N
guyễn Khuyến (1835-1909) tên thật Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự Miễn Chi. Ông sinh tại quê ngoại ở làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, nay là huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Từ nhỏ, Nguyễn Thắng đã rất hiếu học. Có lần, thấy con vừa nhảy lò cò bên chõng tre, vừa thỏ thẻ đọc một bài trong Kinh Thi, ông đồ Huy (Nguyễn Tông Khởi) ngạc nhiên lắm, gọi Thắng lại hỏi: “Con đọc cái gì thế? Giảng nghĩa cha xem nào?”.
Thắng thưa: “Đấy là bài học trong Kinh Thi, cha dạy mấy anh học mà.”
Thầy Huy vừa thích thú, vừa cảm động bảo: “Con học lỏm mà nhớ như vậy là tốt. Từ mai, cha cho con một tập giấy, một cái bút mà viết, không phải viết bằng gạch non nữa.”
Từ đó, Thắng cặm cụi tập viết. Cậu bé học đến quên ăn, quên mọi việc diễn ra xung quanh. Một ngày, Thắng có thể đọc thuộc mấy chục trang. Ông đồ mừng lắm, cho cậu bé vào học cùng các bạn trong lớp.
Do cảnh nhà thanh bần, chẳng có nổi đèn để học, cậu phải noi theo gương người xưa. Những đêm trăng tỏ, Thắng đọc sách dưới ánh trăng. Những hôm trăng mờ, cậu mang sách ra bờ ao, nghiêng theo ánh sáng phản chiếu mà học. Vậy, những đêm không trăng thì sao?
Một chiều đi mua giấy về, Nguyễn Thắng ngồi nghỉ ở gốc cây cổ thụ dưới miếu đầu thôn. Thấy lá vàng trên cây rơi lả tả, cậu liền nghĩ ra cách đốt lá làm đèn học.
Từ đêm đó, những khi không có trăng sao, Nguyễn Thắng mang sách ra miếu, đốt lá học. Sau đó, cậu còn rủ nhiều bạn cùng học với mình.
Thấy con chăm chỉ, chữ nghĩa thông tuệ, thầy đồ Huy bèn gửi cho người bạn dạy, xem thử trí tuệ con trai thực sự ra sao.
Tương truyền, khi mới vào học, thấy Thắng nhỏ tuổi, nhiều bạn trong lớp tỏ vẻ coi thường. Nhưng rồi bằng trí tuệ, Thắng đã khiến các bạn phải tâm phục, kiêng nể.
Việc học không hề đáng sợ Năm Quý Sửu (1853), biến cố bất ngờ ập xuống gia đình Nguyễn Thắng, khi cha ông bị bệnh qua đời. Cảnh nhà vốn khó khăn, nay lại thêm tiêu điều, xơ xác.
Nguyễn Thắng bấy giờ đã trưởng thành, phiêu bạt nay đây mai đó. Ông vừa đèn sách tự học, vừa đi dạy để đỡ đần gia đình. Ông ghi tên thi Hội nhưng thi lần đầu không đỗ, ông ngồi nghĩ về cảnh buồn phiền của cuộc đời mình. Do cảnh nhà túng quẫn, ông phải chạy vạy, lo toan cuộc sống qua ngày nên không có thời gian tập trung học tập. Nghĩ vậy, Nguyễn Thắng viết đi viết lại tên mình. Ông lẩm bẩm một mình: “À, chữ Thắng trong tên mình có chữ ‘lực’. Chữ lực nhỏ gọi là tiểu lực. Nỗ lực chưa cao thì làm sao đỗ đạt.” Nguyễn Thắng soát lại trong đầu xem chữ nào có lực lớn và cuối cùng ông dừng lại ở chữ Khuyến. Ông thầm nghĩ, đổi tên thành Nguyễn Khuyến và phải nỗ lực học tập cho đến khi đỗ đạt cao mới thôi.
Quả thực, với sự nỗ lực không mệt mỏi, năm 1864, Nguyễn Khuyến thi Hương đỗ Giải nguyên; năm 1871 thi Hội đỗ Hội nguyên và thi Đình đỗ Đình nguyên. Cả ba lần đi thi, ông đều đỗ đầu, được gọi là “Tam nguyên Yên Đổ”.
(Nguồn, hình ảnh: Sưu tầm)
Bài học trưởng thành
Trong lịch sử Việt Nam có rất nhiều tấm gương hiếu học mà Nguyễn Khuyến là một ví dụ điển hình. Với tinh thần hiếu học hiếm có, ông đã vượt qua nghịch cảnh của cậu học trò nghèo để đỗ đầu cả ba kỳ thi. Câu chuyện đốt lá đọc sách của Nguyễn Khuyến chắc chắn sẽ khiến cho những ai đang sống trong cảnh ngộ khó khăn càng thêm vững tin để theo đuổi việc học.