• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Vì tình yêu Hà Nội
  3. Trang 22

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 57
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 57
  • Sau

Mật độ và độ cao của các tòa nhà*

Tôi đã sống nhiều năm ở Paris khi còn là nghiên cứu sinh chuyên ngành kinh tế. Đây là thành phố mà mọi người đều yêu thích bởi vẻ đẹp và sự quyến rũ của nó, và tôi không phải ngoại lệ. Tôi vẫn luôn say mê thành phố này suốt cuộc đời mình, và tiếp tục trở về thăm Nàng một cách thường xuyên. Thú vị thay, Paris cũng là một thành phố hầu như không có nhà cao tầng trong vùng lõi đô thị. Chủ yếu là những tòa nhà 6 tầng, với tiết tấu hài hòa của những ban công bao xung quanh tầng 2 và tầng 5, cùng với căn gác mái đặc trưng kiểu Pháp ở tầng trên cùng.

Chú thích:

* Bài viết đã được biên tập và đăng trên trang VNExpress vào 06 tháng 7 năm 2018.

Vẻ đẹp quyến rũ từ những ngôi nhà thấp tầng ở Paris khiến tôi cảm thấy được khích lệ khi đọc được thông tin rằng Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo các cơ quan chức năng về đô thị của Hà Nội và TP. HCM ngừng phê duyệt việc xây dựng các tòa nhà cao tầng trong khu vực lõi của hai thành phố.

Vùng lõi đô thị của Hà Nội và TP. HCM có khá nhiều điểm chung với Paris. Những khu quan trọng trong quy hoạch đường phố của hai thành phố được thiết kế vào những năm 1930 bởi Ernest Hébrard, một kiến trúc sư tài năng, người nắm vững những ý tưởng đô thị hóa thời kỳ Khai sáng Pháp. Hébrard cũng am hiểu và đánh giá cao các công trình truyền thống của Việt Nam, và được cho là cha đẻ của phong cách kiến trúc Đông Dương. Trường Đại học Dược trên phố Lê Thánh Tông ở Hà Nội là một ví dụ tuyệt vời cho phong cách này.

Hà Nội và TP. HCM cũng có nhiều công trình công cộng đặc biệt do chính quyền thực dân Pháp để lại. Vùng lõi đô thị của Hà Nội được tô điểm bởi hơn một nghìn biệt thự Pháp, mang đến cá tính riêng cho thành phố. Rất ít đô thị lớn khác ở Đông Á có được khối di sản kiến trúc châu Âu lớn như vậy. Hầu hết khu vực trung tâm của các thành phố khác là những tòa nhà cao tầng nhạt nhẽo và thiếu hài hòa tổng thể.

Sự thật là, khi chỉ đạo chính quyền đô thị của hai thành phố ngừng cấp phép xây dựng các tòa nhà cao tầng, Thủ tướng Phúc đã cân nhắc dựa trên khía cạnh kinh tế chứ không phải về yếu tố thẩm mỹ đô thị. Và ông đã đúng: một quy hoạch đường phố cho vài trăm nghìn dân không thể giải quyết được tình trạng tắc nghẽn giao thông gây ra bởi hàng triệu người sống trong các tòa nhà cao tầng. Nhưng trong trường hợp này, kinh tế học và thẩm mỹ học đã củng cố lẫn nhau.

Rõ ràng là cả Hà Nội và TP. HCM cần đáp ứng chỗ ở cho hàng triệu cư dân mới. Sự phát triển của hai thành phố này là cần thiết cho sự phát triển thành công của đất nước. Vào thời điểm Việt Nam hoàn thành quá trình đô thị hóa, mỗi thành phố có thể đáp ứng chỗ ở cho hơn 10 triệu người, tương đương với khu vực nội đô Paris ngày nay.

Câu hỏi đặt ra là: cách tốt nhất để đáp ứng mức độ tăng dân số khổng lồ này là gì? Câu trả lời cần tính đến việc bảo tồn một số nét quyến rũ mang phong cách châu Âu ở Hà Nội và TP. HCM sẽ mang lại cho cả hai thành phố một lợi thế rõ ràng so với các đại đô thị nhạt nhẽo, thiếu bản sắc ở Đông Á. Khi các thành phố phát triển, năng suất của chúng ngày càng phụ thuộc vào khả năng thu hút tài năng hàng đầu, chứ không chỉ nhờ cơ sở hạ tầng tốt. Cá tính rất đặc biệt của Hà Nội và TP. HCM là một trong những tài sản của Việt Nam trong cuộc cạnh tranh toàn cầu để thu hút những nhân tài xuất sắc nhất.

