Nhiều thành phố ở Việt Nam vẫn đang lúng túng về cách thức bảo tồn và phát huy di sản đô thị. Việc lúng túng là điều dễ hiểu vì có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm di sản cũng như tác động của chúng đối với chính sách quản lý đô thị. Những quan điểm đó có thể được nhóm thành ba cách tiếp cận chính: lịch sử, xã hội và kinh tế.
Chú thích:
* Bài trả lời phỏng vấn với nhà báo Đào Mai Trang, được đăng trên báo Nhân Dân ngày 22 tháng 4 năm 2022.
Trong cách tiếp cận lịch sử, di sản bao gồm một số tòa nhà hoặc nhóm tòa nhà cụ thể, nổi bật bởi phong cách kiến trúc đặc biệt hoặc do các sự kiện quan trọng đã diễn ra ở đó. Từ góc độ này thì Văn Miếu và Nhà hát Lớn Hà Nội rõ ràng đã đủ tiêu chuẩn để trở thành di sản.
Cách tiếp cận xã hội nhấn mạnh cảm thức về nơi chốn, quan trọng là điều gì làm cho một thành phố trở nên đặc biệt. Ví dụ, những vỉa hè sống động, những con đường rợp bóng cây, những hồ nước yên bình và những bức tường màu vàng là đặc trưng của Hà Nội. Không có đặc điểm nào trong số này là đáng chú ý nếu xét riêng lẻ. Nhưng cùng nhau, chúng định hình nên tính cách của thành phố.
Cuối cùng, trong cách tiếp cận kinh tế, di sản quan trọng vì nó làm cho các thành phố trở nên đáng sống và thịnh vượng hơn. Giá đất ở các thành phố giàu cá tính cao hơn các thành phố nhạt nhẽo. Và các thành phố có cá tính sẽ đặc biệt hấp dẫn đối với những người làm công việc sáng tạo (nghệ sĩ, nhà nghiên cứu, doanh nhân…), những người đóng góp cho sự năng động của đô thị.
Cả ba cách tiếp cận đều có ý nghĩa nhất định, nhưng cách tiếp cận kinh tế được cho là bao trùm nhất. Một lịch sử được bảo tồn tốt hay một cảm giác đặc biệt về nơi chốn chỉ là những cơ chế cụ thể mà thông qua đó di sản làm tăng giá trị cho một thành phố.
Chính sách quản lý di sản ở Việt Nam được truyền cảm hứng rất nhiều từ cách tiếp cận lịch sử. Có danh sách các tòa nhà nổi bật và chủ sở hữu không được phép phá dỡ, ít nhất là cho đến khi chính phủ có đủ nguồn lực để cải tạo chúng. Nhưng điều này thường mất nhiều thời gian đến mức các tòa nhà trở nên xuống cấp và cuối cùng bị phá bỏ vì lý do an toàn.
Cách tiếp cận này cũng không công bằng đối với chủ sở hữu của các tài sản trong danh sách. Những người hàng xóm của họ có thể sửa sang nhà cửa và cải thiện điều kiện sống, hoặc họ có thể bán chúng cho các nhà đầu tư để kiếm tiền. Nhưng những chủ nhân trong danh sách di sản không thể làm gì khác hơn là chờ đợi.
Bên cạnh đó, cách tiếp cận lịch sử không có nhiều hiệu quả trong việc bảo tồn cảm giác về nơi chốn, bởi vì danh sách di sản tương đối ngắn và bất cứ ngôi nhà nào không nằm trong danh sách đó đều có thể bị phá bỏ hoặc sửa đổi. Điều này có thể không góp phần làm tăng giá đất hay thu hút nhân tài. Một vài tòa nhà rải rác trong thành phố được cải tạo lại đẹp đẽ không đủ để tạo ra bầu không khí đô thị, nếu mọi thứ khác đều thiếu bản sắc.
