• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Vùng đất thiêng
  3. Trang 13

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 12
  • 13
  • Sau

10

10. Điểu Lên quay về thì cả nhà đã đông đủ bên bàn nước. Ông già Đắt vẫn mặc chiếc áo mà Xuân Hồng tặng bữa mới về làng. Bà Dệt thì vừa cười vừa nói:

- Xuân Hồng cứ cầm tay tui nói đi nói lại cái câu: “Ôi bà già, già quá rồi!”. Kêu tui phải ráng giữ gìn sức khỏe, lần sau ổng về thăm sẽ mua thuốc bổ cho tui.

Ông già Đắt càng vui hơn:

- Chỉ có một mình tui là được món quà đặc biệt, bởi vì Xuân Hồng lúc nào cũng nhớ đến tui.

Thấy hai ông bà già vui quá, Bơ Rơi cũng chen vào:

- Anh Xuân Hồng về đây thăm mình chính là món quà quý nhất rồi. Anh Lên phải nhớ và làm theo những gì mà anh Xuân Hồng dặn dò, để lần sau anh ấy về sẽ thấy vui hơn.

Điểu Lên chỉ cười, nhưng anh vẫn nhớ tất cả những lời dặn dò, động viên, khích lệ của người anh đáng kính ấy. Nhất là “Phải quyết thắng trận chiến mới này để bà con dân làng mình được sống trong hòa bình và ấm no thật sự”.

***

Vết thương chiến tranh cũ chưa lành, một số phần tử FULRO và ngụy quân ngụy quyền trốn cải tạo vẫn chưa từ bỏ âm mưu phá hoại Đảng. Chúng móc nối với nhau, lôi kéo thêm một số con em người đồng bào rồi tổ chức gây rối, kích động, chống đối, đe dọa, nhiễu loạn lòng dân.

Thực hiện Chỉ thị 04 của Bộ Chính trị về việc “Giải quyết vấn đề FULRO”, cùng sự chỉ đạo của cấp ủy và chính quyền địa phương, với tinh thần giác ngộ cách mạng cao, quần chúng nhân dân Đắk Nhau - Bom Bo đã tích cực giúp lực lượng vũ trang phát hiện và bóc gỡ nhiều cơ sở phản động. Vừa tích cực tăng gia sản xuất vừa tham gia vận động, kêu gọi những tên phản động còn ẩn náu trong rừng quay về với đồng bào và chính quyền cách mạng.

Nạn FULRO vẫn còn chưa yên ổn thì tập đoàn phản động Pôn Pốt ở Campuchia đã bắt đầu thực hiện cuộc chiến tranh chống Việt Nam trên khắp tuyến biên giới Tây Nam. Nước ta rơi vào tình thế vừa hòa bình vừa có chiến tranh.

Chỉ trong thời gian ngắn từ giữa đến cuối năm 1977 mà chúng đã thực hiện âm mưu lấn đất, đốt phá trên 500 ngôi nhà, giết hại gần một nghìn người dân ở An Giang và Tây Ninh. Đồng thời chúng tiến hành xâm nhập trinh sát từ bắc Bù Đốp đến giáp Tống Lê Chân và thăm dò, lấn chiếm một số khu vực dọc biên giới của tỉnh Bình Phước với trên 58 vụ hoạt động quân sự khiêu khích (đặc biệt là ở các cửa khẩu).

Lính Khơ-me Đỏ bắt đầu gia tăng phát rừng, thâm canh thọc sâu vào vùng đất nước ta dọc theo đường biên ở Bù Đốp, Lộc Ninh. Khu vực cửa khẩu và đồn biên phòng liên tục xảy ra chiến sự. Hàng nghìn người dân ùn ùn kéo về ấp Xa Trạch đợi lệnh sơ tán.

Rạng sáng ngày 17 tháng 3 năm 1978, một trung đoàn Khơ-me Đỏ bất ngờ tiến công vào khu vực Bù Đốp (Bình Phước), đánh vào thôn 6, xã Thiện Hưng và ấp Xa Trạch, xã Hưng Phước, thảm sát 247 người dân thường, đốt phá 300 nóc nhà, biến nhiều phum sóc thành tro bụi và thiêu rụi khoảng 14 tấn lương thực.

Tỉnh ủy đã quán triệt Chỉ thị số 12-CT/TU: “Phải hết sức nâng cao cảnh giác, tăng cường lực lượng, bố phòng nghiêm ngặt, chủ động đối phó có hiệu quả khi có tình hình xấu xảy ra”. Điểu Lên họp Ban thường vụ Đảng ủy xã triển khai kế hoạch phát động và vận động đồng bào vùng Bom Bo - Đắk Nhau tích cực tham gia các phong trào thi đua tăng gia sản xuất, truy quét, ngăn chặn và phá rã tổ chức FULRO cùng các nhóm lưu manh, trộm cướp, phản động, cảnh giác cao nhằm đập tan âm mưu móc nối liên lạc của bọn FULRO với tổ chức Khơ-me Đỏ, kêu gọi thanh niên nhập ngũ đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu.

Trên khu vực Bù Đăng mà đặc biệt là Bom Bo - Đắk Nhau, bọn FULRO lẻn vào các sóc của người đồng bào để liên lạc, móc nối, xây dựng tổ chức phản động và tìm cách cung cấp thông tin, tiếp tế lương thực cho lực lượng Khơ-me Đỏ đóng trong rừng. Lực lượng vũ trang kết hợp cùng quần chúng nhân dân Bom Bo - Đắk Nhau tăng cường tổ chức các đợt truy quét, phát hiện, lật tung, đánh diệt những cơ sở ngầm của chúng vừa mới nhen nhóm trong sóc, đánh bật những toán FULRO đang giao, nhận thông tin và tiếp tế lương thực trong rừng cùng với tổ chức Khơ-me Đỏ. Đồng thời vận động con em trong độ tuổi thanh niên tham gia nhập ngũ để tăng cường lực lượng bảo vệ vùng biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế giúp nhân dân nước bạn Campuchia diệt trừ bọn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari. Thanh niên các sóc đến độ tuổi đều hăng hái lên đường nhập ngũ, tham gia vào đội quân tình nguyện Việt Nam sát cánh hỗ trợ cùng lực lượng cách mạng Campuchia giành lại chính quyền.

Sau khi kết thúc cuộc phản công thắng lợi vào mùa xuân năm 1979, một số con em của các sóc trong đội quân tình nguyện Việt Nam vẫn miệt mài truy quét bọn phản động Khơ-me Đỏ, giúp nước bạn Campuchia củng cố chính quyền cách mạng mới. Đồng thời góp phần cùng lực lượng vũ trang tỉnh nhà tăng cường tuyến phòng thủ dọc biên giới Campuchia, giữ vững an ninh quốc phòng và bảo vệ vùng biên giới Tổ quốc Việt Nam phía Tây Nam. Với tinh thần quyết tâm giữ vững an ninh, an toàn trật tự xã hội, quân dân ta đã đập tan âm mưu chống phá của kẻ thù.

***

Những khó khăn nguy hiểm cứ chồng chéo lên nhau phủ xuống thôn sóc. Điểu Lên vẫn ngày đêm tất bật với những nỗi lo. Những nỗi lo lắng ấy cứ quấn lấy ông. Ông gỡ mãi, gỡ mãi mà càng gỡ nó lại càng siết chặt hơn. Ông tháo được nút này nó lại thắt thêm nút khác.

Trên dòng suối nhỏ vắt ngang trục lộ 14, bỗng dội lên chuỗi tiếng nổ trầm, đục cùng những tiếng thét hoảng loạn từ trong bụi khói và đất đá. Người dân xung quanh, những người đi đường bắt đầu chạy dồn về phía bờ suối. Tiếng bước chân mỗi lúc càng gấp gáp hơn, tấp nập hơn. Người lớn thì mong mình đến kịp để cứu người. Con nít chỉ mong được thỏa tính tò mò.

- Nổ bom, nổ bom, nổ bom tụi mày ơi. Có người chết rồi. Nhanh, nhanh, nhanh...

Điểu Lên đang trên đường về nhà thì nghe mấy đứa nhỏ vừa chỉ trỏ vừa gọi nhau rồi chạy băng băng theo hướng ngược xuống Cầu Sập. Ông cũng quay đầu xe lại rồi gập người cố sức đạp mà chiếc xe vẫn chạy chậm rì rì. Ông vừa ngã chiếc xe đạp xuống bờ cỏ là chạy đến hiện trường ngay. Lẫn trong mùi khói bom đắng khét là mùi chát lạnh, tanh nồng từ những mảnh thịt xương nát nhừ quện vào nhau của hai mẹ con nhà Bơ Lách. Chỉ còn lại mình Điểu Krí chín tuổi cùng ba người trong gia đình Điểu Lốt đang được dân làng lấy lá rừng cầm máu cho vết thương. Ông vừa nhìn thấy chiếc xe máy của ai đó trờ tới là ông xốc vội Krí rồi đến con gái Điểu Lốt lần lượt đặt lên xe, Điểu Lốt ngồi sau cùng ôm hai đứa nhỏ cho xe chở về trạm xá. Hai người bị thương nhẹ của nhà Điểu Lốt được người dân dùng xe đạp chở đi. Số người còn lại bắt đầu tỏa ra xung quanh tìm và gom nhặt những mảnh thi thể còn vương đâu đó của mẹ con Bơ Lách để khiêng về nhà chuẩn bị làm tang ma. Điểu Lên nhìn cái dòng chảy ngổn ngang những tàn dư của vụ nổ mà lòng cứ như đang dần vỡ vụn. Lại thêm một buổi chiều ảm đạm nồng nặc mùi khói bom, máu thịt đến rợn người phủ xuống thôn sóc. Dòng nước trong xanh thường ngày đã đổi thành một màu hỗn tạp tanh lợm, đỏ ngầu. Đám lá cây, cỏ dại dập nát xác xơ còn vương mùi máu thịt cố vùng vẫy bật lên từ trong đụn khói. Cũng chính cái bờ suối này trước đó không lâu, ba đứa trẻ nghịch ngợm đã bị thiệt mạng khi chúng dùng bom bi quả ổi đã nhặt được đâu đó rồi chơi ném nhau. Những cái chết của hệ quả chiến tranh để lại trong thời bình luôn ám ảnh và là mối đe dọa tính mạng người dân, làm cho việc khai hoang phục hóa bị đình trệ khiến dân làng cứ luẩn quẩn trong nạn đói khổ.

Điểu Lên cùng một số cán bộ dân vận đến từng nhà để vận động đồng bào tham gia các lớp “Giáo dục nguy cơ bom mìn” và tăng cường lực lượng quần chúng cùng bộ đội, du kích tích cực rà phá, tháo gỡ bom mìn, san lấp hố bom. Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”. Mặt khác, hỗ trợ nạn nhân bom mìn và cứu nạn, cứu đói kịp thời.

Trên thôn sóc, thỉnh thoảng vẫn còn những tiếng nổ bí ẩn vô tình cướp đi sinh mạng của người dân lam lũ. Cuộc sống hòa bình và ấm no thật sự, vẫn còn là nỗi trăn trở giữa muôn vàn khó khăn và bộn bề chướng ngại.

***

Gạo, tiền và muối là ba loại vũ khí lợi hại nhất trong cuộc cách mạng văn hóa - tư tưởng mà những phần tử cơ hội đã biết sử dụng đúng thời điểm để đánh vào lòng dân. Chúng mua chuộc được bà Bóng ở ngã ba Minh Hưng để làm cơ sở giao dịch của chúng. Bà Bóng là chiếc cầu nối giữa dân sóc cùng thần thánh và ma quỷ trong thế giới tâm linh. Từ việc cậy nhờ bà Bóng cầu xin thần linh ban cho cuộc sống bình an, no đủ, mưa thuận, gió hòa, khoai, lúa nhiều bông, tròn củ cho đến việc làm phép đuổi tà ma, chữa bệnh cho dân sóc... Ai cần gì cũng đến nhờ bà Bóng. Ai nghe theo lời khuyên của bà Bóng thì sẽ được hỗ trợ gạo, muối hoặc tiền. Đang trong giai đoạn khó khăn chung của tình hình kinh tế thời bao cấp trên cái mảnh đất chưa kịp kéo da non để làm lành vết thương này, mà bà Bóng lúc nào cũng bận rộn tất bật với công việc và đem về lợi nhuận rất cao trên mồ hôi, nước mắt và cả máu của đồng bào S’tiêng mình nữa.

Mùa màng chưa giáp hạt thì đã hết cái ăn. Săn bắt thú rừng phải lén lút. Nguồn hỗ trợ từ chính quyền địa phương thì phải đợi thông qua các thủ tục rườm rà. Chỉ có đến chỗ bà Bóng là nhanh gọn nhất. Đồng bào thiếu gạo, đến bà Bóng vay tạm về ăn; thiếu muối, cứ đến chỗ bà Bóng mà lấy; thiếu tiền, bà Bóng cho mượn liền. Nhưng với điều kiện là, tất cả những gì săn bắt được hoặc thu hoạch được đều phải bán ở chỗ bà Bóng chứ tuyệt đối không được bán đi nơi khác. Nhóm người có mối quan hệ mật thiết với bà Bóng cứ đi đi, về về. Chỉ có cô Hoa lúc nào cũng túc trực để cung cấp tiền, gạo, muối khi đồng bào cần và thu mua, hoán đổi những vật dụng mà đồng bào mang đến. Họ ăn những món mà dân sóc mang đến tạ lễ cho bà Bóng. Họ thu lợi từ uy tín của bà Bóng đối với dân sóc. Họ chỉ trả công cho bà Bóng bằng cách, bày vẽ thêm những chiêu trò lừa mị để gạt gẫm đồng bào.

