• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Vùng đất thiêng
  3. Trang 12

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • Sau

9

9. Suốt hai, ba năm liền sau giải phóng, đồng bào Bom Bo - Đắk Nhau chật vật khai phá đất đai, nương rẫy và tích cực tăng gia sản xuất dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng với chính quyền địa phương. Người dân bắt đầu làm quen với cuộc sống định canh - định cư và lối sản xuất tập trung, tương trợ theo tập đoàn, theo hợp tác xã thí điểm. Những gia đình sống theo mẫu hệ chung trong nhà dài được tách hộ. Đồng bào sống trong vùng sâu, nương rẫy được vận động tập trung ra ngoài mặt đường theo cụm dân cư. Trẻ em được tự do cắp sách đến trường. Người dân được Nhà nước quan tâm, hỗ trợ lương thực trong những giai đoạn đợi mùa giáp hạt. Phong trào văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao và các tổ chức đoàn thể dần phát triển. Đời sống tinh thần người dân ngày càng được cải thiện.

Chung tay xây dựng và hàn gắn vết thương chiến tranh cùng địa phương, Điểu Lên luôn là mũi xung kích đi đầu. Từ Phó Bí thư huyện đoàn Phước Long đến Đảng ủy viên Đảng ủy C2 của K28, anh tham gia tất cả các cuộc tuyên truyền, vận động, góp phần xóa bỏ những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan và ngăn chặn âm mưu chống phá chính quyền cách mạng của bọn phản động.

Điểu Lên được phân công về làm Bí thư Đảng ủy xã Rạch.

Khó khăn nối tiếp khó khăn. Do thói quen của tập tục du canh du cư đã ăn sâu từ lâu đời và bị những phần tử xấu kích động, xúi giục nên những hợp tác xã thí điểm tiến hành cũng không mấy thuận lợi. Việc có thể làm được trong thời điểm này là vận động nguồn lương thực, thực phẩm mà đồng bào thu hoạch được bán vào nơi thu mua nông sản ở địa phương và tuân thủ nguyên tắc phân phối hàng tiêu dùng theo tem phiếu. Nhưng việc phân phối hàng tiêu dùng theo tem phiếu lại là cơ hội để con buôn trục lợi.

Lúa, khoai, đậu, bắp của dân làng bị những thương buôn từ miền xuôi lên thu mua với giá rẻ mạt bằng cách bán đổi những vật dụng mà họ tính với giá cắt cổ. Họ thuê mướn một số nam nữ thanh niên đua đòi ăn diện theo lối sống của người miền xuôi, lén lút vận chuyển hàng hóa đi đường rừng để vượt qua khỏi trạm thuế vụ.

Căn nhà lá nho nhỏ nằm cạnh khu dân cư gần suối Đắk Nhau, dường như ngày nào cũng có mấy chiếc gùi đi cửa hàng hợp tác xã mua bán về ghé qua. Bà Tư Mập chỉ việc ngồi rung đùi quan sát thằng Tí Sẹo lôi từ trong gùi ra từng hộp sữa bò, từng cân đường, đậu hay vài bao thuốc lá cho đến hộp diêm, cục xà phòng... rồi bà rút ra một ít tiền với sự tính toán kỹ lưỡng gọi là có lãi hơn so với giá phân phối của hợp tác xã, đặt vào tay người chủ chiếc gùi. Cứ cách vài ngày, đến chạng vạng tối là nhỏ em kết nghĩa có quan hệ thân thiết với cán bộ bán hàng mang đến cho bà vài cây thuốc ba số hoặc Capstan.

Thi thoảng, cán bộ quản lý thị thường cũng đến kiểm tra. Bà biết có cả công an và du kích địa phương cài vào, lấy cớ kiểm tra để bắt hàng của bà. Còn non tay lắm, họ làm sao qua mắt được cái kinh nghiệm từng trải từ miền xuôi lên miền ngược của bà. Chỉ có mớ kẹp cài, sợi màu, chuỗi cườm và một ít lương thực bà đổi được của dân làng như đậu, mè, gạo, bắp hoặc vài mảnh vỏ bom, vỏ lon và vỏ chai mà thôi. Rủi có gặp vài người dân đi hợp tác xã về ghé vô là bà nhanh trí đánh lạc hướng bằng cách vồn vã, gọi mời để họ giả vờ xem và trả giá những vật dụng bà đang bày bán. Vậy là bà đã đánh lừa được đối phương.

