N
gười bạn phương xa nhờ mua giúp cho ít trái vả tươi xứ Huế. Buổi sáng phải chạy loanh quanh mấy chợ mới mua được mấy chục trái vả. Huế đang những ngày nắng nóng, nên trái vả ít thấy ở chợ; trái vả mùa hạ cũng nhỏ, không xanh và mũm mĩm. Chứ như độ giêng hai, cứ ra tới chợ là gặp vả xanh, trái mô trái nấy to và tươi, nhìn thích mắt lắm mà giá lại rẻ.
“Lòng vả cũng như lòng sung” - Câu thành ngữ này về nghĩa thực cho thấy hai loại trái cây ấy có ruột giống nhau. Nhưng nếu như cây sung to, cao, trái chi chít thì cây vả thường thấp lé đé. Lá cây sung nhỏ, còn lá cây vả thì thiệt to. Ở miền Bắc, quả sung được muối chua thành một món ăn khoái khẩu, còn người Huế không ăn sung, chắc là vì lý do đã có trái vả rồi, mà trái vả thì ăn ngon hơn trái sung.
Cây sung không ra hoa như các loài cây thông thường. Quả sung thậm chí không được định nghĩa là thực vật trái cây; chúng là những bông hoa đảo ngược. Ruột sung là một bó hoa nhỏ mọc bên trong. Có lẽ cây vả cũng giống cây sung vậy. Tôi chưa thấy hoa vả bao giờ mà chỉ thấy trái vả. Mà trái vả có ruột đỏ, nhìn những sợi hoa bên trong rất đẹp mắt...
Cây vả được trồng rất nhiều trong những khu vườn xứ Huế. Hầu như vườn nhà nào cũng có từ một đến vài cây vả. Nhưng ở những vùng nông thôn, càng xa thành phố thì cây vả càng ít dần, ít dần đi. Riêng có một làng quê xứ Huế lại trồng rất nhiều cây vả, đó là làng cổ Phước Tích bên sông Ô Lâu. Đến mùa vả kết trái, mâm cơm dành cho khách của người dân làng Phước Tích đều có các món từ trái vả trong vườn. Bởi thế, mỗi lần về chơi làng Phước Tích, tôi cứ ngỡ như một mảnh hồn cỏ cây của kinh thành Huế rong chơi ra đến tận nơi xa này...
Làng tôi cách làng Phước Tích chừng 30km, cũng bên sông Ô Lâu, nhưng hồi xưa chỉ có một cây vả duy nhất ở cạnh cái giếng của chùa làng. Đó là một cây vả to, nhánh vươn ra tứ phía và ra trái đều đặn mỗi năm. Những đứa trẻ làng quê “nô đùa ngoài đồng lúa hay trong sân chùa” như lời bài hát của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ đã lớn lên trong hương sắc hoa trái hiền hòa của ngôi chùa làng. Nhưng lũ trẻ đó cũng quá hoang nghịch với những trò bẻ phượng, bắt chim, và vặt quả non. Những trái vả chưa đủ lớn đã bị chúng tôi hái trộm vào những buổi trưa để chấm muối ăn. Vị trái vả non chấm muối chỉ thấy chát và mặn chứ chẳng ngon lành chi cả, nhưng đó là một thú vui của con nít làng tôi.
Cây vả và cả cái giếng trong sân chùa bây chừ không còn nữa, thay vào đó là một cái sân lát bê tông. Có một khoảng mênh mông nhớ của tôi mỗi lần đến thăm chùa làm mắt tôi nghèn nghẹn nước. Đó cũng là cây vả duy nhất của làng tôi...
Món ăn từ vả thì nhiều. Vả non đem luộc, xắt mỏng ra rồi trộn với thịt heo ba chỉ (món chay thì trộn với đậu phụng rang), dùng bánh tráng nướng xúc ăn, gọi tên theo kiểu Huế là món “Vả xúc bánh tráng”. Vả cắt miếng hầm với xương heo, vả dầm chua ngọt… Đó là các món chế biến từ trải vả đã luộc. Còn trái vả tươi thì có mặt trong nhiều dĩa rau sống của người Huế. Cứ món ăn chi tươi tươi từ thịt bò thui, mực tươi hay sứa biển thì dĩa rau sống đi kèm phải có mấy lát vả tươi. Nhưng có lẽ, vả tươi ăn đúng điệu Huế nhất, đó là khi đi kèm với rau thơm để ăn thịt heo luộc chấm tôm chua. Món này là sự tổng hòa những thức ngon riêng có của xứ Huế, từ vị chua đặc trưng của món tôm rằn phá Tam Giang lên men, mùi thơm thanh thanh của mấy cọng rau vườn nhà đến vị chát vừa phải của trái vả làm cho lát thịt heo bớt ngấy...
Trái vả là một thứ trái sạch và lành. Trong mâm kỵ của gia đình Huế xưa không thể thiếu mấy món chế biến từ vả. Sau này, người ta còn làm trà từ trái vả khô và đặc biệt là món rượu vả được chưng cất ở các biệt thự trên đỉnh núi Bạch Mã. Đó cũng là cách mang hương vị đặc trưng của một loài cây trái mát lành đất Cố đô đi khắp đó đây...