Một vấn đề nan giải đặt ra trong thời điểm này tại địa phương là trình độ dân trí thấp. Trình độ lao động có hạn và chưa được cải thiện. Đội ngũ cán bộ cơ sở còn non trẻ, lại phải đương đầu với bao khó khăn trắc trở. Người đứng đầu cấp ủy xã như Điểu Lên cũng chủ yếu dựa vào uy tín và kinh nghiệm chứ không được học hành bài bản. Vì vậy mà những cái khó của bản thân và công việc đòi hỏi ông phải vận dụng tối đa cái tư duy thiên phú của mình để vượt qua mọi tình huống.

Điểu Lên bước ra khỏi phòng họp mà lòng cứ nằng nặng nỗi lo. Từ trước tới giờ, chưa có việc gì có thể làm khó được ông. Nhưng lần này, chính cái mù chữ lại là trở ngại lớn nhất. Trên đường về, ông cứ điểm đi điểm lại những nhiệm vụ mà Huyện ủy vừa triển khai rồi sắp xếp theo một thứ tự hợp lý nhất vào bộ nhớ: “Nhiệm vụ cấp bách của cấp ủy cùng chính quyền địa phương là tích cực hỗ trợ đồng bào khôi phục kinh tế và ổn định đời sống, hướng dẫn đồng bào khai hoang phục hóa, chăn nuôi, trồng trọt theo hướng thâm canh tăng vụ. Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào lao động sản xuất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế vật nuôi, cây trồng. Phát triển nông nghiệp gắn với lâm nghiệp chuyên canh như điều, cà phê, hồ tiêu và cao su. Chăn nuôi dần chuyển sang tập trung theo mô hình trang trại.

Từng bước mở mang trường lớp, ổn định cơ sở vật chất và vận động trẻ em đến trường. Vận động dân làng tham gia các lớp học xóa mù chữ. Đồng thời mở các lớp đào tạo sư phạm ngắn hạn, các lớp bổ túc văn hóa cho đội ngũ cán bộ cơ sở và đào tạo thanh niên làm nguồn cơ sở cho đội ngũ cán bộ địa phương sau này.

Tăng cường vận động đội ngũ y bác sĩ, thuốc men và dụng cụ y tế để đáp ứng cho công tác chăm sóc sức khỏe người dân.

Lực lượng vũ trang gấp rút tiến hành rà phá bom mìn, giải phóng mặt bằng đất đai cho người dân yên tâm canh tác.

Kế hoạch của chủ trương vừa khoa học vừa thiết thực. Tư tưởng quyết đoán và tinh thông. Chỉ mỗi một nỗi lo về quá trình thực thi nhiệm vụ. Nhưng muốn thực thi nhiệm vụ có hiệu quả thì cần phải nắm vững những kiến thức cơ bản của từng nhiệm vụ cụ thể. Ông thì chỉ biết bám sát thực tế chứ không có điều kiện để tham khảo những tài liệu hay, những kinh nghiệm giỏi... Bây giờ ông mới thấm thía cái nỗi khổ của người mù chữ, mà đặc biệt lại là một lãnh đạo mù chữ.

***

Điểu Knhum dẫn đầu một toán con nít hăng hái vượt qua thôn Đăng Lang rồi cắt đường tắt thẳng hướng vào khu rừng non vừa mới hồi sinh ở Đắk Nhau. Hôm qua nó đã nghe ngóng cô Hoa ở nhà bà Bóng xúi một số người đến đó để tiếp tục tìm xác máy bay. Vì có mấy người vừa khiêng đến bán cho cô bốn mảnh của xác máy bay mà đã hơn trăm cân rồi. Chắc hẳn xung quanh đó vẫn còn rất nhiều. Con nít như bọn nó chỉ cần nhặt những mảnh vụn thôi là đã kiếm được tiền bằng mấy ngày bắt cá rồi. Không biết tự khi nào mà đám trẻ tụi nó đã bị những mảnh bom, mìn và xác máy bay cuốn hút đến nỗi ngày nào cũng lang thang hết cánh rừng này sang cánh rừng khác để tìm và nhặt nhạnh. Có lẽ vì tiền, vì đôi dép đẹp, vì những thổi kẹo cao su, những chuỗi cườm đủ màu, những cái chong chóng, súng nhựa và vô số đồ chơi hấp dẫn ở nhà bà Bóng nữa.

- Knhum, ở đây phải không?

- Không phải đâu, còn xa lắm, tới hơn 30 cây số mà.

- Ừ. Đi tiếp thôi.

Khi mấy đứa lớn vượt lên phía trước thì Điểu Krí ngoắc mấy đứa phía sau quay lại chỗ lúc nãy nó vừa vấp phải rễ cây làm bật lên cái gì đó mà nó nghi là bom bi. Nó rành mấy thứ này lắm, vì lúc anh nó còn sống hay dẫn nó đi tìm mang về nhà rồi tháo kíp, đổ hết thuốc nổ mới đem đi bán ve chai.

- Krí! Có phải chỗ này không?

- Ừ, đúng rồi. Đào nhẹ nhẹ, cẩn thận. Nhặt hết bỏ vô gùi rồi đi tiếp. Về nhà tao bày cho tháo sau.

Bốn đứa chụm đầu vào nhau đào đào, bới bới một hồi rồi cũng gom hết được ổ bom bi và chia đều ra bốn cái gùi.

- Được rồi. Chạy nhanh lên. Đuổi cho kịp tụi nó. Chỗ này chắc còn nữa nhưng cứ để dành, bữa nào mấy tụi mình đào tiếp.

Ba đứa thoăn thoắt làm theo lời Krí. Không bao lâu, chúng đã đuổi kịp mấy đứa đi trước.

- Knhum, sắp tới chưa?

- Gần tới rồi. Tụi mày làm gì đằng sau mà lâu vậy, Krí?

- Tao đau bụng nên tụi nó đợi. Không có gì đâu. Đi nhanh lên.

Đám trẻ tiếp tục bám theo sau Knhum, vạch lá cây luồn lách tìm lối đi. Thỉnh thoảng vài đứa còn đu trên nhánh cây để vượt qua một tảng đá hoặc ụ đất chặn lối giống hệt như bầy khỉ đang chuyền cành. Rồi cuối cùng, chúng cũng tìm được khu rừng non mà Knhum nghe cô Hoa nói.

- Ở chỗ này. Tản ra đi tìm. Đứa nào phát hiện chỗ nó nằm thì hú nhau.

Knhum chưa dứt lời, đám trẻ đã mất hút vào trong vòm lá rồi. Chỉ có tiếng bước chân lẫn trong tiếng gió. Thỉnh thoảng, tiếng xà gạc dọn cây con hoặc bới đất lạo xạo rồi lại im bặt. Cuộc tìm kiếm mỗi lúc một lan rộng ra. Tiếng vọng của những bước chân cứ xa dần, xa dần. Krí lọt vào khu bằng lăng tím ngắt. Bên dưới vô vàn những chuỗi bông màu tím như tấm thảm hoa ấy, là những thân cây bị bom đánh toạc trơ ra những hốc cây hõm sâu vào như những ổ tồng vộc đen ngòm, đẫy nước. Vậy mà những nhánh bằng lăng con vẫn nứt ra, vươn lên mạnh mẽ và trỗ bông che kín cả vết thương sần sùi của thân mẹ. Krí trèo lên cây dáo dác tìm coi có đứa nào gần nó không, nhưng bị lá và hoa che mất cả tầm nhìn. Nó đang loay hoay tụt xuống thì có một luồng sáng phản chiếu ánh mặt trời rọi vào mắt nó. Nó lia ánh nhìn theo luồng sáng thì phát hiện mấy mảnh vụn của xác máy bay. Nó tụt nhanh xuống, chạy lại kiểm tra. Ồ! Những mảnh vụn của xác máy bay cứ như lưỡi xẻng ghim vào mặt đất. Nó lại trèo lên cây bằng lăng cao nhất rồi cất tiếng hú lanh lảnh. Nó nghe ngóng một hồi thì những tiếng hú đáp trả cũng vọng lại và tiếng bước chân của lũ bạn cũng tìm tới nơi. Nó vừa nhảy xuống đất đã nghe tụi bạn hò reo ầm ĩ rồi. Mấy đứa lớn dùng xà gạc đào đất và gỡ bật những mảnh vụn của xác máy bay, có cả những mảnh vỏ bom, vỏ đạn, vỏ mìn nữa. Mấy đứa nhỏ thì gom từng mảnh bỏ vào gùi. Những mảnh lớn không bỏ lọt vào gùi thì chúng xếp chồng lên nhau, bứt dây rừng buộc lại rồi xỏ cây vào hai đứa khiêng. Vui quá nên không đứa nào thấy mệt cả. Chẳng mấy chốc chúng đã về tới nhà bà Bóng.

Sau khi cuộc mua bán, chia chác xong là đứa nào về nhà nấy. Điểu Krí hạ cái gùi xuống, lấy hết lớp lá phủ bên trên ra rồi nhặt từng trái bom bi cất cẩn thận vào cái xá nhỏ và treo sát trên vách nhà. Bây giờ thì nó yên tâm chạy ra suối rũ bỏ hết những ồn ào, vướng bận, lo toan của một ngày mưu sinh. Để rồi đêm về lạc lõng giữa căn nhà rỗng tuếch với “thằng mồ côi chỉ có cặp mắt lồi và tiếng kêu có thể gây ấn tượng cho đời. Còn cái xác ve của nó sẽ khô đét dính chặt vào sạp tre như một chú ve sầu hết mùa ngân nga là hóa thành cái vỏ vô tri bám vào gốc phượng”. Những lời diễn tả ngắn ngủi mà bóng bẩy về bản thân và cuộc đời nó đã được cô Hoa vẽ ra rồi in vào đầu nó như vậy đấy. Nghe ra là lạ làm sao ấy, nhưng ngẫm nghĩ thì cũng thấy hay hay và giông giống nó, nên nó thấy vui vui khi đối diện với chính bản thân mình. Từ ngày mẹ và anh nó bị bom chết ở khu Cầu Sập tới giờ là nó vẫn thui thủi một mình. Hơn ba năm nay, nó cùng đám trẻ trong sóc kiếm tiền từ xác máy bay, vỏ bom, vỏ đạn. Đã không ít người chết vì gỡ bom, mìn để bán ve chai. Nhưng dân sóc cũng như chính bản thân nó vẫn như con thiêu thân cứ lao vào. Bởi đây là công việc dễ làm và dễ kiếm tiền nhất. Vì những mảnh đồng, mảnh nhôm, mảnh inox, mảnh sắt thép đã ghim dày trên vùng đất này, nên chỉ cần tinh ý một chút là tìm thấy ngay.

Krí đợi đến bực bội: “Mấy đứa chết tiệt! Giờ này còn chưa chịu tới nữa. Hay là...”. Nó chợt nghĩ đến sự nguy hiểm có thể xảy ra cho mấy đứa kia. Vậy là nó bươn ra đường, định đến từng nhà tìm tụi nó. Đi chưa được bao xa thì nó nghe tiếng rên “grừ, grừ...” phát ra từ nhà bà Diếp. Nó đẩy cửa bước vô nhà. Điểu Dong đang co rúm người lại run bần bật, miệng thở dốc, hai hàm răng cứ va vào nhau như tiếng ngựa phi “cà lộc cộc, cà lộc cộc...”, hai mắt đỏ ngầu nhìn dài dại không giống nó thường ngày chút nào cả. Krí xốc vội nó lên lưng rồi cứ thế mà chạy.

- Cô y tá ơi! Cứu người, cứu người...

Thằng Dong được đưa vào phòng cấp cứu. Krí đứng bên ngoài thấp thỏm chờ đợi. Cánh cửa phòng mở he hé. Cô y tá ló đầu ra gọi nó. “Điểu Dong bị sốt rét ác tính. Cũng may là còn kịp. Em yên tâm. Về gọi người nhà Điểu Dong vào đây em nhé”.

Nó gật đầu rồi đi thẳng về nhà Điểu Dong. Không có ai ở nhà. Nó lại vừa đi vừa nghĩ: “Tội nghiệp thằng Dong. Đang bệnh vậy mà bị bỏ ở nhà một mình. Thà là thằng mồ côi như mình còn hơn...”.

- Krí! Đi đâu mà thất thần vậy?

Nó giật mình đánh thót.

- Dạ cháu chào ông Bí thư! Cháu đi tìm bà Diếp. Thằng Dong đi trạm xá có một mình. Cô y tá nhờ cháu tìm bà Diếp.

- Ừ! Về nhà đi. Để đó cho ông lo.

- Dạ!

Bây giờ thì nó nhớ đến công việc chính của mình và tiếp tục đi tìm mấy đứa kia.

Thị Diếp hớt hải từ chỗ bà Bóng chạy về nhà để chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng chờ bà Bóng đến cúng đuổi con ma cho thằng con. Mấy ngày nay nó bị con ma hành lúc nóng, lúc lạnh, lúc nằm mê man, lúc thì ngồi dậy ăn uống, cười nói như không có gì xảy ra. Sáng nay nó nằm im không dậy nổi, người nóng như than lồ ô đang đốt. Bà sợ con ma ác đang đợi bắt nó đi nên tất tả chạy tìm bà Bóng để bà cúng đuổi con ma đi giùm. Nhưng... nó đâu rồi? Bà lại tất tả chạy đi tìm thằng con.

- Tìm thằng Dong à? Nó đi trạm xá rồi. Lên đó mà lo cho nó.

Bà Diếp gật gật rồi lủi thủi quay về nhà. Ai mà dám cãi lại ông Bí thư. Bà đi một đoạn mới sực nhớ ra điều gì đó nên quay ngược về hướng nhà bà Bóng.

Sau khi hai vợ chồng bàn bạc thật kỹ kế hoạch giải cứu thằng Dong thì bà Diếp chuẩn bị sẵn cây nến cắm giữa chén gạo trắng, một chén đựng than của loài gỗ thơm dùng trong việc cúng bái, một chén chuẩn bị để đựng rượu. Ông Xép bày đầy đủ lễ vật lên bàn thờ. Xong đâu đó rồi, hai vợ chồng bắt đầu đi trạm xá thăm thằng Dong.