Sau khi nắm được tình hình, một lực lượng phối hợp gồm công an, du kích và cán bộ quản lý thị trường phục sẵn xung quanh căn nhà Thị Gái mà bà Tư Mập ở nhờ để thu mua ve chai và đổi hàng. Mấy chiếc gùi trong nhà đã được lần lượt nằm gọn trên lưng của những gã làm thuê. Tí Sẹo he hé cánh cửa, dáo dác đảo cặp mắt ti hí mấy vòng xung quanh cái màn đêm đầy bí ẩn rồi đưa một tay vào trong ra hiệu. Nó vừa lách người ra ngoài để đẩy cánh cửa cho đoàn vận chuyển xuất phát thì đã bị một chiến sĩ khóa chặt hai tay. Nó vùng vẫy và la lớn “có báo!” rồi định dùng cái đầu và hai chân tiến công đối phương nhưng đã muộn, sau khi nó ngã quỵ với tư thế hai tay gập ra sau lưng thì chiếc còng thứ hai đã khóa chặt hai chân nó vào nhau. Bà Tư Mập thấy mấy thằng gùi thuê đã nhanh chân thoát thân theo lối thoát dự phòng của bà thì lăn xả vào bù lu, bù loa để cản trở các chiến sĩ tiến hành kiểm tra. Bà chưa kịp giở hết các món vũ khí của chiêu ăn vạ ra thì mấy thằng vô dụng kia đã lần lượt hạ những cái gùi chứa tiền của bà xuống theo mệnh lệnh. Cái cục tức nó cứ anh ách trong cổ họng, khiến nọng mỡ dưới cổ bà nặng trình trịch. Vỡ chuyến này quá nặng, bởi toàn của quý. Bà nuối tiếc nhìn những chiếc vòng bạc, ngà voi, nanh hổ bị lần lượt được lôi ra khỏi gùi. Những món này bà chỉ bỏ ra một phần trăm giá trị của nó là đã sở hữu được nó. Đường, thuốc lá, đậu, mè cũng lần lượt bị lôi hết ra. Thôi thì đành chấp nhận thua keo này ta bày keo khác vậy. Bà cầu trời khấn phật độ trì và che mắt lực lượng chức năng để mai bà còn có cái mang về gỡ vốn. Chẳng có trời phật nào nghe thấu lời cầu xin của bà. Tất cả những gì còn lại đều bị lôi hết ra, mặc dù nó được bà giấu thật kỹ lẫn vào trong gạo, trong áo gối và cả trong bọc đồ lót phụ nữ của bà. Chỉ cần qua khỏi đêm nay, sáng mai thì những thứ này sẽ được bà dúi vào tay mấy gã đàn ông cùng chuyến xe để vượt trạm thuế vụ. Qua khỏi trạm thuế vụ một quãng là tất cả số hàng trong những chiếc gùi kia cũng được tập kết lên xe theo bà về Sài Gòn. Bà bắt đầu khóc rấm rức, không phải kiểu khóc ăn vạ mà là khóc thật sự. Những giọt nước mắt tiếc của, tiếc tiền cứ giàn giụa tràn ra hai gò má béo xệ. Bà không còn thấy đường ký tên nữa mà chỉ đánh dấu chữ thập vào phía dưới biên bản, nhưng cái đầu của bà đã có hướng chuyển địa bàn khác làm ăn.

Những ổ buôn lậu như bà Tư Mập lần lượt bị phá. Những người dân bị con buôn mua chuộc để vận chuyển hàng buôn lậu cũng lần lượt được giác ngộ, chí thú làm ăn. Tuy vậy, mánh khóe của bọn buôn lậu thì không thể nào ngăn chặn được. Chúng vẫn luồn lách mua bán, đổi chác theo hướng nhỏ lẻ để tồn tại.

***

Bà Dệt và Bơ Rơi vừa bày xong bàn tiệc nho nhỏ cho bữa tối thì Điểu Lên về. Ông già Đắt và người con đặc biệt của Bom Bo cứ bị dân làng vây lấy từng tốp, từng tốp khi gặp nhau trên đường. Một chuyến thăm bất ngờ của người nhạc sĩ năm xưa đã mang về bao hồi ức khó quên giữa những tấm chân tình thật thà, chất phác. Dân làng thỏa nguyện, lớp trẻ thì thỏa tính tò mò và lòng ngưỡng mộ. Ngoài buổi giao lưu cùng cộng đồng dân sóc thì ông dành thời gian đi thăm những người già, bạn bè chung trận tuyến, những anh hùng giã gạo nuôi quân và những nơi đã lưu dấu từng kỷ niệm. Sáng mai ông trở về Sài Gòn nên lúc này gặp nhau trên đường cũng là cơ hội để ông cùng bà con dân làng nói lời tạm biệt.

