Q
uê tôi ven sông ven biển, đất cát pha thịt rất hợp để cho các giống khoai sắn sinh trưởng. Hồi đó, chưa có các loại giống lúa năng suất cao như bây giờ, hệ thống thủy lợi cũng còn sơ sài nên vụ được, vụ mất. Mà có được mùa lúa đi nữa thì cũng chẳng đủ gạo để ăn, nên khoai sắn là những loại cây lương thực cứu cánh cho nhà nông.
“Khoai lên vồn tốt củ...” Quê tôi nhà nhà trồng khoai, người người ăn khoai. Khoai lang vốn dễ trồng, cứ lên vồn xong cắm ngọn xuống, cũng chẳng phải chăm sóc hay phòng trừ sâu bệnh chi nhiều mà cây cứ lên phơi phới; thoáng chốc đã xanh đồng. Tuổi thơ tôi vui thú nhất là được theo ba mạ đi bới khoai. Ba bốn tháng kể từ ngày trồng là khoai đã cho củ ăn được. Những cọng rau được cắt gọn gàng dồn thành đống dành cho trâu bò và tiếp đó là công đoạn bới. Ba tôi dùng cuốc xắn lên từng thớ đất to và những chùm củ khoai lộ hình trong ánh mắt vui mừng của con trẻ. Khoai được chất thành từng thúng gánh về nhà. Bà nội lựa những củ ngon nhất cho vào nồi. Khoai đầu mùa ngọt bùi hương vị của đất đai... Nhưng cũng chỉ một bữa đầu tiên thôi, đến bữa thứ hai thì cả mấy anh em tôi đều lắc đầu không muốn ăn khoai nữa...
Tôi thích nhất vẫn là khoai lang tím. Giống cây này chỉ thích hợp trồng trên đất cát, thân màu tím, lá màu tím và củ cũng màu tím. Khoai lang tím rất ít củ, bù lại củ nào cũng ngon lành, vị ngọt đậm đà. Rồi giống khoai Hoàng Long vỏ đỏ, ruột hồng có xuất xứ từ Đà Lạt ăn cũng rất ngon. Các giống khoai trắng, khoai ba tháng... thì cho củ rất nhiều nhưng ruột lại lắm xơ. Dân gian có câu “Được mùa chớ phụ ngô khoai” là bởi khoai có thể luộc ăn, có thể để trên giàn bếp hay xắt nhỏ phơi khô để làm loại lương thực trợ lực cho cơm.
Tuy không thích món khoai luộc nhưng tôi lại rất mê món khoai khô ngào đường trong những ngày mưa rét. Có nhiều bữa tôi ăn đến ba bốn chén thay cơm. Tiếc là hồi đó, để có được bánh đường đen mà ngào khoai khô, đối với một gia đình nông dân như nhà tôi cũng không phải là chuyện dễ dàng...
Nếu như cây khoai lang trồng chủ yếu trên các cánh đồng thấp thì cây sắn trồng ở các cánh đồng cao và trong vườn nhà. Tôi vẫn nhớ đến vụ sắn, nhà nhà gánh từng bó hom sắn lên cánh đồng Trụ Sơn sau rú cát để trồng. Và cũng như khoai, cây sắn dễ chiều lòng người, vươn cây, đâm cành rất nhanh, chừng ba, bốn tháng thì cho củ. Thực tình củ sắn, mà nhất là giống sắn thân xanh, cành đỏ cho củ to lại bở nên ăn khá ngon. Tôi vẫn nhớ những ngày nghỉ theo mấy đứa bạn chăn trâu vô rú cát chơi, thả cho trâu đi tìm cỏ còn mấy thằng rủ nhau đốt một đống lửa rồi xin sắn nướng ăn. Sắn cũng như khoai nướng than là ngon nhất, thơm nhất. Nhưng khoai ăn nhiều thì nóng ruột còn sắn ăn quá nhiều thì bị say. Tôi đã chứng kiến thằng bạn say sắn, nôn thốc nôn tháo, mặt trắng bệch ra rất tội nghiệp...
Nếu như khoai phơi khô để ngào đường ăn thì sắn khô chủ yếu trợ lực cho cơm. Tôi còn nhớ cái món sắn xối mỡ của nhà bác Toàn thỉnh thoảng bưng qua làm quà bữa ăn chiều cho nhà tôi. Món sắn xối mỡ được chế biến cũng khá đơn giản, đó là nấu sắn lên, cho vào cối giã cho nhuyễn rồi đổ mỡ đã phi hành vào trộn đều thành một món ngon lại có thêm chất...
Nhưng lạ nhất là cái món vỏ sắn muối chua. Vỏ sắn ăn tươi không được vì độc tính nhưng xắt nhỏ ra rồi muối chua thì có thể nấu canh ăn. Hồi nhỏ tôi rất thích ăn canh chua vỏ sắn, nói ngon thì hơi quá nhưng ăn cũng được, cũng có vị riêng. Cái món canh chua vỏ sắn đó cũng lâu lắm rồi, hồi những năm 1980 khi mà cả làng cùng đói kém…
Nhớ lại một thời những vùng nông thôn thiếu cơm đã nhờ khoai sắn mà vượt qua được những năm khó khăn. Củ khoai, củ sắn rồi bát sắn xối mỡ, bát canh khoai với hến của mỗi nhà đôi khi được chia sẻ cho nhau. Cái tình khoai sắn mới ấm áp làm sao!