Krí đang trên đường về thì bỗng giật mình khi nghe tiếng nổ của bom bi phát ra từ hướng nhà thằng Điểu Dách. Nó quay ngoắt lại nhìn đám khói lửa mỗi lúc một bốc cao hơn mà lòng chất đầy nỗi ân hận. Cả bốn đứa nó đã gom hết chỗ bom bi ấy rồi tháo gỡ và cùng nhau mang vỏ bom đến nhà bà Bóng chiều nay rồi. Vậy chắc chắn là thằng Dách đã lén giữ lại một quả để tập tháo gỡ. Không biết cả nhà nó ra sao, cũng tại mình không cẩn thận. Thằng Dách nhỏ nhất trong đám trẻ nhặt ve chai nên còn dại lắm. Nỗi ân hận, hối tiếc cứ trôi theo bước chân mà dày vò Krí đến tận ngôi nhà vừa đổ nát. Thằng Dách đã được đặt nằm bên cạnh mẹ. Nó bị giập hết nửa thân người, mắt bên trái vẫn hốt hoảng như đang cầu cứu. Mẹ nó toàn thân đen nhẻm. Em gái nhỏ của nó đã được chở ra trạm xá. Krí đứng đằng xa lẩm bẩm: “Đã nói là đem hết qua cho tao tháo. Vậy mà mày còn giữ lại làm gì. Thấy mày như vậy, chắc từ nay tao bỏ luôn và không cho đứa nào đụng tới bom bi nữa...”.

Cả trạm tập trung cứu con bé bị bom. Bà Diếp gom mấy thứ lặt vặt bỏ vào cái xá rồi đảo mắt sang phía phòng cấp cứu thêm một lần nữa. Thấy đã chắc chắn không có ai để ý, bà giả bộ rủ chồng dắt thằng Dong ra trước ngồi cho mát. Khi ra đến cổng trạm, ông Xép vội vàng cõng thằng Dong trốn viện. Bà Diếp nấn ná đợi cho chồng con đi xa xa rồi mới vào phòng rón rén đeo xá đồ lên vai lẻn ra ngoài vừa đi vừa chạy về nhà.

- Ông Bí thư ơi! Thằng Dong trốn viện rồi.

Vừa ở đám cháy phụ lo khâm liệm cho mẹ con thằng Dách về, nghe gọi là Điểu Lên quày quả đi ngay. Ông đến nơi thì hương hoa, lễ vật đã bày sẵn trên bàn thờ. Thằng Dong được đặt nằm ngửa trên giường nhỏ giữa nhà, tay và chân thì duỗi thẳng. Bà Bóng đang tiến hành xin phép, khấn vái, khẩn cầu, mời gọi các thần linh, các Yang về phù hộ.

Điểu Xép ra mời ông Bí thư vào ghế ngồi nhưng lòng thì không muốn chút nào cả, vì sợ ông ấy làm hỏng nghi lễ đuổi ma. Điểu Lên biết bây giờ chỉ lặng im chứng kiến buổi lễ chứ không nên nói gì hết. Ông yên tâm vì thằng Dong đã được uống thuốc ở trạm rồi cho nên có thể chịu đựng được đến kết thúc buổi lễ. Người S’tiêng của ông xưa nay quan niệm rằng ốm đau, bệnh tật, tử sinh đều có mệnh trời và trong thế giới tâm linh luôn hiện hữu hai phe đối lập của thiện - ác là thần linh và ma quỷ. Cúng bái là nghi lễ trang trọng mà gia chủ bày tỏ lòng thành khẩn đối với đấng quyền năng để cầu xin được ban ơn, phù hộ. Đặc biệt là cúng đuổi tà ma, nếu sơ sẩy làm cho ma lành nổi giận thì bệnh sẽ tái đi tái lại hoài mà không khỏi; còn nếu chọc giận trúng con ma ác thì có đuổi nó cũng không đi mà sẽ làm cho người bệnh chết luôn. Chính vì vậy mà nếu có ai gây bất lợi cho nghi lễ cúng bái, nghĩa là đã xúc phạm đến thần linh, đến đức tin của gia chủ, là điều tối kỵ. Mà đây cũng chính là nét văn hóa tín ngưỡng của người S’tiêng từ bao đời nay nên càng phải tôn trọng. Nhưng lợi dụng đức tin để biến nét văn hóa tín ngưỡng thái quá dẫn đến sự mê tín dị đoan trầm trọng thì thật là nguy hiểm, nhất là việc chữa bệnh bằng cách này. Muốn thay đổi cũng không thể một sớm một chiều nên đành phải từng bước khắc phục. Vì vậy mà ông cứ ngồi im lặng để chứng kiến buổi lễ diễn ra tự nhiên.

Đã cầu xin thần linh xong. Bà Bóng bắt đầu nghi lễ đuổi tà ma: Tay phải cẩm nén nhang vẽ những đường tròn, ngang, dọc, lượn quay; tay trái cầm chén rượu cùng múa lượn kết hợp với tay cầm nhang trong khoảng không như ám hiệu trừ đuổi tà ma; miệng luôn khấn lời cầu nguyện rồi thỉnh thoảng hớp một ngụm rượu phun lên mình thằng Dong; sau đó chân bước theo điệu bộ nhịp nhàng vừa tiến, vừa lùi đi vòng quanh vừa múa, vừa đổ rượu lên người thằng Dong. Sau khi dùng rượu và nhang để làm phép đuổi tà ma thì tiếp tục dùng gạo và than để truyền phép màu của thần linh đem lại sức khỏe cho người bệnh. Bà Bóng lại một tay cầm chén gạo ở giữa có thắp cây nến, tay kia cầm chén than hồng của loài gỗ thơm vừa đi vừa múa, cũng với nhịp điệu vừa tiến vừa lùi; cứ đi giáp một vòng quanh thằng Dong rồi đi vòng ngược lại; miệng vẫn lâm râm khấn nguyện cầu xin. Vòng quanh bên ngoài bà Bóng là điệu cồng chiêng hòa cùng điệu nhảy múa phối hợp với bà Bóng, làm tăng vẻ trang trọng và linh thiêng của nghi lễ...

Ông Xép mang lễ vật đến nhà bà Bóng tạ ơn cho phải lễ rồi vội vã ra về. Ông cứ ngồi lặng lẽ nhìn thằng con chống chọi với những cơn nóng lạnh bất thường. Ông cảm thấy càng lúc nó càng nóng hầm hập nên ông lo quá. Chắc là nó bị con ma ác đeo bám nên đuổi không được. Bây giờ không biết phải làm sao?

Bên nhà Thị Sun, bà Bóng đang vừa đi, vừa múa, vừa khấn nguyện để đuổi tà ma. Nghi lễ vẫn chưa dứt thì Thị Sun lên cơn co giật, sùi bọt mép rồi tắt thở. Bà nhanh trí bắt đại một con ma lai để gánh trách nhiệm về cái chết của Thị Sun. Ông Điểu Dem đang gật gà, gật gưỡng trong cơn say thì bị bắt đem đến nhà Thị Sun. Ông vẫn ngật ngưỡng ngồi không vững, cứ mặc kệ ai muốn làm gì thì làm. Mấy người đàn ông xúm lại, người thì giữ cho ông ngồi im, người thì khóa chặt tay phải của ông, người thì giữ cho bàn tay trái ông xòe ra và người cuối cùng thì đổ nước chì mới nấu chảy xuống lòng bàn tay ông. Lúc này ông mới đau đớn, giãy giụa và cố sức vùng đứng lên để thoát thân. Nhưng nhóm người kia vẫn ghìm chặt ông lại để kiểm tra bàn tay ông. Họ cứ lật úp rồi lật ngửa kiểm tra thật kỹ coi chì có chảy xuyên suốt qua hay không. Lòng bàn tay Điểu Dem bị bỏng nặng, khét lẹt. Ông Bí thư gạt đám người kia ra rồi cõng Điểu Dem lên trạm xá để sát trùng và băng bó vết thương trước sự hậm hực của bao cặp mắt như muốn thiêu sống ông...

Bà Bóng nằm ngẫm nghĩ những lời mà ông Bí thư đã từng nói đi nói lại bao lần và cả những sự việc đã xảy ra có liên quan đến bà nữa. Quả thật là trước đây, mỗi khi được bà con dân làng cậy nhờ thì bà đều thể hiện hết tài năng của mình để bày tỏ lòng thành khẩn của gia chủ đối với thần linh và cầu mong được thần linh ban phước. Những ngày đó, lòng bà cứ nhẹ tênh như đang bồng bềnh trong cõi thần tiên. Kể từ ngày bà quen biết và thỏa thuận với nhóm người của cô Hoa đến giờ thì cuộc sống của bà ngày càng trở nên phức tạp. Bọn họ biến ngôi nhà của bà thành tiệm thu mua, hoán đổi, giao dịch, làm ăn của họ. Họ biến một số đàn ông khỏe mạnh bỏ hết vườn tược, nương rẫy để lén lút làm những việc mà ông Bí thư gọi là phạm pháp. Rồi đêm đêm, bọn người cô Hoa lại xuýt xoa với những tấm da và nanh hổ, những cặp ngà voi, nhung hươu, có cả những con khỉ hiền lành còn co rúm trong hoảng sợ nữa. Họ khiến cho người dân từ già đến trẻ ngày ngày lang thang tìm và gom về cho họ những thứ gọi là ve chai như vỏ đạn, vỏ bom, vỏ mìn cho đến những bộ phận của xác máy bay... từ đồng, nhôm, inox và cả sắt, thép. Những cuộc tìm kiếm nguy hiểm đôi khi còn đổi cả máu, xương và tính mạng. Bọn họ biến bà thành một kẻ vô tâm vì lòng tự tôn và sĩ diện. Bà đã từng nghe những lời tuyên truyền, vận động như là: “Người dân khắc phục thói quen sinh hoạt chưa đảm bảo vệ sinh, nâng cao nhận thức về chăm sóc sức khỏe, để phòng tránh bệnh dịch và bệnh sốt rét đang hoành hành lây lan. Nên đến cơ sở y tế khám chữa bệnh. Hạn chế việc chạy chữa bằng cách cúng kiến rườm rà, phản khoa học...”. Nhưng nếu dân làng đến trạm xá chữa bệnh nghĩa là chê bai bà không thể cúng đuổi được tà ma để đem lại sức khỏe cho người bệnh. Lòng tự ái bị xúc phạm cộng thêm những lời tác động của nhóm cô Hoa. Vậy là bà lao vào cuộc tranh giành. Đêm đêm, tiếng trống, tiếng cồng chiêng hòa vào những điệu nhảy cùng những câu thần chú khấn nguyện cúng bái của bà vẫn văng vẳng đó đây trong thôn sóc. Hằng năm, dân làng hao tổn một lượng lớn heo, gà, trâu, bò để dùng làm lễ vật tạ ơn cho bà. Bà được nhóm người cô Hoa ca tụng, ngợi khen. Còn nhóm người cô Hoa thì được hưởng những lợi nhuận mà từ uy tín của bà mang lại. Khi gặp sự cố dẫn đến chết người và nhìn những người bị nghi là ma lai phải chịu đau đớn trong phép thử chì, thì bà cũng cảm thấy ân hận. Và, lòng bà lại nặng như hôm nay.

Từ ngày ông Xép cõng thằng Dong trốn viện về để cúng đuổi tà ma cả đêm mà hôm sau vẫn sốt cao nằm mê man. Rồi, nó được ông Bí thư tới động viên và đưa đi cấp cứu kịp thời nên nó khỏe mạnh trở lại bình thường. Đến khi Thị Sun lên cơn co giật và chết ngay trong lúc đang cúng trừ tà. Cả chuyện, ông Dem bị hành hạ trong phép thử chì để xác định có phải ma lai hay không, giữa cơn say ngật ngưỡng và được ông Bí thư giải cứu... Bà con dân sóc đã một phần nào nhận thấy được những lời khuyên, những việc làm của ông Bí thư là đúng. Họ hăng hái tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục - thể thao để có điều kiện tiếp cận với thông tin, truyền thông, phim ảnh nhằm nâng cao nhận thức. Từ đó, nạn mê tín dị đoan ngày một giảm dần.

***

Ông men theo trục đường 10, qua khỏi thôn Đăng Lang, rẽ vào lối mòn nhỏ rồi ngược lên quãng đồi vắng. Kể từ khi ông Bí thư chuyển sang làm Phó Chủ tịch xã đến nay, ngày đêm vẫn miệt mài làm công tác vận động. Ông quyết tâm, bằng mọi giá phải làm sao để tất cả bọn trẻ đều được đến trường. Phải tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để chúng đi tìm con chữ. Muốn cái vùng đất Bom Bo - Đắk Nhau này ngày càng phát triển thì phải trông cậy vào chúng. Không thể để chúng mù chữ như ông. Ông thường lấy bản thân mình ra làm ví dụ để vận động bọn trẻ và cha mẹ chúng. Tuy cơ sở vật chất thiếu thốn, nhưng muốn huy động tất cả trẻ em đến trường, những lớp học tranh tre cũng được dựng tạm ở một số khu vực dân cư thưa thớt. Ngoài đội ngũ giáo viên địa phương được đào tạo cấp tốc, còn có thêm đội ngũ giáo viên tăng cường từ Thành phố Hồ Chí Minh lên. Ở vùng định canh, định cư thì trẻ em hăng hái đến trường, lớp học đông vui, sôi động. Một số lớp học ở điểm lẻ chỉ có từ bốn đến bảy học sinh. Vậy mà đôi khi giáo viên đến lớp chỉ có một mình, đành phải tìm đến từng nhà để vận động học sinh đi học. Tuy vậy, ông vẫn không nản lòng, hễ giáo viên chủ nhiệm gặp khó khăn là có mặt ông ngay.