Tôi tin rằng chính quyền thành phố nên tạm thời dừng lại và suy nghĩ xem điều gì khiến thành phố của họ trở nên đặc biệt. Ngoài danh sách ngắn các tòa nhà đáng chú ý, họ cũng nên nghĩ đến các đặc điểm đô thị mà người dân địa phương yêu thích, cũng như cách tận dụng chúng để thu hút khách du lịch đến thăm và thu hút những người làm công việc sáng tạo chuyển tới sinh sống.
Trên hết, chính quyền thành phố nên nghĩ rằng di sản của họ không phải là gánh nặng mà họ phải đối phó, mà là tài sản mà họ nên cố gắng tối đa hóa lợi nhuận. Họ không nên đóng vai trò là người quản lý bảo tàng, mà là những nhà đầu tư chiến lược biết cách tận dụng tối đa khối tài sản đặc biệt thừa hưởng từ tổ tiên của mình.
Hơn nữa, đặt tất cả gánh nặng bảo vệ di sản vào ngân sách Nhà nước là không công bằng và không khôn ngoan. Điều này không công bằng bởi vì ngân sách còn có nhiều ưu tiên quan trọng khác, chẳng hạn như cung cấp nền giáo dục có chất lượng tốt, hoặc hệ thống y tế với chi phí hợp lý. Những ưu tiên này có thể quan trọng hơn bảo tồn di sản, đặc biệt là đối với người nghèo.
Điều này là không khôn ngoan bởi trong nhiều trường hợp, việc bảo tồn có thể chỉ sinh lời cho khu vực tư nhân. Nếu các nhà đầu tư sẵn sàng trả tiền để bảo vệ di sản thì sẽ tiết kiệm hơn cho nguồn lực của chính phủ. Đây là lý do tại sao việc khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào công cuộc bảo vệ di sản là quan trọng.
Trong một số trường hợp thì việc thực hiện điều này khá đơn giản. Hãy xem xét trường hợp khách sạn Metropole ở Hà Nội. Cải tạo nơi này theo phong cách sang trọng đã mang lại lợi nhuận, bởi nó thu hút khách thượng lưu. Đây là một chủ trương rất đúng đắn khi nhà đầu tư được phép xây một khu vực mới nhưng phải cam kết bảo tồn và khôi phục phần khách sạn cũ.
Những thỏa thuận tương tự có thể được xem xét khi các cơ quan bộ ngành Nhà nước để lại trụ sở của họ ở trung tâm Hà Nội để chuyển ra xa hơn. Một số bộ này được bố trí trong các tòa nhà tráng lệ kiểu Pháp. Các khu đất của họ chỉ nên giao lại cho những nhà đầu tư cam kết sẽ cải tạo các tòa nhà kiểu Pháp, đồng thời tích hợp chúng vào các dự án của họ.
Một số trường hợp nhiều thách thức hơn khi động cơ của khu vực tư nhân không hài hòa với lợi ích công cộng. Ví dụ, một nhà đầu tư có thể tìm kiếm lợi nhuận từ việc phá bỏ một ngôi nhà truyền thống trong khu phố cổ và xây dựng một khách sạn mới thay vào đó. Nhưng nếu mọi người đều làm như vậy thì cuối cùng không còn khu phố cổ nào nữa. Người Hà Nội có thể mất hứng thú với khu vực này và khách du lịch nước ngoài cũng không còn muốn đến thăm nữa. Vì vậy, tất cả mọi người đều bị thiệt!
Để cân bằng các lợi ích của khu vực tư nhân với các mục tiêu xã hội đòi hỏi phải có sự kết hợp của nhiều biện pháp hỗ trợ và chế tài. Về mặt chế tài, cần có quy định rõ ràng nhằm hạn chế thiệt hại có thể có (chiều cao công trình, kiểu dáng thiết kế, vật liệu xây dựng…). Về mặt khuyến khích, có thể xem xét miễn thuế cho các dự án chú trọng bảo tồn di sản.
