C
hú em ở làng điện thoại nhắc: “Gần tới tháng 10 âm lịch rồi, anh coi thu xếp thời gian mà về dự chạp họ!” Chú em không nhắc thì tôi cũng nhớ ngày chạp họ hằng năm ở quê nhà. Mà nhớ chạp họ là nhớ cộ heo xôi dân dã của quê tôi.
Nhánh con cháu họ Lê Phi của tôi có đến mấy chục gia đình. Đông là vậy nên mỗi năm, mấy bác cao tuổi trong họ lại cắt cử một gia đình đứng ra lo lễ cúng chạp họ mà theo cách gọi của làng là “bô việc”. Tôi nhớ có năm nhà tôi đảm trách “bô việc”. Mới nửa tháng 9 âm lịch, ba mạ tôi đã lo chu tất mọi thứ từ chuyện để lại mấy tạ nếp ba trăng để nấu xôi, chọn con heo cỏ của nhà hàng xóm để mua và cả chuẩn bị mấy bì ớt bột, sắp sẵn đậu xanh để làm món giá; rồi mạ lên chợ Mỹ Chánh để mua măng khô về mà nấu xáo. Việc cuối cùng là mạ dặn với mụ Ninh, một người bán nước mắm biển quen biết của xóm tôi, để cho chục chai nước mắm hạng nhứt. Mạ nói: “Heo nạc, xôi thơm rồi cũng chưa đủ; phải nước mắm cốt thiệt ngon mấy bác trong họ mới ưng!”
Khuya mồng 5 tháng 10 âm lịch, tôi đang ngon giấc thì nghe tiếng heo kêu eng éc ngoài sân, rứa là choàng tỉnh. Trong sân, một cái bếp dã chiến được bắc bằng ba viên bờ lô to đang đỏ lửa với cái hôn xôi hình bầu dục thiệt to. Thì ra mấy bác, mấy chú trong họ đã đến từ khi gà chưa gáy để lo chuyện hậu cần cho lễ cúng họ ngày mai. Cái hôn xôi to, cao quá đầu đứa con nít chỉ được sử dụng trong những dịp giỗ chạp lớn được ba tôi mượn của nhà hàng xóm từ mấy ngày trước.
Cái hôn xôi hình bầu dục là một vật dụng làm bằng nhôm (có thể hiểu như một cái xoong to) không chỉ nấu được số lượng lớn mà quan trọng hơn, xôi hôn thường dẻo hơn, chín đều hơn nấu bằng nồi. Đặc biệt, người hôn xôi không quên bỏ trên nồi mấy ngọn lá chìa thơm (một thứ lá mùi có nhiều ở các vùng quê) để cho xôi thơm hơn, ngon hơn…
Trước sân thì hôn xôi, còn ngoài giếng thì mấy chú mổ heo. Heo mổ xong, chia thịt, làm lòng và luộc ngay cho thịt được tươi. Đến khi trời đã sáng tỏ thì cả xôi và heo đều chín. Công việc còn lại của mấy chú “hậu cần” là phân cộ (cỗ). Cái đầu heo, một miếng thịt nọng được dành để cúng mâm chính cùng với mấy dĩa xôi. Số thịt còn lại được chia đều thành từng cộ trên mỗi bàn. Cộ được lót bằng một miếng lá chuối xanh đã được rửa sạch, theo công thức dân gian “thịt côi xôi dưới”; có thêm mấy tô xương xáo măng, mấy dĩa giá và tất nhiên là không thể thiếu chén nước mắm ớt ở giữa mâm…
Hồi trước, ngoài nước mắm, có khi mâm cúng chạp họ có thêm một chén nước lèo. Tôi vốn không thích món ăn chi có vị ngọt của đường thêm vô nhưng có một món ngoại lệ là nước lèo. Nước lèo được pha chế từ đậu phụng, mè, đường, nước xuýt, và đặc biệt là phải có gan heo nên ngọt mà không ớn, là thứ nước chấm phổ biến thứ hai sau nước mắm trong mâm chạp họ.
Cái ngon của cộ heo xôi, đó là cách bài trí từ màu xanh của lá chuối, màu trắng của xôi và cả cách phối màu của thịt, của lòng heo, nước mắm, nước lèo. Xôi nếp của đồng quê, heo của nhà, nước mắm cổ truyền thơm nức mũi của biển, măng của rừng…; bởi vậy, tuy đơn giản nhưng cộ heo xôi là sự tổng hợp hài hòa hương vị của đất đai từ núi đến biển, từ đồng đến vườn…
Nghi lễ cúng cũng đơn giản, chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ, đến khoảng mười giờ là con cháu nội ngoại bắt đầu ngồi vô mâm. Con cháu bên ngoại (là những người có họ mẹ, họ mệ nội, họ vợ) được ưu tiên ngồi trước; con cháu nội thân ngồi sau. Ai có vai vế, cao tuổi được ngồi mâm trên; những người còn trẻ ngồi mâm dưới…
Hồi trước, sau khi tan tiệc, còn dư xôi thịt thì mỗi người đều được chia phần, gói trong miếng lá chuối, đưa về nhà cho mấy đứa con hay cháu nhỏ chưa đủ tuổi đi họ. Bởi vậy, cứ đến mùa chạp họ là tôi lại nhớ cái cảnh hồi bé mấy anh em ra đứng chầu chực trước ngõ, chờ ba mang về cho mấy cục xôi, mấy lát thịt heo luộc, rứa mà ăn ngon chi lạ. Còn năm nhà tôi làm “bô việc” thì khỏi nói, anh em tôi và thêm mấy đứa nữa được ngồi vô một mâm heo xôi cùng người lớn, chén một bụng no nê…