Nạn săn, bắt thú rừng quý hiếm ngày càng gia tăng. Ngoài nhóm người bên nhà bà Bóng thì mới phát sinh thêm mấy cơ sở thu mua lén lút ở dọc theo đường 10 nữa. Chúng mua nanh và da hổ, nhung hươu, mật gấu, ngà voi, sừng tê giác, mật ong rừng; mua cả thịt hổ và khỉ để về nấu cao; mua nhím, cheo cheo, thỏ, nai, chồn, heo, dê... chuyển về Sài Gòn để làm đặc sản thú rừng; mua trái xay, trái đười ươi, bông vối và mua cả những loài gỗ quý. Ông cùng một số cán bộ cơ sở vận động bà con dân làng chuyên tâm tăng gia sản xuất, đồng thời đề cao tinh thần bảo vệ rừng và động vật quý hiếm. Còn họ thì lén lút vận động bà con săn bắt và khai thác. Một số đồng bào không thích nghi với cuộc sống định canh định cư mà vẫn tiếp tục phát nương trên sườn đồi để trỉa lúa, ngô, khoai, sắn theo lối sống du canh du cư trước đây. Chính vì vậy mà bọn người xấu có cơ hội lợi dụng những cụm dân nhỏ lẻ này để khai thác nguồn lợi về cho chúng.

Ông đã đến đây mấy lần rồi, nhưng gặp người này thì lại không gặp người kia. Ở đây có hai ngôi nhà. Bếp chính trong hai ngôi nhà này là bà Lạch và ông Dốp. Lần nào đến ông cũng chỉ gặp bà Lạch. Ông Dốp thì chẳng bao giờ chịu gặp ai, nên hễ biết có người đến tìm là ông ấy trốn biệt. Lần này ông quyết tâm đợi. Chỉ cần gặp mặt ông Dốp thì mọi việc sẽ thuận lợi. Nhưng lần nào cũng chỉ gặp con hoặc cháu và lần nào chúng cũng nói ông ấy đi rừng xa nên mấy ngày mới về. Những người còn lại trong hai ngôi nhà này, khi được vận động quay về định canh định cư để vừa phát triển kinh tế, tăng thu nhập vừa đảm bảo về “Luật chăm sóc và bảo vệ rừng” thì họ vẫn đưa ra cái lý lẽ riêng của họ rằng: “Họ chỉ tra hạt đến ngày thu hoạch rồi sẽ bỏ hoang cho rừng tái sinh, nhiều năm sau họ mới quay lại canh tác. Như vậy thì không thể gọi là phá rừng được”. Nhưng, công việc chính của họ vẫn là săn bắt. Bọn người thu mua cứ tìm đến các khu vực dân cư nhỏ lẻ này để vận động và tạm ứng tiền hoặc cung cấp những vật dụng cần thiết cho người dân trước, sau đó chúng sẽ trừ nợ khi người dân mang những nguồn tài nguyên quý hiếm về bán cho họ.

Hôm nay, không phải ông đến vận động người dân về làng mà chủ yếu là ông vận động họ cho trẻ đến trường. Ở đây có hai ngôi nhà, tổng cộng bảy cái bếp, có bốn đứa trẻ nằm trong độ tuổi đi học. Cộng thêm năm đứa của ba ngôi nhà ở quãng đồi bên kia là được chín đứa. Hôm qua ông làm công tác vận động ở mấy ngôi nhà bên đó tương đối ổn. Lớp học và bàn ghế cũng vừa dựng xong. Chỉ cần các hộ gia đình bên đây đồng ý thì sang tuần sau, thầy trò đã có thể bắt đầu dạy và học được rồi.

Cũng may là Điểu Dốp có mặt ở nhà. Ông ta nhìn thấy Điểu Lên thì vui lắm. Cứ tưởng ông Phó Chủ tịch là ai chứ hóa ra lại là ân nhân đã từng cứu mạng mình. Sau khi đi cải tạo về, ông dắt díu cả nhà lên đồi vắng mà dựng nhà ở. Ông lủi thủi trên rừng cả ngày đến tối mịt mới quay về nhà, bởi ông ngại gặp mặt dân làng và cán bộ. Ông từng là Việt gian, là người có nợ máu với đồng bào mình. Trong khi người dân Bom Bo - Đắk Nhau gùi cả căm hận và lòng quyết tâm chạy vào rừng sâu để lập làng kháng chiến cùng cán bộ, chiến sĩ cách mạng kiên cường đánh đuổi giặc thì ông lại đi làm chỉ điểm. Một con người xấu xa như vậy thì ông còn dám gặp mặt ai. Cũng chính vì vậy mà ông sống tách biệt với cộng đồng thôn sóc. Giờ gặp lại Điểu Lên, những ký ức xưa cứ vùn vụt quay về.

Bà Thị Lạch ngồi hút thuốc một mình, mắt vẫn chằm chặp nhìn sang nhà bên kia như dò xét, nghe ngóng. Không biết ông Phó Chủ tịch lại đến để làm gì? Lần đầu tiên ông Dốp chịu gặp mặt ông Phó Chủ tịch, chắc có nhiều chuyện xảy ra lắm đây. Bà thấy hai người đã kéo cần rượu nên mở nắp nồi trên sạp múc một tô lòng bò lá nhíp bưng qua. Chuyện xưa cũng đã ngà ngà theo men rừng và hương rượu. Ông Dốp bộc bạch:

- Cũng nhờ Nhà nước khoan hồng mà tui được ra trại trước thời hạn. Nhưng không dám về làng và cũng không dám gặp ai nên mới dựng nhà ở đây. Cứ nghe cán bộ đến tìm là tui trốn trên rừng luôn chứ không dám về. Ông nghĩ coi, tui còn mặt mũi nào để gặp ai chứ.

- Ông tự nghĩ vậy thôi chứ tui hiểu ông mà bà con dân sóc chắc cũng hiểu ông. Đặc biệt là Nhà nước rất sáng suốt, phán xét đúng người, đúng tội, ông lại cải tạo tốt. Ai ai cũng mong ông sớm hòa nhập với cộng đồng, góp phần xây dựng thôn sóc.

- Tất cả đều nhờ có ông. Ông đã cứu tôi đến hai lần. Mà có thể nói là ông đã cứu cả cuộc đời tôi. Nếu lần đó không phải là ông, thì có thể tôi không còn mạng để quay về hoặc có thể tôi mãi là một thằng khát máu.

***

Hai người đàn ông cứ ngồi đối diện nhau, để mặc cho thời gian kéo họ quay ngược về với trận bom B-52 ngày ấy. Một trận bom dọn đường cho đội thám báo đi thực hiện kế hoạch thâm nhập căn cứ đầu não cách mạng và vùng kháng chiến.

Sau khi được huấn luyện cấp tốc một số kỹ năng cơ bản về nghiệp vụ thám báo và nhảy dù, Điểu Dốp tham gia kế hoạch thám thính, thâm nhập đầu tiên cùng một đội thám báo Mỹ. Dốp không biết nhiều về mưu đồ “Việt Nam hóa chiến tranh” của tổng thống Ních-xơn, cũng không biết gì về kế hoạch “Phá sạch, giết sạch, đốt sạch” đối với vùng tự do và căn cứ Nửa Lon. Dốp chỉ biết nhiệm vụ của mình là ngồi cạnh một sĩ quan phụ trách ra-đa, trên một chuyến trực thăng đổ bộ đang thẳng hướng về khu vực suối Đắk Liêng. Đợi chiếc pháo đài bay bỏ bom dọn đường là Dốp chỉ việc quan sát và chỉ điểm nơi có khả năng là cơ quan đầu não của căn cứ Nửa Lon cho máy bay chọn nơi thích hợp mà hạ cánh.

Tiểu đội bộ binh của Điểu Lên gồm chín người, được điều động cấp tốc quay về Bom Bo để tăng cường chống càn cùng du kích và bộ đội địa phương. Vừa vượt qua dòng Đắk Liêng và băng rừng khoảng hơn một cây số thì bị “kho bom di động” chặn lại ở cánh rừng phía trước. Chỉ trong vòng vài giây, nó đã trút hàng tấn bom rồi vụt biến mất sau những loạt chấn động dữ dội của sức công phá, làm cả khu rừng ngập ngụa trong biển lửa khói giữa cảnh hoang tàn. Tiếng bom đã lặng. Những cột khói như quái thú khổng lồ vừa giương vòi nuốt chửng nguồn ma lực cuối cùng của biển lửa thì tiếng trực thăng đã vọng lại càng lúc càng gần hơn. Nó còn lẩn khuất quá tầm nhìn, bởi con quái thú kia còn đang giãy giụa trong điên cuồng trước khi đổ gục. Con chuồn chuồn đã lờ mờ hiện ra trước sự ngỡ ngàng của cả tiểu đội. Nó đang đứng đúng trên đầu công sự. Cánh quạt vẫn quay rin rít, đẩy luồng không khí xô dạt những ngọn cây xung quanh như một vòng xoáy. Tình thế cấp bách. Điểu Lên hạ lệnh:

- Toàn tiểu đội rời công sự, trườn ra khỏi tầm ngắm của nó rồi tìm cách cắt rừng về điểm tập kết. Chú ý đảm bảo an toàn!

- Còn đồng chí?

- Yên tâm, khi chắc chắn các đồng chí an toàn thì tui sẽ bám theo.

Sau một giây lưỡng lự, hai đồng chí cùng công sự của Điểu Lên cũng rút êm theo sáu đồng chí phía trước.

Điểu Lên nhảy phốc ra khỏi công sự, vừa quan sát vừa điều chỉnh tư thế đứng thích hợp. Bàn tay phải nắm chắc cổ báng súng M-79, ngón trỏ đặt trong vòng cò, ngón cái tỳ sát lẫy khóa nòng. Đáy báng súng tỳ chắc vào hông. Nòng ghếch lên cao 45 độ. Bàn tay trái cầm sẵn quả đạn thứ hai. Phóng tầm ngắm bám sát nhất cử nhất động của mục tiêu trên không. Con chuồn chuồn ấy hạ thấp dần, thấp dần. Ba trăm mét. Hai trăm năm mươi mét. Hai trăm mét. Nó bắt đầu quạt chong chóng đứng tại chỗ. Một con thằn lằn đã rời khỏi tổ. Điểu Lên nhanh chóng ngoéo cò “tóc”, ngón cái gạt lẫy khóa nòng, cổ tay phải hất súng lên một cách dứt khoát; quả đạn thoát nòng, xé gió, thẳng hướng mục tiêu trên không thì tay trái nhanh chóng nhét gọn quả đạn tiếp theo vào bầu nòng, cổ tay phải lại hất súng, rụt ngón cái ra nghe “tách” là ngón trỏ ngoéo cò “tóc”; tay trái tiếp tục nạp quả đạn thứ ba vào bầu nòng... “Đoành! Đoành! Đoành!”... Một luồng khói đỏ bốc lên từ đuôi con chuồn chuồn. Lần đầu tiên bắn máy bay bằng M-79 mà vẫn trúng mục tiêu, không uổng phí chút nào. Mặc kệ, nó không chết thì cũng đã bị thương. Điểu Lên cố sức vượt khỏi vòng nguy hiểm, vì biết thế nào con thú bị thương cũng sẽ quay lại cắn đối phương trước khi bỏ chạy. Chạy chưa được 500 mét thì lực đẩy của trận bom đã xô Điểu Lên ngã sõng soài rồi lăn lông lốc xuống sườn đồi. Bụi khói mù mịt, toàn thân ê ẩm, anh ôm chặt gốc cây nằm chịu trận. Đến khi không còn nghe tiếng nổ và tiếng động cơ nữa, chỉ có khói lửa quện vào nhau tạo thành con quái vật khổng lồ giương vuốt, nhe nanh giữa vòm họng đỏ lừ với tấm thân đen ngòm, cứ như muốn nuốt chửng con mồi và liên tục thay hình đổi dạng. Điểu Lên lồm cồm ngồi dậy, chỉnh đốn nhanh lại quân trang. Tay phải ghìm M-79, tay trái lăm lăm khẩu súng ngắn và thẳng hướng lúc nãy mấy thằng lính dù vừa nhảy xuống. Ba cái công sự anh cùng đồng đội trú ẩn, bây giờ đã biến thành hố bom to đùng. Nối tiếp những hố bom lớn nhỏ, mặt đất loang lổ trơ ra giữa bãi cháy. Anh nhìn thấy có cái gì đó như đang cử động ở gốc cây đổ chổng chơ sát bìa rừng. Anh vừa cảnh giác, vừa luồn lách trườn về hướng mục tiêu. Khoảng cách dần thu ngắn lại. Một trăm mét, năm mươi mét, bốn mươi mét, anh nằm im quan sát. Có hai đối tượng, một như đang nằm, một đang loay hoay với tư thế lom khom. Anh chuẩn bị áp sát mục tiêu...