Những ý tưởng này có thể áp dụng cho trường hợp của nhà máy POSTEF cũ tại số 61 phố Trần Phú. Tôi hình dung đây là một dự án mang lại lợi nhuận cao, nhưng rõ ràng là nó không quan tâm tới bảo tồn di sản. Tòa nhà thấp tầng kiến trúc Pháp bao quanh khu đất đó có thể không đủ tiêu chuẩn để trở thành di sản theo cách tiếp cận lịch sử, nhưng nó góp phần tạo nên cảm thức về nơi chốn cho một trong những khu phố đặc biệt nhất và có giá trị nhất của Hà Nội.
Lợi nhuận của khu vực tư nhân và lợi ích xã hội có lẽ đã có thể được cân bằng tốt hơn. Tương tự như thương vụ khách sạn Metropole, chủ đầu tư có thể xây dựng một tòa nhà mới bên trong khối nhà, nhưng đổi lại, họ phải cam kết cải tạo và nâng cấp tòa nhà thấp tầng kiểu Pháp bao quanh khu phố. Làm như vậy sẽ tránh phá hỏng nét độc đáo của khu phố.
Hơn nữa, có thể cải tạo những tòa nhà thấp tầng kiểu Pháp thành các cửa hàng bán lẻ cao cấp ở mặt phố, các quán bar và nhà hàng ở phía trong, đồng thời tạo ra lối vào trang nhã cho tòa nhà mới bên trong. Bằng cách này, dự án thậm chí có thể sinh lời nhiều hơn cho nhà đầu tư.
Trên thực tế, có vẻ đơn giản khi nghĩ rằng di sản là một tài sản, và nhiệm vụ của chính quyền địa phương là quản lý nó một cách khôn ngoan như một nhà đầu tư giỏi. Nhưng việc xác định rõ ràng các yếu tố nào tạo nên tài sản này có thể khó hơn. Chính xác thì chính quyền địa phương nên tập trung vào điều gì, ngoài những tòa nhà cụ thể với giá trị kiến trúc hay lịch sử rõ ràng?

Vỉa hè của công trình kiến trúc Pháp tại số 61 Trần Phú
Mục tiêu của dự án do tôi quản lý tại Trung tâm Phát triển bền vững đô thị giúp trả lời câu hỏi này. Trung tâm sẽ thực hiện các nghiên cứu, và kết quả nghiên cứu có thể giúp chính quyền địa phương đưa ra quyết định về các vấn đề liên quan đến di sản. Và điều này được thực hiện bằng cách dựa vào các công cụ phân tích hoặc kinh tế học đô thị, vốn là một ngành nghiên cứu chuyên nghiệp rất sôi động trên toàn cầu.
Ví dụ, chúng tôi đang chuẩn bị thực hiện một nghiên cứu nhằm chỉ ra mối liên hệ giữa giá bất động sản (tính bằng triệu đồng trên mét vuông) không chỉ với đặc điểm riêng của bản thân bất động sản mà còn với đặc điểm chung của khu vực lân cận. Tất cả chúng ta đều biết rằng bất động sản lớn hơn và có chất lượng tốt hơn sẽ có giá trị cao hơn. Nhưng giá trị của chúng cũng phụ thuộc vào mức độ dễ tiếp cận, hay độ phủ xanh và các yếu tố di sản xung quanh.
Nghiên cứu này sẽ kết hợp dữ liệu về giá nhà ở và các đặc điểm từ các cuộc điều tra hộ gia đình, cùng thông tin về đặc điểm của khu vực lân cận, lấy từ các nguồn lưu trữ hành chính, bản đồ lịch sử và dữ liệu không gian địa lý. Kết quả sẽ là một mẫu đại diện cho hàng nghìn bất động sản của Hà Nội, với thông tin không chỉ về diện tích, số phòng, phong cách kiến trúc, mà còn mô tả số lượng các tòa nhà lịch sử tôn giáo xung quanh, phần diện tích chung được bao phủ bởi hồ nước và cây xanh.
Dự án này vẫn đang trong quá trình thực hiện, nhưng tôi tin chắc rằng việc phân tích chặt chẽ theo cách tiếp cận kinh tế đối với di sản sẽ vô cùng quý giá khi Việt Nam hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao. Một quốc gia với những thành phố sôi động nhưng cũng đáng sống và quyến rũ giống như Hà Nội ngày nay.