Bữa tối có đầy đủ hương vị của núi rừng, có cả dư âm ấm nồng thời ngủ hầm, đói cơm, lạt muối. Món cá nướng chấm muối ớt vẫn đượm nồng cái vị ngon nhon nhón thời thiếu muối. Hạt cơm lam dẻo thơm, trắng ngần vẫn âm ấm hơi bàn tay rám nắng, tần tảo, trong tiếng chày giã gạo. Mùi thịt nướng thơm giòn của giống gà thả vườn vàng hương bắp. Đĩa nhíp xào xanh ngọt cứ lấp lánh cái hình ảnh người con hiếu thảo trong truyền thuyết xa xưa. Men rượu cần ngây ngất cái hương vị ngọt, thơm, cay, nồng, thắm đượm ân tình của núi rừng tinh túy.

Những món ngon cứ lần lượt theo đũa ông già Đắt và Điểu Lên đi vào chén của Xuân Hồng với những lời thúc giục:

- Ăn đi, không thì đêm nằm lại đói.

Xuân Hồng chợt nhớ những đêm nằm hầm ẩm ướt, già Đắt còn cởi cả áo để đắp cho ông với lý do là già đã quen sương gió của núi rừng. Cái tình của người đồng bào đã trói chặt lòng ông từ dạo đó.

- Lâu lắm rồi anh mới về nên ăn nhiều một chút. Đây toàn là những món mà anh thích. Mai mốt nhớ về thăm dân sóc nhiều hơn.

Cái khó khăn của thời bao cấp này thì đâu đâu cũng ngát mùi cơm độn. Vậy mà mấy hôm nay, nhà nào cũng đón ông bằng bữa cơm trắng dẻo thơm. Ai ai cũng xem ông như một người con của sóc đi xa giờ về lại thăm nhà, đặc biệt là gia đình Điểu Lên và già Đắt. Người nữ anh hùng giã gạo nuôi quân ngày ấy giờ già và ốm đi rất nhiều. Vậy mà bà Dệt vẫn xuống bếp phụ Bơ Rơi nấu những món mà ông thích. Người chiến sĩ trẻ năm xưa kém ông đến mười mấy tuổi, giờ mới hơn ba mươi mà đã rắn rỏi cái phong trần màu nắng gió của núi rừng. Ông biết Điểu Lên cùng quân dân Bom Bo - Đắk Nhau đang gánh vác một trách nhiệm nặng nề giữa cuộc chiến mới này. Vết thương chiến tranh cũ chưa lành, đời sống người dân còn kham khổ mà giờ phải đương đầu với nạn FULRO và những cuộc xâm lấn biên giới Tây Nam nước ta của tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari. Ông lại chuyền thức ăn vào hai chén đối diện.

- Ông già phải ăn nhiều mới đủ dẻo dai mà dẫn đường cho bọn trẻ. Còn đồng chí Điểu Lên lại càng phải ăn cho đủ sức để còn tiếp tục chiến đấu nữa chứ.

Những tiếng cười giòn vang khi họ nhìn thấy chén ai cũng đầy. Dường như họ không ăn được mấy, vậy mà lòng vẫn thấy no. Họ cũng chẳng uống được bao nhiêu, vậy mà cả ba đều ngà ngà, chuếnh choáng. Họ cùng nhau dìu già Đắt về nhà rồi quay lại. Cái bàn thức ăn lúc nãy đã thay bằng một ấm trà và mấy cái chung.

Điểu Lên nhấc ấm trà, châm thêm nước vào chung của Xuân Hồng:

- Bà con dân sóc ai cũng rất nhớ anh, khi nào sắp xếp được công việc thì lại về anh nhé.

Xuân Hồng vỗ vỗ vào vai Điểu Lên:

- Anh sẽ về thường xuyên hơn, bởi vì đây cũng là quê hương của anh mà. Nhưng chú phải nhớ, khi nào có điều kiện thì tìm một loại gỗ quý rồi khắc một bức tượng của hai anh em mình ôm nhau, chú cầm súng còn anh thì cầm sách. Khắc xong, tìm nơi nào thích hợp ở Bom Bo rồi đặt anh em mình đứng đó chú nhé. Nhưng cứ đợi khi nào Bom Bo sạch bóng bọn FULRO và Pôn Pốt đã. Anh tin tưởng Bom Bo mình sẽ sớm đón mừng ngày chiến thắng.