Sau trận bom dọn đường, chiếc “pháo đài bay” B-52 quay về. Chiếc trực thăng bắt đầu đảo một vòng quanh khu vực vừa bỏ bom để quan sát và chọn vị trí thích hợp. Cuối cùng, Điểu Dốp cũng nhận ra hướng gần nhất với dòng Đắk Liêng. Lợi dụng lúc khói lửa còn có thể che khuất tầm nhìn của đối phương, chiếc trực thăng hạ thấp dần và quạt chong chóng tại chỗ để quan sát kỹ mặt đất. Đây không phải lính dù chuyên nghiệp mà là một tổ thám báo đi làm nhiệm vụ quan trọng, nên chỉ có ba sĩ quan Mỹ, một sĩ quan ngụy và một tên chỉ điểm. Độ an toàn đã đảm bảo tuyệt đối. Vừa dứt khẩu lệnh của đội trưởng thì Dốp gập ghế, đứng vào tốp nhảy ở vị trí số một. Hai tay ôm dù, lưng, đầu thẳng, mặt vuông góc với cửa máy bay, mắt nhìn xuống, hai chân rộng bằng vai, chân phải trước, chân trái sau. Gối chân phải vuông góc với đùi. Trọng tâm dồn về hai chân. Mũi chân phải cách mép cửa 40 xăng-ti-mét. Khẩu lệnh lại vang lên: “Số một!”. Chân trái Dốp bước lên đệm vào mép cửa máy bay, một phần ba bàn chân thò ra ngoài, dùng sức bật đều hai chân ra khỏi cửa máy bay. Chân phải nhanh chóng duỗi thẳng song song với chân trái, đầu gối, mắt cá và mũi chân phải khép chặt với chân trái. Hai tay giữ chặt hai dây dù điều khiển phía trước. Giữ nguyên tư thế không thay đổi. Mắt quan sát tâm bãi và theo dõi hướng gió, hai tay cầm chắc dây dù phía trước để điều khiển tốc độ trên không và xử lý sự cố. Dốp vẫn còn lơ lửng trên không thì nghe đường đạn bay vèo vèo bên tai và tiếp theo là những tiếng nổ lớn. Dốp bình tĩnh giữ thăng bằng để chuẩn bị tiếp đất. Hai tay Dốp kéo mạnh hai dây điều khiển phía trước xuống cho tốc độ tiến của dù thẳng được với tốc độ gió mặt đất. Hai bàn chân khép chặt song song với mặt đất. Cổ chân, đầu gối và hông đều có độ nhún vừa phải để giảm lực tiếp đất. Dốp cho hai bàn chân chạm mặt đất đều, không nặng mũi cũng không nặng gót, người giữ nguyên tư thế ban đầu, không buông tay xuống. Cứ như vậy, Dốp chạy thẳng về phía trước. Đang đà chạy vào bìa rừng để đợi bốn tên còn lại thì có một lực đẩy như trận cuồng phong làm Dốp ngã sõng soài. Dốp cố ngoảnh mặt lại phía sau, chỉ có tên nhảy số hai kịp tiếp đất và cũng bị xô ngã về phía Dốp. Ba tên nhảy ở vị trí ba, bốn, năm đã bị lửa bom nuốt chửng. Dốp cảm thấy khí quản mình cứ hẹp dần, hẹp dần rồi tắc nghẽn. Hai tai lùng bùng, mơ hồ như có một bóng ma đang kéo mình chìm dần vào bóng đen đầy ma quái.

Có vật gì cưng cứng đang đập đập vào chân mình làm Dốp bừng tỉnh. Một cánh tay ai đó đang cố sức nâng chiếc mũ sắt với tới đập vào chân Dốp. Dốp gượng ngồi lên, cố xua bầy đom đóm đang lởn vởn trước mặt mình. Phải đưa cả hai tay lên dụi đi dụi lại hai mắt mấy lần thì Dốp mới nhìn thấy rõ một thân hình bê bết máu đang dùng chút sức lực còn lại cầu cứu sự trợ giúp từ Dốp. Đây chính là tên sĩ quan Mỹ đã nhảy ở vị trí số hai sau Dốp còn sống sót. Ba tên phía sau đã bị bom vùi mất xác. Dốp đang mường tượng nhận ra sự tàn ác khủng khiếp của bọn đế quốc. Chúng không ngại đến việc tàn sát đồng đội để thoát thân. Dốp loay hoay một hồi cũng lôi được cái thân hình không còn nguyên vẹn kia đặt nằm gối đầu lên một rễ cây. Dốp đang tháo dây nịt bụng và ngực của viên sĩ quan Mỹ để gỡ dù ra lấy vải băng bó vết thương thì có cảm giác như sắp bị hổ vồ. Dốp chỉ kịp rút súng ra thì đã bị cái gì đó nện vào làm vuột khẩu AMT Skipper khỏi bàn tay rồi đẩy văng ra thật xa, đồng thời một mũi súng chạm gáy lạnh toát. Dường như tâm thức và sức mạnh của hệ thần kinh đang đẩy hai cánh tay của Dốp hướng lên cao, chính là cái động tác duy nhất có thể bịt lại họng súng cho viên đạn kịp nằm im trong nòng.

Sau khi quan sát kỹ mục tiêu, Điểu Lên quyết định bắt sống đối phương. Với những thao tác chuyên nghiệp, chỉ trong phút chốc anh đã như một luồng gió lướt khẽ qua những chướng ngại vật rồi bất chợt cuốn đối phương vào vòng xoáy của mình. Đối phương chỉ kịp rút súng là đã bị báng súng M-79 từ tay phải của anh đánh văng ra xa; cùng lúc đó, mũi súng ngắn từ tay trái anh đã dí chặt vào gáy đối phương. Anh nhanh chóng kiểm tra và gỡ hết vũ khí trên người hắn xuống rồi ra lệnh cho hắn quay mặt lại. Một sự bất ngờ đã cùng lúc bật lên thành tiếng từ miệng của cả hai người: “Mày!”...

Còn chưa hết sửng sốt, thì tiếng gọi yếu ớt của viên sĩ quan Mỹ đã kéo sự chú ý của hai người về phía ấy. Không biết hắn nói gì, chỉ nghe và hiểu được là hắn đang gọi Dốp. Điểu Lên giục: “Cứu nó”. Cả hai hí hoáy lau chùi và băng bó, cầm máu những chỗ nào có thể. Dốp vừa quấn vải dù quanh bụng để giữ phần ruột mới nhét vào trong cho khỏi bị tràn ra ngoài. Điểu Lên dùng lá cây làm muỗng, đút cho hắn từng tí nước để đẩy mấy viên thuốc xuống bụng. Chắc là hắn không thể, vì mất máu nhiều quá. Điểu Lên nhìn ánh mắt thăm thẳm của hắn như đang lạc vào chốn mê cung trong nỗi tuyệt vọng tột cùng khi tìm mãi mà không thấy lối về. Điểu Lên bất lực nhìn hắn thều thào không ra lời mà chỉ lăn dài hai dòng giã biệt. Vậy là hết một phận người. Lần đầu tiên anh trải qua nỗi niềm thương cảm khi tiễn biệt một con người ở bên kia trận tuyến, mà lòng không thấy một gợn căm ghét hay hận thù gì cả. Dốp vẫn lặng lẽ cùng Điểu Lên giúp cái con người gọi là đồng đội của mình ấy, nằm lại nơi hố bom nhỏ này mà lòng nghe trống rỗng. Hắn có cảm giác như tất cả mọi vật xung quanh quay cuồng đến chóng mặt, tay chân rệu rã rồi từ từ khuỵu xuống. Điểu Lên đỡ hắn nằm ngay ngắn lại và cho hắn uống nước. Thì ra hắn cũng bị thương, mảnh bom chui vào nằm sâu trong sườn trái. Vết thương nhỏ, máu không ra nhiều nhưng khiến hắn đau đớn và giảm mất đi một phần sức lực. Vậy là Điểu Lên đành chôn giấu số vũ khí thu được từ hắn và viên sĩ quan Mỹ lại để dìu hắn đi...

Đầu năm 1970, Dốp nằm trong lực lượng giác ngộ cách mạng được một số cán bộ cơ sở nòng cốt đưa về ấp chiếc lược để hoạt động hợp pháp dưới vai trò của một tên lính bảo an. Mỗi ngày một lần đều đặn, Dốp bắt liên lạc và cung cấp thông tin cho Bơ Len. Dốp cũng góp phần vận động được một số lính bảo an giác ngộ cách mạng; cũng bí mật tham gia những cuộc kích động, biểu tình.

Sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, Dốp quay về Hòa Đồng 1 để thăm gia đình thì bị bọn ngụy quân bắt giam. Trong khi chờ đợi chúng xác minh cái danh nghĩa lính bảo an của mình, thì Dốp đã nếm trải đủ mùi vị tra tấn dã man của chúng rồi. Cuối cùng, chúng đưa gia đình Dốp vào diện quản thúc chặt chẽ, còn Dốp thì tiếp tục với công việc chỉ điểm cho chúng. Từ đó, Dốp không còn điều kiện để liên lạc với cơ sở cách mạng mà trở lại là một tên chỉ điểm. Nhưng Dốp vẫn tìm cách đánh lạc hướng chúng, nên những đợt oanh tạc và càn quét do Dốp chỉ điểm thì không bị tổn thất gì nhiều đối với vùng kháng chiến và cơ sở cách mạng. Tuy nhiên, vẫn gây thiệt hại đến nhà cửa, nương rẫy và hoa màu của đồng bào.

Cuối năm 1974, trong lúc đang cùng đám tàn quân trốn chạy từ hướng Đức Hạnh về Phú Văn thì suýt nữa bị rơi xuống vực sâu. Cũng chính lúc ấy, Điểu Lên đã kịp thời tung sự sống về phía Dốp. Vậy là Dốp đã được Điểu Lên hai lần giành giật về từ tay tử thần. Lúc bấy giờ Điểu Lên đang chỉ huy đồng đội truy quét tàn quân ở địa phận từ Đức Hạnh - Phú Văn đến dọc theo trục đường 10...

***

- Cuộc đời tui quá phức tạp, vừa là tên chỉ điểm cho giặc, vừa bí mật cung cấp thông tin cho cách mạng, cũng là tù binh của cả hai bên. Nhưng có điều, nhà tù của chúng là cực hình tra tấn; còn nhà tù của ta là lao động và giáo dục. Tui luôn cảm thấy có lỗi với đồng bào mình, cho nên...

Điểu Lên cứ để yên cho Điểu Dốp trải lòng. Cạn rượu, cạn lời và có được sự chia sẻ, cảm thông chắc rằng Điểu Dốp sẽ vơi bớt đi những nỗi niềm. Điểu Lên nắm bắt thời điểm thích hợp để bày tỏ sự đồng cảm:

- Tất cả sóng gió đã đi qua. Con dốc cao, vực sâu cũng đã vượt. Cuộc đời của mình đã xuôi về đoạn cuối. Ta dành thời gian còn lại mà dẫn đường cho con cháu nó đi. Điều quan trọng là phải hướng cho chúng nó biết phân biệt để chọn được con đường sáng.

Ông Dốp gật gù buông cần rượu. Cái thằng bạn ngày xưa đến giờ vẫn không thay đổi. Nói không nhiều, nhưng hễ nói là thuyết phục được đối phương. Ông quyết định chia sẻ nỗi lo với thằng bạn ngày xưa, với người ân nhân đã từng cứu sống mình, với một đồng niên biết cảm thông và chia sẻ.

- Tui hứa với ông, không những bọn trẻ sẽ đến lớp học mà đợi mùa lúa chín thu hoạch xong, cả hai ngôi nhà này sẽ dọn về khu định cư cùng bà con dân sóc.

Ông Dốp say, nằm lăn ra sàn nhà ngủ mà miệng vẫn còn cười. Bà Lạch cũng rất vui nên nán lại dọn dẹp giúp ông rồi mới về nhà. Lâu nay bà vẫn nhớ cái không khí tụ họp đông vui của những ngày lễ hội cùng bà con dân sóc, bây giờ thì tốt rồi.

Ông Phó Chủ tịch khập khiễng bước xuống sườn đồi, chọn một gốc cây ngồi tựa lưng nhìn ra đường. Đây chính là con đường huyết mạch dẫn đoàn quân tiến thẳng về giải phóng Phước Long ngày ấy. Ngồi ở chân sườn đồi bên này nhìn xuống triền dốc bên kia là dòng sông Đắk Lung uốn khúc như một con rồng thiêng đầy phép nhiệm mầu trong truyền thuyết. Từng cành cây, ngọn cỏ nơi đây và cả những hòn sỏi dưới chân ông hôm nay đều đẹp đến lạ lùng. Có lẽ vì ông say, mà cũng có lẽ vì ông quá vui...

***

Sau khi huyện Bù Đăng được tái lập trên cơ sở tách ra từ huyện Phước Long cũ vào năm 1988, hệ thống chính trị được kiện toàn và củng cố. Công tác quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ các cấp được chú trọng hơn. Năng lực quản lý, điều hành của các cấp ủy Đảng và chính quyền ngày một nâng cao.

Trải qua suốt chặng đường dài xây dựng và phát triển, đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của người dân vùng rừng núi từng gánh chịu sức nặng của hậu quả chiến tranh, giờ đã dần cải thiện. Điện, đường, trường, trạm tạm đủ cung ứng cho nhu cầu phát triển của địa phương.

Đầu năm 1991, Điểu Lên nhận nhiệm vụ mới với trách nhiệm “Chủ tịch Hội đồng già làng”. Vì già là người có uy tín, am hiểu sâu sắc về phong tục, tập quán của người S’tiêng và có khả năng tác động, tập hợp đồng bào trong bất kỳ tình huống nào. Già còn giữ vai trò quyết định mọi việc quan trọng và chủ trì các buổi lễ hội trong làng. Là một già làng luôn có ảnh hưởng lớn đến cộng đồng dân sóc, được người dân tín nhiệm, tin tưởng để có thể bày tỏ tâm tư, tình cảm, nguyện vọng và nhờ giải quyết những mối quan hệ trong gia đình, những rắc rối, bất hòa, những khó khăn, vướng mắc trong cộng đồng thôn sóc. Già luôn là cánh tay đắc lực của chính quyền địa phương trong công tác dân vận và hòa giải. Từ chuyện hòa giải vợ chồng bất hòa, mâu thuẫn hàng xóm, tranh chấp đất đai cho đến việc vận động trẻ bỏ học đến trường, khuyên nhủ trẻ hư hỏng trở thành công dân lương thiện... Bất kể ngày hay đêm, hễ có việc cần đến là già có mặt. Già tập trung vào ba nhiệm vụ chính là: Vận động dân làng “thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước”, vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và phòng chống tội phạm”, đồng thời “Bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa của đồng bào S’tiêng”.

