Một tin vui cho những người quan tâm tới di sản là ông Martin Rama đang cùng gia đình tác giả tổ chức “giải cứu” thành công bức tranh tường ở ngã tư chợ Mơ. Bức tranh tường nặng hàng chục tấn bị phá dỡ vì một dự án làm đường ở Hà Nội đã được cắt, di chuyển tới địa điểm mới. Nó sẽ được khôi phục và tồn tại với vai trò mới: một tác phẩm nghệ thuật thuộc về di sản đô thị, không còn là chức năng tuyên tuyền ban đầu.
Câu chuyện đẹp cho bức tranh cổ động cuối cùng từ những năm đầu đất nước thống nhất khiến nhiều người xúc động. Tuy thế, cũng có ý kiến cho rằng tranh cổ động đã hoàn thành sứ mệnh và không cần phải lao tâm cứu nó. Chúng tôi (PV) có cuộc trao đổi với ông Martin Rama.
PV: Thưa ông, nhiều người Việt Nam ngày nay cho rằng áp phích và tranh tường chỉ mang tính tuyên truyền và có rất ít giá trị nghệ thuật. Nhưng dường như ông có suy nghĩ khác? Ông có thể giải thích rõ hơn không?
Chú thích:
* Bài phỏng vấn với nhà báo Hoàng Hương và Phạm Anh Tuấn được đăng trên tạp chí Người Đô Thị ngày 13 tháng 7 năm 2020.
“Phong cách của những áp phích và tranh tường này vốn được quốc tế gọi là “hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Đặc điểm nổi bật của chúng là lý tưởng hóa về một thế giới tôn vinh tinh thần lao động, tình đoàn kết và lòng yêu nước. Mặc dù đây là một phong cách được công nhận bởi Liên bang Xô viết và đồng minh, tính thẩm mỹ của nó bắt nguồn từ những quy ước hàn lâm của nghệ thuật cổ điển phương Tây. Trên thực tế, phong cách này đã được phát triển độc lập bởi nhiều nghệ sĩ từ rất sớm trước Cách mạng tháng Mười Nga.

Bức tranh tường cổ động của họa sĩ Trường Sinh ở chợ Mơ
Theo phong cách này, cuộc sống không được thể hiện như trong thực tế, bởi vì hiện thực có thể khá ảm đạm! Thay vào đó, cần phải truyền đạt một cảm xúc tích cực. Những con người bình thường phải trở nên đáng ngưỡng mộ và tương lai phải rực rỡ. Nghệ sĩ được xem là các “kỹ sư tâm hồn”, có nhiệm vụ truyền bá những giá trị của “con người mới”. Thay vì chủ nghĩa hiện thực chân thực, hình ảnh nên thơ của những chàng trai, cô gái trẻ trung, sôi nổi đã được thể hiện dưới ánh mặt trời chói chang.
Trớ trêu thay, ngôn ngữ thị giác này đã biến phong cách hiện thực xã hội chủ nghĩa thành một hình thức của chủ nghĩa lãng mạn tình cảm. Vì thế, cần phân biệt giữa mục tiêu xã hội mà phong cách này từng hướng tới, với việc nó cho phép các nghệ sĩ làm những gì với tư cách là những cá nhân sáng tạo trong thực tế.”
PV: Ông có thể nêu ra một số ví dụ điển hình cho việc sáng tạo nghệ thuật bất chấp những ràng buộc nghiêm ngặt về thông điệp cần truyền tải cũng như ngôn ngữ mỹ thuật được phép sử dụng không?
“Trong suốt lịch sử, các nghệ sĩ đều buộc phải tuân theo một quy tắc nghệ thuật nhất định. Chẳng hạn, ở thời kỳ Phục Hưng, các bức tranh phải là đại diện cho Đấng Kitô, hoặc Đức Mẹ Đồng trinh, hoặc mô tả các câu chuyện trong Kinh Thánh. Thế nhưng, nghệ thuật vẫn phát triển rực rỡ trong thời Phục Hưng, khi một số nghệ sĩ tài năng nhất trong lịch sử vẫn có thể biểu đạt được suy nghĩ và cảm xúc của mình bất chấp những ràng buộc cứng nhắc.
Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất thời Phục Hưng ở Ý là bức Madonna with Child (Đức Mẹ bồng Chúa Hài đồng) của Filippo Lippi. Ông là linh mục Công giáo xuất thân từ một gia đình nghèo, được một số người giàu ủy thác làm họa sĩ. Trong tác phẩm này, người mẫu của Filippo Lippi là một nữ tu trẻ đẹp, và hai người đã phải lòng nhau trong các buổi vẽ tranh. Cô gái đã cùng ông trốn khỏi tu viện, rồi sau đó hai người đã có với nhau hai người con. Vậy đây là bức tranh truyền giáo… hay là một bằng chứng của tình yêu nam - nữ?
Tôi thích đánh giá các tác phẩm nghệ thuật bởi chính bản thân chúng. Không phải bởi mục đích tạo ra chúng, cũng không phải bởi ý thức hệ của nghệ sĩ. Với quan điểm này, tôi đánh giá cao ánh sáng và hình họa sống động của bức tranh tường Bạch Mai, cũng như sự cân bằng về không gian giữa các nhân vật. Tôi tin rằng tất cả chúng ta sẽ nghèo hơn về văn hóa nếu bức tranh tường này bị phá hủy, và cá nhân tôi rất sẵn lòng dành tiền bạc và thời gian để cố gắng cứu lấy nó cho Hà Nội.”
PV: Ở Việt Nam phong cách này có đặc điểm gì khác biệt, hoặc trong một thời kỳ đặc biệt nào có thể giúp biện minh cho việc gìn giữ một vài bức tranh tường và áp phích có chọn lọc không?
“Vâng, chắc chắn rồi! Phép mầu của sáng tạo nghệ thuật dưới những ràng buộc cứng nhắc đã xảy ra vào thời Phục Hưng ở Ý, nhưng không phải ở bất cứ đâu và bất cứ giai đoạn nào.
Một trong những ví dụ đáng chú ý nhất về nghệ thuật tuyệt vời theo phong cách hiện thực xã hội chủ nghĩa là ở Ba Lan. Truyền thống tranh cổ động của đất nước này bắt nguồn từ cuối thế kỷ 19, khi một số nghệ sĩ đi vòng quanh châu Âu và được tiếp cận với các xu hướng văn hóa đương thời. Khi đó tranh cổ động mới xuất hiện tại Pháp, sau khi phát minh ra kỹ thuật in thạch bản màu. Các họa sĩ Ba Lan chịu ảnh hưởng từ những bậc thầy của phong cách mới này, trong đó có Henri de Toulouse-Lautrec và Alphonse Mucha. Trong suốt thế kỷ 20, những nghệ sĩ này vẫn tiếp tục chú trọng vào chất lượng trong các sáng tác của mình. Những năm 50 và 60 là thời “vàng son” của tranh cổ động Ba Lan, rõ ràng là theo phong cách hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Không phải quốc gia nào cũng may mắn như Ba Lan. Nhưng tôi nhận thấy tranh cổ động của Việt Nam những năm 60 và 70 có chất lượng khá đặc biệt. Lật nhanh cuốn Tranh cổ động Việt Nam (1945-2000), có thể thấy rõ tính sáng tạo mạnh mẽ trong những năm đầu, khi nhiều họa sĩ được đào tạo bài bản về kỹ thuật tại École des beaux-arts de l’Indochine (Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương). Bùi Xuân Phái là một trong số đó. Tính sáng tạo và chất lượng nghệ thuật đã giảm đi đáng kể trong những năm 1980 và 1990.
Cá nhân tôi rất thích tranh cổ động của họa sĩ Phạm Lung vẽ trong những năm 1970. Tôi thậm chí còn sở hữu bản gốc bức tranh ông vẽ về Năm điều Bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng, hiện được treo ở căn hộ của tôi tại Hà Nội. Đó là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời theo bất kỳ tiêu chuẩn nào. Và trong mắt tôi, bức tranh tường Bạch Mai do họa sĩ Trường Sinh thực hiện năm 1983 thuộc nhóm những tác phẩm sáng tạo phi thường thời kỳ đó.”
PV: Ông là người đã lên tiếng mạnh mẽ trong việc bảo tồn “cá tính” độc đáo của Hà Nội trong quá trình đô thị hóa. Những nỗ lực của ông nhằm cứu bức tranh tường lần này có vai trò như thế nào trong công cuộc bảo vệ di sản nói chung?
