn thể khác. Nhưng điều quan trọng nhất về đạo đức cách mạng như Hồ Chí Minh chỉ ra là: "Trước lúc mình vào Đoàn thể nào phải hiểu rõ Đoàn thể ấy là gì? Vào làm gì? Mỗi Đoàn thể phải vì dân và nước" 1. Vì vậy trong quan hệ với Đoàn thể, "phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của Đoàn thể. Phải tuyệt đối trung thành. Khi bình thời phải hết sức làm việc. Khi nguy hiểm phải hy sinh vì Đoàn thể. Hy sinh tính mạng, lợi quyền, giữ danh giá của Đoàn thể" 2.
1 , 2 Hồ Chí Minh, Sđd, t.5, tr. 55.
Tóm lại, đạo đức cách mạng, dù xét ở góc độ nào, cuối cùng đều nhằm đem lại Độc lập - Tự do - Hạnh phúc cho đất nước và dân tộc, nhằm giải phóng con người một cách toàn diện và triệt để nhất. Vì vậy đạo đức đó phải là sự thống nhất biện chứng của nhiều mặt, mang tính toàn diện. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là sự gắn bó giữa dân tộc và nhân loại, phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại và được trải nghiệm suốt cuộc trường kỳ giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh của thời đại mới được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Xây dựng đạo đức công dân, đạo đức cho từng đối tượng cụ thể hay một nền đạo đức mới Việt Nam đều phải được xem xét và giải quyết trên cơ sở tính toàn diện và tính thống nhất trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.