Già Lên cảm thấy yên tâm và phấn khởi khi nhà nhà ra sức tăng gia sản xuất, góp phần xóa đói giảm nghèo, xây dựng đời sống văn minh. Cuộc sống định cư ổn định từ khi phát triển kinh tế gia đình với nguồn thu từ những cây công nghiệp. Trên thôn sóc đã ngất ngây với dòng nhựa trắng, với hạt điều thơm, với nồi cơm dẻo và tiếp tục duy trì việc kế thừa, phát triển sớm những nghề thủ công từ trong gia đình như đan lát, rèn, dệt thổ cẩm. Cho ra đời những sản phẩm tinh tế, đặc sắc, độc đáo nhằm phục vụ đời sống sinh hoạt, sản xuất. Từng bước khôi phục và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống trong cộng đồng người S’tiêng.

Già Lên vẫn tích cực vận động đồng bào duy trì lưu giữ những kỷ vật thành kho bảo tồn để gìn giữ nét văn hóa truyền thống đặc sắc của đồng bào mình. Từ những tài sản quý giá gia truyền như tố, ché, xà lung, cồng, chiêng, kèn bầu, đàn môi, sáo tiêu, tù và ngoài ra còn có cối, chày, gùi, bu, cung, nỏ cho đến những vật dụng nhỏ nhặt như vỏ bầu, ống tre, dao xắt thuốc lá (bằng tre nứa)... Đối với già Lên thì tất cả những vật dụng gắn liền với đời sống sinh hoạt từ xưa đến nay đều mang một giá trị văn hóa độc đáo và quý giá cần được giữ gìn và phát huy.

***

Kể từ ngày Điểu Dách bị bom bi hại chết là Krí bỏ hẳn luôn, không động tới những thứ gì có liên quan đến bom đạn nữa. Nó bắt đầu quay lại gắn bó với rừng và vui với những mùa qua đầy ý nghĩa.

Sau những ngày cùng vui Tết Nguyên Đán với không khí náo nhiệt, hòa quyện tình thân, không còn ranh giới giữa người Kinh và người đồng bào trong thôn sóc nữa, thì Krí bắt đầu như tan biến theo nhịp thở của suối, khe, đồi, núi.

Xuân rộn rã giữa mùa nắng đẹp. Cây cỏ ưỡn mình khoe sức sống viên mãn. Hoa quả nồng hương của núi rừng tinh túy. Lộc biếc, chồi non đến nức lòng muông thú… cũng chính là thời điểm thích hợp cho mùa săn cá của Krí. Chiếc gùi trên lưng, cây nỏ trên vai, xà gạc bên hông và một cây lồ ô được vót nhọn cầm tay luôn đồng hành cùng Krí. Ngày ngày lang thang khắp suối, đồi. Những khe suối cạn xâm xấp, cứ sủi từng chùm hoa nước từ đàn cá tung tăng đớp mồi phơi lưng uốn lượn. Krí chỉ ngắm vào những con cá to mà ghim mũi nứa xuống rồi gỡ ra xỏ xâu bỏ vô gùi. Đến quãng đồi rau nhíp gặp mưa xuân, lá mầm bung rộ là hai bàn tay Krí cũng thoăn thoắt không khác gì các cô sơn nữ. Chỉ hôm nào không có cá, có rau thì Krí đành giương nỏ ngắm vào một con chồn hay chú thỏ ngẩn ngơ.

Hoàng hôn buông xuống, Krí cùng một số bạn bè có cả gái, trai đi săn cá đèn trong khu trảng cỏ. Trảng cỏ Bàu Lạch đã chuyển cái màu xanh ngút ngàn của mùa mưa thành từng thảm vàng ngất ngây ẩn hiện. Cả nhóm chọn một điểm bằng phẳng nhất rồi để đồ, sau đó kiếm củi chất thành đống sẵn sàng. Trời bắt đầu sập tối, từng tốp rọi đèn pin cho đàn cá ùa vào ăn đèn, vậy là cùng nhau tha hồ bắt. Cảm thấy được kha khá là bắt đầu nổi lửa lên, ngồi quây quần thưởng thức cái vị ngọt thơm cay nồng của cá nướng còn tươi roi rói chấm muối ớt. Những cần rượu được kéo lên chuyền tay nhau. Cũng chính là lúc lời ca, điệu nhảy múa réo rắt, ngân nga, yểu điệu như đan xen, hòa lẫn vào ánh lửa bập bùng. Men rượu, men tình cũng bắt đầu tan chảy...

Krí mang tình xuân vào hạ. Mùa hè đầu tiên nó đi rừng có đôi, có cặp. Từ cái đêm đầu xuân đốt lửa nướng cá trong trảng cỏ Bàu Lạch, nó đã ngất ngây với hai bàn chân trần nhún nhảy; với đôi tay và thân hình mềm dẻo, uyển chuyển theo từng nhịp điệu; với cặp mắt lúng liếng cười duyên của Thị Chanh. Rồi những đêm sau, nó bạo dạn đứng lên cùng nhảy múa, cùng hòa giọng: “Con lươn nằm yên ở đầu nguồn/ Tình đôi ta sẽ không hề thay đổi/ Từ lúc tôi đến bên nàng/ Tất cả buôn làng đều đồng ý/ Núi rừng đã biết điều thầm kín/ Rễ cây đã quấn quýt thân cây/ Làm sao đôi ta thương nhau mà giấu tất cả mọi người”9. Điệu múa, lời ca cứ dìu dặt, chứa chan bao âm sắc hữu tình. Vậy là cái bụng nó ưng nhau lúc nào cũng không hay biết. Chỉ biết hiện tại hai đứa đang lang thang trong rừng cùng tìm nhặt hạt đười ươi. Mùa đười ươi năm nay khan hiếm, bởi bốn năm cây trưởng thành mới cho hạt một lần. Nhưng mấy năm qua, một số gia đình cưa đổ cả cây xuống để thu hoạch. Vì vậy mà những khu rừng gần không còn được mấy cây ươi. Hai đứa phải đi mãi gần đến khu rừng Cát Tiên mới gặp được vài cây cổ thụ. Thị Chanh mừng rối rít:

- Krí! Ở đây rồi. Đúng là đười ươi bay. May quá!

Không vội, cả hai hạ gùi xuống, cùng quan sát. Loài đười ươi bay này khi đã chín là tự rụng. Nhưng mới đầu mùa nên hạt rụng còn quá ít. Vừa uống xong ngụm nước, Chanh đã giục:

- Krí, trèo lên cây rung thêm đi. Chanh nhặt chỗ này trước.

- Ừ! Phải vậy thôi.

Chanh ngồi xuống, hai tay thoăn thoắt khều lá, nhặt hạt bỏ vô gùi. Krí như chú khỉ nhanh nhẹn, thoắt cái đã ngồi chễm chệ trên cây. Nó nhìn xuống gốc quan sát rồi chuyền sang cành cây khác để tránh khu vực Chanh đang nhặt. Nó chọn tư thế đứng tựa chắc lưng vào một nhánh cây rồi hai tay ôm cành rung mạnh. Những hạt ươi màu nâu vàng chen nhau rơi lả tả xuống mặt đất. Vài hạt còn nghịch ngợm xé toạc chiếc lá trên đường đi của mình. Những chiếc lá khô cong cũng đua nhau lượn lờ như đàn dơi nhỏ rồi sà xuống đậu cả trên tóc, trên áo Chanh. Chanh lại giục:

- Đủ rồi Krí, xuống đi.

Krí buông tay, nhảy phốc xuống đất rồi sà vào tấm thảm nâu trước mặt Chanh. Loáng cái là những hạt đười ươi đã nằm gọn trong gùi. Mấy ngày trước, hai đứa nhặt cả ngày chỉ được vài cân. Vậy mà hôm nay, được đầy cả hai gùi. Niềm vui cứ nhảy nhót theo chân đôi bạn trẻ trên đường về. Chanh đi trước, Krí theo sau. Thỉnh thoảng hai tay nó nâng phụ chiếc gùi của Chanh lên mỗi khi vượt dốc. Lời bài hát Thương nhau lại ngân nga trong tiếng nhạc rừng: “Con lươn nằm yên ở đầu nguồn/ Tình đôi ta sẽ không hề thay đổi/ Làm sao đôi ta thương nhau mà giấu tất cả mọi người”.

Mùa hè cứ luyến tiếc trôi qua cái nụ tình mẩy hương rừng, gió núi. Đôi bạn trẻ bước vào thu theo hương hoa vối, quả xay.

Hai chiếc gùi ngày ngày vẫn sánh bước bên nhau, khi nặng, khi nhẹ, lúc đẫy mớ rau rừng, lúc lưng ngọn măng le, lúc vài con chim, con thú nhỏ. Vừa kiếm cái ăn, vừa theo hướng gió để tìm mùi thơm đặc biệt của loài cây vối. Cả lá, cành non và nụ vối đều tỏa ra một mùi thơm dìu dịu không thể lẫn vào đâu được.

Thị Chanh gấp gọn tấm thổ cẩm bỏ vô gùi, để nắm cơm, ống nước bên trên rồi đeo lên vai là cũng vừa lúc nhìn thấy Krí tới đầu ngõ. Knhum, Dong và mấy đứa con gái cũng đã gọi nhau í ới. Krí dẫn đường, vì chỉ có nó với Chanh mới biết khu rừng vối đó ở đâu. Cả nhóm bạn nghe theo lời nó vừa đi vừa quan sát những cánh rừng hai bên lối đi, nếu gặp rừng xay thì sau mùa vối sẽ tiếp tục hái xay mà không phải mất công tìm nữa. Cứ vừa đi vừa quan sát mà quên mất quãng đường xa nên loáng cái đã tới nơi. Chanh cùng mấy đứa con gái trải tấm thổ cẩm lót dưới tán cây. Krí và mấy đứa con trai trèo lên cây, bẻ những cành có nhiều nụ quẳng xuống. Chanh gom gọn lại thành đống cho Sao và Bơ Lin tuốt nụ bỏ vô gùi. Những nụ vối xanh màu lục nhạt, ưng ửng phớt hồng và tim tím chín, được mấy đứa con gái tỉ mẩn tuốt cẩn thận rồi chia đều ra tất cả các gùi. Con gà rừng cũng vừa chín tới, thơm lựng. Cả nhóm cùng ăn uống, trêu chọc nhau đến bóng chiều vừa ngả là nối gót xuôi về. Mấy đứa bạn đều bán nụ tươi. Riêng Chanh và Krí thì rửa sạch và phơi khô để hết mùa mới bán.

Hương vối đã bảng lảng thưa dần thì hương xay cũng bắt đầu đượm nồng trong gió thoảng. Những cây xay cao ngút, tán rộng như mái nhà, từng chùm quả xanh non ken dày trong vòm lá mà cả nhóm phát hiện khi đi hái nụ vối, giờ đã chuyển màu và hương khỏa đến ngất ngây. Năm nay xay trúng mùa nên đứng dưới gốc nhìn lên mà ngỡ vòm cây được nhuộm một màu nhung nâu nhạt, cứ lấp lánh chuyển mình dưới hoa nắng viền xen. Krí, Knhum, Dong trèo lên cây và tỏa ra ba hướng, kéo cây tầm vông dài lên theo rồi chọn vị trí đứng thuận tay mà đập quả. Chanh, Sao và Bơ Lin cùng dọn sạch xung quanh gốc cây rộng hơn vòm tán lá rồi ra xa đứng đợi. Ba cây sào trên cây bắt đầu đập vùn vụt. Từng chùm cuống quả bị bứt ra khỏi cành và lủng lẳng xô đẩy nhau đáp xuống mặt đất. Ba cây sào dưới đất cũng nhanh nhẹn kéo những chùm quả ra ngoài rồi bẻ bớt cành, vặt bớt lá sau đó mới bỏ gọn vô gùi. Trời đứng bóng thì những chiếc gùi đẫy hương xay cũng bắt đầu len lỏi theo đường mòn xuống dốc. Nghe tiếng bước chân người lạ. Cả nhóm nép vào lùm cây. Một đoàn năm, sáu người vác cả cưa máy đang thẳng hướng rừng xay. Vậy là đã hiểu chuyện gì sắp xảy ra rồi...

Một trận mưa thu đổ ào bất chợt, khiến ông mặt trời vội núp nhanh vào chân núi. Màn đêm đen kịt cũng vội vã trùm kín khu rừng ẩm ướt. Krí cùng già Lên đeo xà gạc đi trước, bốn chú cán bộ kiểm lâm tay súng sẵn sàng phía sau. Nó quen đường nên cứ thoăn thoắt xuyên vào bóng đêm. Già Lên cũng bám sát nó không rời. Bốn chú kiểm lâm phải rọi đèn pin xuống chân để không bị trượt. Những giọt nước đọng trên lá cây cứ nhảy cẫng lên rồi đu vào áo quần của sáu người làm ướt sũng. Krí xác định vị trí và thận trọng chậm bước để nghe ngóng. Có tiếng cười nói đang vọng lại.

- Gần tới rồi. Chính là bãi xay phía trước mặt mình.

Ánh đèn pin vụt tắt. Những bước chân nhẹ nhàng tiến dần về phía trước. Đã có ánh đèn hắt ra từ một tấm bạt căng giữa những cành cây lởm chởm và những đốm lửa lốp bốp phát ra từ củi tươi ẩm ướt. Krí ngỡ ngàng khi nhìn thấy rừng cây cổ thụ khi sáng đã trở thành một bãi đổ nát ngổn ngang.

- Cho tui xin tí lửa. Bị ướt mưa nên lạnh quá.