“Cá tính của một thành phố bắt nguồn từ cách cư dân thành phố tương tác với lịch sử, với nhau, và với thiên nhiên. Một thực tế mà chúng ta đều yêu thích là sơ đồ quy hoạch đô thị và các phong cách kiến trúc của Hà Nội kể cho chúng ta rất nhiều về những gì diễn ra hàng nghìn năm trước, từ Kẻ Chợ tới thời kỳ Khai sáng của Pháp, đến kiến trúc Xô viết và tiến tới sự phát triển hiện đại. Chúng ta trân trọng sức sống vỉa hè, nơi người Hà Nội làm mọi thứ từ buôn bán, ăn uống đến giao lưu. Và chúng ta cũng yêu những con đường rợp bóng cây, những công viên công cộng và những khu vườn xinh xắn đã làm nên một thành phố xanh đến thế.
Chỉ trong một vài mét vuông, bức tranh tường của họa sĩ Trường Sinh đã cô đọng một giai đoạn quan trọng trong lịch sử thành phố. Chắc chắn đó là một giai đoạn rất gian khổ. Người dân phải chịu đựng chiến tranh và sự thiếu thốn của thời kỳ bao cấp. Tôi hiểu rằng có thể nhiều người muốn quên đi những năm tháng ấy. Nhưng Việt Nam mạnh mẽ như ngày nay chính là vì đã vượt qua những giai đoạn khó khăn này.
Để thể hiện lòng tôn trọng với thế hệ trước và những hy sinh mà họ đã phải chịu đựng, thành phố nên trân trọng lịch sử của lý tưởng và đấu tranh. Bản thân họa sĩ Trường Sinh cũng từng là một người lính trong trận Điện Biên Phủ. Xóa bỏ một phần của quá khứ còn chưa quá vãng này của thành phố sẽ là bất công với những ai đã từng sống qua những năm tháng đó và chiến đấu vì một Việt Nam hòa bình, thịnh vượng.”
PV: Những năm gần đây đã có nhiều người ủng hộ nỗ lực của ông trong công việc bảo tồn di sản Việt Nam. Ông có kỳ vọng rằng công chúng cũng sẽ đồng cảm với ông trong sự việc lần này không?
“Tôi rất vui vì đã nhận được sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương. Cuối tháng 3, UBND phường Trương Định đã tạm dừng việc phá dỡ bức tranh tường, để chúng tôi có đủ thời gian tách và chuyển bức tranh tới một vị trí khác. Ngay sau đó, UBND phường Hoàn Kiếm đã chấp thuận ý tưởng cho đặt bức tranh tường trên đường Trần Quang Khải, ngay cạnh cầu Long Biên. Và tôi thực sự biết ơn Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, người đã phản hồi tích cực bức thư của tôi nhằm kêu gọi sự hỗ trợ từ ông. Nhờ tất cả những quyết định kịp thời này, một phần quan trọng của bức tranh tường đã được cứu và hiện đang được di dời.
Tôi cũng nhận được sự ủng hộ to lớn từ các chuyên gia và nghệ sĩ. Một nhóm kiến trúc sư đã thực hiện khảo sát bức tranh tường, thảo luận về các phương án kỹ thuật để di dời nó. Nghệ sĩ Nguyễn Tấn Sơn, người đứng đầu Dự án Nghệ thuật công cộng Phúc Tân, đã giúp tìm ra địa điểm mới cho bức tranh. Ông cũng đề xuất một kế hoạch nhằm tái tạo phần tranh bị phá hủy theo cách cho phép phân biệt nó với bản gốc. Một kỹ sư đồng thời là người bạn thân từng đồng hành cùng tôi cải tạo một số biệt thự Pháp ở Hà Nội đã phụ trách quản lý hậu cần cho việc di dời. Và như thường lệ, tôi nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của các nhà báo với sáng kiến bảo vệ di sản này.
Đối với công chúng nói chung, tôi rất vui mừng khi thấy sự hồi sinh của áp phích tuyên truyền trong cuộc chiến chống Covid-19. Một lần nữa, khi đất nước đang bị đe dọa, nhiều nghệ sĩ đã lấy cảm hứng từ đặc trưng của phong cách hiện thực xã hội chủ nghĩa để đưa ra những thông điệp giúp bảo vệ người dân khỏi mối đe dọa mới này. Những tấm áp phích có thể được nhìn thấy ở khắp mọi nơi và được báo chí quốc tế khen ngợi. Và, cũng như thuở khó khăn gian khổ, chúng đã góp phần đưa Việt Nam vươn lên chiến thắng.
Tôi chỉ có thể hy vọng rằng sau khi được di dời tới địa điểm mới, bức tranh tường ý nghĩa của họa sĩ Trường Sinh sẽ mãi nhắc nhở người Hà Nội về những giá trị chung của tinh thần lao động, tinh thần đoàn kết và lòng yêu nước.”