Họ lại khoác vai nhau trong tiếng cười sảng khoái và cùng bước theo bao cảm xúc giữa trời đêm.

Bơ Rơi dậy thật sớm nấu bữa ăn sáng rồi kiểm tra lại mấy món đồ của bà con dân làng chiều hôm qua mang đến để làm quà cho Xuân Hồng. Cô bỏ mười mấy con gà vào hai cái bu, buộc lại túi đậu xanh và mè cho cẩn thận. Ngày ấy cô gọi Xuân Hồng bằng chú bởi chú ấy là anh em của vớp và may, nhưng giờ thì cô gọi bằng anh theo chồng. Nghe đâu giờ anh ấy là Trưởng phòng Nghệ thuật Sân khấu Sở Văn hóa, Phó Chủ tịch Hội văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh gì đó. Chắc nhiều việc cần đến anh lắm nên anh phải về gấp, chứ bà con dân sóc ai cũng muốn giữ anh ở lại thêm vài ngày nữa.

Xuân Hồng nhìn Điểu Lên cùng phụ xe mang nào gà, nào đậu, nào mè bỏ xuống thùng xe mà cảm kích vô cùng. Đó là tấm lòng của bà con Bom Bo chia sẻ cùng ông. Ông đón nhận những tấm lòng còn nặng oằn khó khăn gian khổ mà không nỡ mở lời từ chối. Từ chối nghĩa là không thật lòng, là tự tách rời mình ra khỏi cộng đồng dân sóc. Mà từ lâu ông đã xem mình chính là một người con của đồng bào S’tiêng ở vùng miền Đông Nam Bộ này rồi. Ông bước lên xe theo tiếng còi thúc giục mà bàn tay Điểu Lên vẫn còn siết chặt.

- Anh về nhé. Nhớ sớm trở lại thăm bà con. Cả sóc đợi anh đó.

- Anh nhớ rồi. Tạm biệt chú cùng bà con dân sóc mình nhé.

Xuân Hồng vẫn ngoái nhìn người anh em đứng ở vệ đường với bàn tay vẫy vẫy cho đến khi chỉ còn là cái chấm nhỏ rồi mất hút ở cuối đường.

Xuân Hồng ngồi gần cửa xe nên cứ ngoảnh mặt nhìn ngược lại phía sau. Con đường này mấy hôm trước đã đưa ông về lại miền đất xưa với những cung bậc cảm xúc đầy xuyến xao khó tả. Ông hồi hộp trong chờ đợi rồi bồng bềnh trong những ký ức, những kỷ niệm ở cái vùng đất thiêng mà ông đã gắn một phần đời của mình vào đó. Ông gọi là vùng đất thiêng bởi nơi đó có rất nhiều truyền thuyết mang yếu tố thần thoại trong cõi thần tiên, nhưng lại gần gũi và gắn liền với cỏ cây, sông suối, núi đồi, danh lam thắng cảnh quanh đời sống thực tại của đồng bào S’tiêng và mang đậm tính nhân văn. Bởi ở nơi núi rừng heo hút đó, cỏ cây hiền hòa biết bảo vệ và nuôi sống đồng bào, chiến sĩ; biết biến thành vũ khí để chống lại kẻ thù. Bởi ở vùng đất ngày đêm oằn mình dưới mưa bom, bão đạn ấy, mầm sống vẫn ấp ủ, rạo rực từ trong lòng đất rồi vụt hồi sinh mãnh liệt và hóa thành hoa lửa soi đường cho bước tiến của quân ta. Bởi ở đó có những con người đã đi vào huyền thoại và sống mãi theo thời gian. Cái vùng đất thiêng thắm đượm nghĩa tình và lập nên bao kỳ tích ấy như cứ muốn níu giữ bàn chân ông trên mỗi lối về …

Lối về vùng đất thiêng

Có người dân thảo hiền

Có hương rừng say đắm

Nhớ hoài điệu cồng chiêng

Lối về miền đất xưa

Vẳng giọng ai hát đùa

“Hỡi chàng trai ngày ấy

Biết hôn nàng hay chưa”

Đuốc lồ ô mãi còn

Bập bùng sáng trong thôn

Tiếng chày khuya mãi giòn

Nhịp nhàng khắp làng buôn

Ta về tìm lại ta

Giữa vòng tay thật thà

Đồng đội chung trận tuyến

Nay quãng đường bớt xa

Sóc anh hùng giờ đây

Đón niềm vui đong đầy

Tình quân dân đượm thắm

Như đất thở cùng cây.