Krí run lẩy bẩy, vừa nói vừa tiến thẳng vào gần đống lửa. Thấy quần áo Krí ướt sũng, trên người chỉ có chiếc gùi đựng ít quả xay và cái xà gạc bên hông nên bọn họ không nghi ngờ gì mà gật đầu đồng ý. Krí xoa xoa hai bàn tay vào nhau, dò hỏi:

- Chỉ lấy gỗ, không lấy quả xay à? Cho tui lấy quả được không?

- Lấy tất. Cho mày một gùi cũng được. Hơ cho đồ khô, lấy xong rồi biến đi.

- Cho tui một ly. Uống cho ấm cái bụng.

- Thằng này lắm chuyện rắc rối, nhưng tao đang vui, cứ cho nó uống cùng.

Krí nghiễm nhiên trở thành bạn nhậu của chúng. Sau vài cái cụng ly, nó đã biết tất cả mọi người đều răm rắp nghe và làm theo lời của lão Mập. Lão Mập chính là kẻ cầm đầu. Năm thằng còn lại đều trẻ, cỡ tuổi như nó. Trong lều còn có một người phụ nữ. Nó dốc ngược cái ly đã cạn, đặt xuống đất rồi đứng lên. Nó khập khiễng vừa đi vòng quanh, vừa đưa tay ra hiệu, vừa hát: “Bảy anh em trên một chiếc xe tăng/ Là bảy anh em trên một chiếc xe tăng/ Là bảy ...”. Nó vòng tay ôm vai lão Mập vừa hát vừa lắc lư. Lão Mập khoái chí và đang có ý định sẽ thu nạp thằng đệ tử vui tính này vào làm việc cho lão. Nhưng, lão đã bị Krí bất ngờ khống chế trong tư thế nằm sấp, hai tay quặp ra sau lưng; đầu gối và xà gạc của Krí đã ghìm chặt cơ thể lão xuống mặt đất. Lão chưa kịp phản ứng thì năm thằng đàn em và con bồ của lão đã bị già Lên cùng bốn cán bộ kiểm lâm bắt giữ.

Theo lời khai của chúng, già Lên dẫn đường cho cán bộ kiểm lâm xuôi theo dòng Đắk Lung để tìm vớt số gỗ mà chúng đã giấu dưới mép sông. Tất cả số gỗ đã được chuyển về trạm. Loài gỗ cứng, vỏ màu trắng xám, có giá trị cao bởi thân gỗ có vân tím mịn, có nhiều nhựa đỏ, có thể cho ra sản phẩm đồ gia dụng đẹp không khác gì lim, sến nhưng giá thành hợp với túi tiền người tiêu dùng nên đang được ưa chuộng. Mùa quả năm nay có lẽ đúng chu kỳ của mười năm lặp lại, nên sai trĩu cành. Chính vì vậy mà lâm tặc thi nhau săn tìm để khai thác. Krí tiếc vô cùng, phát hiện sớm vậy mà đã bị chúng hạ hết hơn hai mươi cây rồi.

Krí sống dựa vào rừng. Nó yêu rừng, yêu cỏ cây, muông thú. Có lẽ vì vậy mà già Lên đã tin tưởng giao cho nó bí mật theo dõi, để có biện pháp ngăn chặn kịp thời những kẻ có hành vi phá rừng. Già còn truyền cho nó một số kinh nghiệm để có thể tự vệ cho bản thân nữa. Nó luôn biết ơn già đã uốn nó thành một cây thẳng đứng, tràn đầy sức sống giữa rừng cây bạt ngàn.

Krí cùng Chanh bước vào đông với những đọt mây không hương, nhưng được chắt lọc cái vị ngọt đắng của đất trời giữa núi rừng thuần khiết. Loài cây leo này có thể nói “vừa cứng, vừa mềm, vừa dẻo dai, vừa nhiều gai, vừa ngon, vừa đẹp”. Bởi nó có thể đan tay vào nhau, tạo thành một rào chắn liên kết giữa bụi này sang bụi khác để ngăn chặn bước tiến của kẻ thù. Bọn giặc gặp rừng mây là chùn bước, bởi thân ken dày và đầy gai nhọn. Nó có bị bẻ cong cũng không gãy. Người đi rừng thường dùng nó làm roi như một vũ khí trên tay, khi bị loại roi mềm dẻo này quất vào thì sẽ đau đến thấu xương nên sẽ hạ gục đối phương một cách dễ dàng. Những vật dụng trong đời sống thường ngày của đồng bào S’tiêng đa phần dùng vật liệu từ mây. Thân mây được chẻ, tuốt tỉ mỉ trước khi đan lát. Từ nia, sàng, gùi, bu, dụng cụ săn thú hoặc bắt cá cho đến túi nhỏ đựng cơm, dây gùi, dây nỏ và những hoa văn trang trí tỉ mỉ như hình con cuống chiếu, đường xương cá, bông hoa, trang trí hoa văn trên cây nêu... được làm từ mây đều dẻo, bền, bóng, đẹp. Lá mây được kết lại với nhau bằng dây mây dùng để lợp nhà. Mái lợp bằng lá mây vàng ươm, vừa mát, vừa đẹp lại có độ bền cao hơn nhiều so với tranh và các loại lá khác. Đặc biệt là đọt mây: Xưa giúp bộ đội, đồng bào vượt qua cơn đói; nay là món đặc sản của núi rừng mà người người đều ưa chuộng.

Krí ngắm nghía, chọn hướng thuận để rút từng cây mây có đọt mập mạp xuống rồi dùng xà gạc cắt ngang. Chanh chỉ việc gom nhặt những đọt mây Krí vừa hái, rồi gọt tỉa xung quanh và cắt bỏ chùm lá gai bên trên mà cắm vô gùi. Ngày từng ngày, đôi bạn trẻ vẫn miệt mài đưa hương vị của núi rừng về thôn sóc. Và rồi cái vị ngọt đắng, thơm bùi, nồng cay của đọt mây nướng chấm muối ớt; cái vị beo béo, bùi bùi, đăng đắng, đượm nồng của đọt mây nấu cá suối, ốc đá, xương heo, hay đơn giản như xào, luộc... dù chế biến bằng cách nào thì hương vị của những món ăn từ đọt mây trắng cũng làm ấm lại mùa đông bởi sự dung hòa của “ngọt, bùi, cay, đắng” đã xoa dịu những tháng ngày qua. Tình yêu của đôi trẻ được nuôi dưỡng bằng hương đất, hương rừng, giữa cảnh vật thiên nhiên hiền hòa và cứ lớn dần lên.

Krí lên đường nhập ngũ. Ngôi nhà và mảnh vườn nhỏ của Krí vẫn ấm, vẫn xanh. Bởi có đôi bàn tay khéo léo giữ gìn, chăm sóc; có đôi chân chung tình mỗi ngày vẫn đi sớm, về khuya. Con nghé của già Lên cho khi Krí mới vào bộ đội, giờ đã tròn ba tuổi. Con trâu ấy mỗi ngày một lớn, ngày vui của Chanh mỗi lúc một gần kề.

Rồi mùa xuân lại đến. Nỗi nhớ mong cùng lúc vỡ òa. Ngày hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về, Krí vẽ trong đầu biết bao hình ảnh nồng nàn khi người yêu đón đợi. Càng về gần đến nhà, Krí càng hồi hộp, xuyến xao. Không thấy Chanh đâu. Chỉ thấy người người vào ra chộn rộn. Nỗi lo lắng cứ dập dồn từ đâu đến như đánh vào đôi chân, như quất vào tri giác. Có một cảm giác rất mông lung cứ trôi bồng bềnh trong khoảng không bất tận...

- Chú rể về rồi! Chú rể về tới rồi.

Krí bừng tỉnh trong tiếng reo cười giữa không khí nhộn nhịp, đông vui. Già Lên tổ chức mổ trâu, chuẩn bị trang trí nhà cửa, sân lễ. Bà con dân sóc phụ chế biến thức ăn để đãi tiệc đón dâu. Krí chỉ việc tắm rửa, thay đồ rồi theo sau già Lên cùng đoàn người đến nhà gái đón dâu. Một tiệc cưới diễn ra với chút âm hưởng cưới xin hiện đại của người Kinh hòa vào nét văn hóa truyền thống đặc sắc của đồng bào S’tiêng qua điệu cồng chiêng, nhảy múa, chúc mừng của hai họ; cùng ăn, cùng uống rượu cần, cùng chia sẻ niềm vui... Krí thật hạnh phúc vì già Lên luôn cho mình cái cảm giác ấm áp của tình thân, để khỏa đi sự trống vắng, đơn độc trong cảnh mồ côi. Anh hãnh diện giữa bà con dân sóc và họ hàng bên đàng gái khi già Lên đứng ra làm chủ hôn và đại diện nhà trai; vừa hãnh diện, vừa hạnh phúc khi được sóng đôi với người con gái xinh đẹp, nết na lại chân tình và thủy chung, son sắc.

***

Niềm vui, niềm tự hào như vẫn còn lan tỏa. Bởi cái ngày cuối năm 1994 đã diễn ra một sự kiện lớn trên vùng đất mà địa danh “căn cứ Nửa Lon” từng đi vào lịch sử. Quân và dân Đắk Nhau vinh dự đón nhận danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” do Đảng và Nhà nước trao tặng. Cái danh hiệu làm minh chứng cho truyền thống đấu tranh quật cường của quân dân vùng căn cứ Nửa Lon và Đắk Nhau, để con cháu tiếp tục kế thừa, phát huy trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Giữa niềm tự hào ấy, già Lên thấy cả những ký ức hào hùng của Bom Bo. Bởi ngày xưa Bom Bo - Đắk Nhau và căn cứ Nửa Lon gần như là một.

“Bom Bo”, một địa danh bất hủ đã đi vào huyền thoại với những ký ức hào hùng luôn vững vàng, hiên ngang dưới mưa bom, bão đạn. Một cái tên thật kiêu hãnh và là niềm tự hào đối với người dân sóc Bom Bo. Nhưng giờ đây, Bom Bo không còn là Bom Bo nữa mà đã đổi thành Thôn 1. Cái tên Bom Bo đã bỏ bà con dân sóc đi lạc đến một nơi xa cách ranh giới Bom Bo xưa cả 10 cây số. Bà con dân sóc vẫn ngày đêm mong chờ “Bom Bo” quay trở lại đúng nghĩa với mảnh đất đã oằn mình cùng dân làng gánh chịu quá nhiều bom đạn.

Chuyện cái tên “Bom Bo” bị thất lạc nhiều năm, bà con dân sóc không ưng bụng, già Lên cũng không ưng cái bụng. Nhưng việc phân chia địa giới là của Chính phủ. Làm sao để cái tên “Bom Bo” được quay về với sóc Bom Bo như xưa mà không làm trái với chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước. Già Lên hiểu cái bụng của dân sóc, nên cái bụng của già càng nặng hơn. Niềm mong mỏi của bà con cứ lớn dần, lớn dần, tạo thành cái sóng ngầm của cuộc đấu tranh tư tưởng. Già Lên quyết định cùng bà con lên tiếng đấu tranh, kiến nghị với các cấp chính quyền để xin lại tên “Bom Bo” về cho dân sóc. Già khuyên nhủ dân sóc không nên làm náo loạn, không phát biểu linh tinh để kẻ xấu có cơ hội gây rối, phá hoại, chia rẽ mối quan hệ giữa dân với tổ chức chính quyền. Già cùng dân sóc thống nhất nêu những ý kiến chính đáng của đồng bào mình trong các cuộc tiếp xúc cử tri và nhờ các cấp chính quyền ghi nhận, chuyển tiếp nguyện vọng của dân sóc lên lãnh đạo cấp trên. Một năm, hai năm, ba năm... Bà con dân sóc vẫn kiên trì chờ đợi, trong khi cuộc sống vẫn theo guồng thời gian xoay chuyển.

Thực hiện cuộc vận động “Kế hoạch hóa gia đình” là vấn đề khó khăn chung trong toàn huyện. Bởi người đồng bào từ xưa đến nay hễ trời cho bao nhiêu con thì cứ đẻ bấy nhiêu, giờ phải kế hoạch, chẳng biết có xúc phạm đến thần linh, trời đất không? Có những thắc mắc không biết chia sẻ cùng ai, nhưng già Lên luôn nhận rõ được trách nhiệm lớn lao của mình.

Phải thực hiện vận động từ trong gia đình để làm gương cho dân sóc. Già Lên đem những khó khăn chia sẻ cùng vợ. Bà Bơ Rơi biết chồng mình rất thương vợ, thương con, nhưng luôn có trách nhiệm với công việc. Đã nhận trách nhiệm về mình là phải quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Ông ấy đã hy sinh cho cái gia đình này quá nhiều rồi. Ngày mới giải phóng, ông đưa mấy ngàn hộ dân về thôn sóc cũ để khai hoang, phục hóa, làm ăn sinh sống. Rồi lại nhận nhiệm vụ làm Phó Bí thư Huyện đoàn Phước Long. Khi đồng chí Bảy Thõa (Bí thư Huyện đoàn) chuyển lên tỉnh Sông Bé làm việc cũng có ý đưa chồng bà lên theo. Nhưng ông ấy xin về làm Bí thư Đảng ủy xã Đắk Nhau để giúp đỡ đồng bào mình và thuận tiện đỡ đần cho vợ, chăm sóc các con. Công tác xã hội, công việc gia đình như một vòng xoay dây chuyền không thể ngơi tay. Ông không còn thời gian để tham gia lớp học xóa mù chữ. Và, ông đã bù lại cái ước mơ đi tìm con chữ cho mình bằng cách tạo mọi điều kiện để trẻ em trong thôn sóc và các con ông đều được đến trường. Thương chồng, nên bà đăng ký đi đình sản.