Thắc mắc tương tự đã được Edward Glaeser đặt ra cho thành phố Paris. Ông là giáo sư Đại học Harvard, cũng là một trong những nhà tư tưởng hàng đầu thế giới về kinh tế học đô thị. Trong cuốn sách của mình, Triumph of the City (Khúc khải hoàn của thành phố), ông đã thảo luận về những bài học (cả tốt và xấu) được rút ra từ một thành phố đã phát triển và mật độ trở nên dày đặc mà không mất nét đặc sắc của nó.

Thật vậy, khu vực lõi đô thị của Paris có thể thấp tầng nhưng rất dày đặc. Do đó nó có sức chứa 21.500 người trên mỗi km2 và là một trong những nơi có mật độ dân số cao nhất ở châu Âu. Khu vực đô thị lớn hơn của Paris cũng đã thành công trong việc tăng mật độ dân số dù đã bảo vệ vùng lõi đô thị lịch sử khỏi các tòa nhà cao tầng. Ngày nay, các khu vực nội đô của Paris, London và New York đều có khoảng 8 triệu dân. Nhưng Paris đông đúc gần như New York, và có mật độ dày đặc gấp đôi London.

Điều này không xảy ra một cách tình cờ. Vào cuối những năm 1950, Paris đã khởi công công trình La Défense, một dự án hoành tráng để xây dựng công trình mà nay là khu vực thương mại lớn nhất châu Âu. Đã có một quyết định rất rõ ràng để bảo tồn nét đặc sắc mang tính lịch sử của thành phố, điều đó có nghĩa là khu vực mới phải ở bên ngoài trung tâm thành phố. Thiết kế nhằm khắc phục tắc nghẽn giao thông, tạo điều kiện tối đa hóa lưu lượng người và hàng hóa đổ dồn về một khu vực, đồng thời giảm bớt áp lực giao thông cho khu vực lõi đô thị của Paris. Một mạng lưới quy mô bao gồm các đường cao tốc, đường dịch vụ, đường sắt và trạm xe buýt đã được xây ngầm.

Đối với Edward Glaeser, thiết kế của La Défense là một giải pháp đầy cảm hứng cho tình trạng thiếu không gian ở Paris. Là một người rất hâm mộ các tòa nhà chọc trời, nhưng ông nhận ra rằng các tòa nhà cao tầng sẽ không được chào đón trong phần nội đô lịch sử của một thành phố mà mọi người đều yêu mến.

Tuy nhiên ông cũng chỉ ra một cách đúng đắn rằng La Défense quá xa trung tâm thành phố, vì vậy mà có nhiều người làm việc trong khu vực này và phải di chuyển đến chỗ làm từ các vùng ngoại ô khác sẽ không được tận hưởng vẻ đẹp cũng như sự quyến rũ của trung tâm Paris.

Tôi yêu Hà Nội cũng như yêu Paris, và tôi cũng thường xuyên trở lại thăm Nàng. Chỉ đạo của Thủ tướng Phúc cho tôi hy vọng rằng Hà Nội sẽ giữ được vẻ đẹp và sự quyến rũ của nó, giống như Paris khi quyết định giữ nguyên cấu trúc thấp tầng cũ và xây dựng La Défense bên ngoài khu vực trung tâm thành phố.

Tôi chỉ có thể mong rằng các quy định rõ ràng về những gì được phép xây dựng (cũng như những gì không được phá hủy) sẽ được áp dụng trong khu vực nội đô lịch sử, từ hồ Trúc Bạch đến Công viên Thống Nhất và từ đường đê cho đến đường xe lửa. Việc tập trung bảo tồn một trong những tài sản quan trọng của Việt Nam tốt nhất nên được tiến hành đồng thời với việc chú trọng đầu tư vào hệ thống giao thông công cộng, bao gồm cả tàu điện ngầm và xe buýt. Bằng cách này, ùn tắc sẽ được giảm thiểu và người ta sẽ có thể nhanh chóng đi tới vùng lõi đô thị xinh đẹp và duyên dáng của Hà Nội từ bất cứ nơi nào trong thành phố.