Bà Bơ Rơi được chồng con đưa đến bệnh viện huyện Bù Đăng. Bà đã chuẩn bị tinh thần sẵn sàng theo chân y bác sĩ bước vào phòng. Trước khi cánh cửa phòng khép lại, bà đã nhận rõ sự hồi hộp trong những ánh mắt ngây thơ của các con và ánh nhìn động viên, khích lệ của chồng. Bà yên tâm bước lên bàn phẫu thuật nằm nhắm mắt chờ đợi. Bà cảm nhận được sự bắt đầu khi có tấm vải phủ lên người bà. Bà nghe tiếng va chạm của dụng cụ y tế, sau đó là mũi kim tiêm chạm vào bụng bà. Bà bắt đầu mất cảm giác ở vùng bụng khi mũi kim tiêm thứ hai bơm thuốc vào. Tim bà bắt đầu đập nhanh, gấp gáp. Ngực bà như có một tảng đá to đang dồn hết sức nặng đè lên. Miệng bà mấp máy rồi đôi môi cứng đờ không mở ra được. Bà bắt đầu cảm thấy mình như bị ngạt thở. Tâm thức bà vẫn nghe được tiếng bước chân gấp gáp của y bác sĩ. Có cái gì đó chụp lên ngực bà lôi lên rồi dập xuống. Dường như có tiếng khóc của các con? Bà lịm dần, lịm dần, tay chân mềm nhũn...

Già Lên cảm nhận được mối nguy hiểm đang đe dọa tính mạng vợ mình. Nhưng ngay lúc này ông cần phải hết sức bình tĩnh. Ông ôm các con vào lòng để trấn an chúng và cũng chính là trấn an bản thân mình. Hơn hai giờ đồng hồ chờ đợi trong sự lo âu, hồi hộp. Cuối cùng, vợ ông cũng được chuyển ra phòng hồi sức cấp cứu. Các con lại khóc òa khi nhìn thấy mẹ chúng nằm im bất động. Ông phải vừa dỗ dành vừa giải thích để chúng yên tâm.

Ngồi nhìn vợ nằm im thiêm thiếp, ông mới chợt nhớ ra là đã bao năm bản thân mình chỉ lo chuyện của xã hội, của cộng đồng thôn sóc nên trách nhiệm gia đình dường như đã dồn hết vào đôi vai của vợ. Cả chín người con, bốn trai, năm gái đều khỏe mạnh và học hành chăm chỉ. Ông thầm hứa với lòng là từ nay sẽ dành nhiều thời gian cho gia đình hơn, sẽ gánh vác trách nhiệm gia đình để vợ có thời gian chăm lo cho sức khỏe.

Vừa về đến nhà thay đồ, chưa kịp báo tin cho vợ thì đồng chí Ba Chia (Chủ tịch huyện Bù Đăng) và đồng chí Hà Rốt (Phó Chủ tịch) đã đến đón già Lên cùng đi rồi. Chiếc xe chưa kịp chuyển bánh, nước mắt bà Bơ Rơi đã lã chã tuôn dòng. Chỉ mới đây thôi, anh ấy mới về thăm dân sóc vài tháng trước. Vậy mà...

Mấy năm nay anh Xuân Hồng vẫn thường về thăm dân sóc. Nhớ có năm hay tin anh về, bà con còn đưa cả voi đến đón anh. Lúc nào anh cũng quan tâm, lo lắng cho cuộc sống của bà con thôn sóc. Gia đình nào làm ăn khá giả, anh vui mừng và khích lệ để tiếp tục phát huy. Gia đình nào còn nghèo khó thì anh tìm cách giúp đỡ và động viên. Lần nào anh về, bà con cũng đều gọi anh chính là con cưng của Bom Bo. Người con cưng của sóc Bom Bo cách đây vài tháng đã trở về, đã cùng ăn, cùng ngủ, cùng ôn lại những ký ức một thời oanh liệt. Có ai ngờ, đó chính là lần cuối cùng anh về thăm rồi giã biệt đồng bào và thôn sóc. Giờ thì người con cưng của Bom Bo đã ra đi. Anh ra đi giữa tháng năm trong cơn mưa hè xôn xao nỗi nhớ, trong khúc nhạc ve rưng rưng tiễn biệt, bên xác phượng hồng lã chã giọt ngâu và những khúc ca cũng đục ngầu nỗi nhớ. Bà Bơ Rơi chợt nhớ đến niềm mong ước về một bức tượng mà anh đã đặt hết hy vọng vào chồng bà.

Từ lúc bước lên xe để về lại Bù Đăng, cả ba người vẫn cứ lặng im trôi theo dòng cảm xúc miên man của riêng mình. Già Lên vẫn như đang nghe từng lời của “Tiếng chày trên sóc Bom Bo” còn đang nức nở; những luồng hơi thở nặng nề cố kìm nén tiếng nấc để khỏi bật ra; như vẫn còn nhìn thấy những tia buồn đỏ hoe tiễn biệt... Đến để tiễn biệt anh trong lễ viếng, người người đều rơi nước mắt. Người anh kết nghĩa của già đã ra đi vĩnh viễn, đã bỏ già ở lại cùng một di nguyện chưa được hoàn thành, khiến già cứ day dứt mãi...

Ngày mai là 28 tháng 4 năm 2000, quân dân xã Bom Bo vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”. Cả xã đang chuẩn bị mở hội ăn mừng trước niềm vinh dự lớn lao. Giữa không khí náo nhiệt hân hoan ấy, những ước mơ thầm kín từ trong sâu thẳm của đồng bào Thôn 1 (sóc Bom Bo trước đây) càng thêm nung nấu: “Phải chi nơi đón nhận danh hiệu Anh hùng chính là sóc Bom Bo thì niềm vui sẽ tăng gấp bội”.

Già Lên hiểu rất rõ tâm trạng của người dân Thôn 1 lúc này. Bởi sau ngày giải phóng, đồng bào Bom Bo nô nức trở về sóc cũ làm ăn sinh sống và khôi phục lại thôn sóc. Ai cũng mong sớm hàn gắn vết thương chiến tranh và xóa đi sự tàn phá khủng khiếp của đạn bom trong những tháng ngày sục sôi máu lửa. Thời gian qua mau theo sự tất bật của cuộc sống mưu sinh. Sóc Bom Bo của ngày nào bỗng trở thành Thôn 1, vì xã mới thành lập đã được mang tên “xã Bom Bo” và trung tâm xã lại cách sóc Bom Bo cũ gần 10 kilômét. Đã bị lạc mất tên suốt 10 năm dài đằng đẵng, nhưng được an ủi vì Thôn 1 vẫn là một bộ phận của xã Bom Bo. Rồi một ngày của tháng 5 năm 2008, Thôn 1 lại bị tách hẳn ra khỏi xã Bom Bo để sáp nhập vào xã mới có tên là “xã Bình Minh”. Từ đó, sóc Bom Bo của đồng bào S’tiêng chỉ còn lại trong lời bài hát của cố nhạc sĩ Xuân Hồng “... Cách mạng cần gạo nhiều để đánh Mỹ/ Sóc Bom Bo sẵn có cối chày đây/ Người Bom Bo sẵn có đôi bàn tay/ Với tình yêu nước và thù giặc ngày ngày...”.

Khi cái tên “Bom Bo” đã trở thành bất hủ gắn liền với những kỳ tích anh hùng đi vào huyền thoại và tạo tiếng vang khắp năm châu theo tác phẩm “Tiếng chày trên sóc Bom Bo” của cố nhạc sĩ Xuân Hồng, giờ đã đi xa. Rồi đây, lớp trẻ chỉ biết được xã Bom Bo bây giờ và không ai còn biết đến cái sóc Bom Bo của một thời oanh liệt nữa. Những ước mong Bom Bo về đúng vị trí của sóc ngày xưa để giữ gìn bản sắc văn hóa và làm nền tảng giáo dục truyền thống anh hùng cách mạng cho con cháu mai sau lại càng thêm nung nấu.

Rất nhiều ý kiến của đại diện cử tri hằng năm vẫn được kiến nghị lên các cấp chính quyền huyện, tỉnh... nhưng rồi vẫn cứ như bị chìm vào quên lãng. Niềm mong mỏi, chờ đợi gần như vô vọng.

“Dân là dân Anh hùng cách mạng. Bom Bo là một địa danh bất hủ đã đi vào huyền thoại. Trả lại tên Bom Bo về sóc cũ theo nguyện vọng của đồng bào là việc mà các cấp chính quyền cần quan tâm, xem xét. Những ý kiến của đại biểu đại diện cử tri rất chính đáng, vì đấu tranh là đấu tranh cho quyền lợi của nhân dân chứ không vì bản thân họ. Nhưng cái khó ở chỗ là đã có xã Bom Bo rồi. Nếu muốn thành lập xã “Bom Bo 2” thì phải trưng cầu ý kiến lên Quốc hội và phải đợi Quốc hội họp bàn, thống nhất và ký quyết định, chứ không đơn giản ...”. Đó là những băn khoăn, trăn trở của hội đồng nhân dân các cấp. Họp bàn, rồi lại họp bàn. Cuối cùng cũng đưa ra được quyết định là sẽ xin “Đổi tên Thôn 1 thành thôn Bom Bo”.

Niềm tin của sự mong đợi đã trở thành hiện thực. Cuối năm 2012, chính quyền huyện Bù Đăng đã long trọng tổ chức lễ trao - nhận quyết định đổi tên Thôn 1, xã Bình Minh thành thôn Bom Bo. Bom Bo đã trở lại là Bom Bo. Niềm tự hào đã trở về cùng dân sóc. Những người già đã thức trắng mấy đêm liền bởi niềm vui dâng trào thỏa nguyện. Bà con nô nức mở hội ăn mừng.

***

Một ngày mới bắt đầu với khúc nhạc rừng véo von của các loài chim đang thi nhau hòa giọng. Những giọt sương buổi sớm long lanh như mắt ngọc, tắm vội sắc hồng của ánh ban mai rồi thẹn thùng ẩn mình trong lòng lá. Đàn bướm trắng xinh xinh khép đôi cánh nhỏ rồi sà vào cửa lớp. Trường Tiểu học Xuân Hồng cũng hòa vào ngày mới rộn ràng cùng tiếng trẻ ê a.

Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo giai đoạn 1 đã hoàn tất với những hạng mục: Sân lễ hội, hệ thống điện nước, nhà đón tiếp, nhà voi, lưu giữ làng nghề truyền thống, hai tuyến đường giao thông nội bộ (tuyến thứ nhất là trục đường chính của dự án mang tên Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, liệt sĩ Điểu Ong; tuyến thứ hai kết nối các điểm tham quan trong khu bảo tồn mang tên cố nhạc sĩ Xuân Hồng). Khu tái định cư cho đồng bào dân tộc tại chỗ, điểm Trường tiểu học Xuân Hồng... Cả xã Bình Minh và đặc biệt là dân sóc Bom Bo rộn ràng trong không khí tất bật chuẩn bị cho buổi lễ khánh thành Khu bảo tồn.

Dân làng già, trẻ, gái, trai nối gót nhau vào khu bảo tồn với tinh thần háo hức. Khâu chuẩn bị bắt đầu, ai vào việc nấy. Đội thanh niên xung kích chia ra nhiều nhóm. Nhóm này dọn vệ sinh, nhóm kia vác lồ ô xếp thành đống đuốc lớn giữa sân, nhóm nọ kiểm tra và hoàn tất phần trang trí sân lễ. Phụ nữ, người già thì tất bật lo phần ẩm thực. Tiếng cồng chiêng, tiếng khèn, điệu nhảy hòa với giọng ca của đội văn nghệ đang tập dượt cũng vang vang rộn rã. Già Lên hết kiểm tra đôn đốc chỗ này lại nhắc nhở động viên chỗ nọ, đặc biệt là phải chú ý đến các lễ vật cúng mừng lễ hội. Các đồng chí trong Ban tổ chức thì chuẩn bị thật chu đáo từng danh mục cụ thể cho việc tiến hành buổi lễ được long trọng và thành công như ý.

Bao niềm cảm xúc không thể nói nên lời, bà con dân sóc chỉ biết lặng im dõi theo diễn biến buổi Lễ khánh thành Khu bảo tồn dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo. Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cùng đại diện lãnh đạo Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, lãnh đạo tỉnh và huyện Bù Đăng đã tiến hành nghi thức cắt băng khánh thành trước sự chứng kiến đông đảo của hàng ngàn người dân trong tỉnh trên chính vùng đất cách mạng Bom Bo năm xưa. Vùng đất hào hùng đã vang vọng từng tên người, tên sông, tên núi đi vào huyền thoại. Nguyên Chủ tịch nước còn trồng cây lưu niệm tại khu vực sân lễ của khu bảo tồn trước khi tiến hành khai mạc Liên hoan văn hóa, thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh lần thứ 4 năm 2015. Những tiết mục thi diễn và giao lưu văn hóa, văn nghệ, thi đấu thể thao của các nghệ nhân, diễn viên, vận động viên diễn ra thật sôi nổi và đặc sắc. Các tiết mục biểu diễn cứ dẫn dắt đồng bào Bom Bo đi từ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng rồi ngưỡng mộ. Buổi liên hoan khép lại với sự tiếp nối của điệu cồng chiêng đón mừng lễ hội. Ánh đuốc lồ ô bập bùng giữa tiếng kèn, điệu múa, lời ca; giữa hương rượu cần, cơm lam, thịt nướng và những đặc sản ẩm thực vùng sơn cước cứ nồng nàn, ngây ngất, lâng lâng...

Giữa niềm vui lớn hôm nay, những ký ức về cố nhạc sĩ Xuân Hồng trong lòng người dân S’tiêng Bom Bo cứ trào dâng như dòng chảy muôn thuở của dòng sông Đắk Lấp. Trường Tiểu học Xuân Hồng, đường Xuân Hồng, Tiếng chày trên sóc Bom Bo... ngày đêm âm vọng đã chạm vào nỗi nhớ nhung da diết của dân sóc đối với người con ưu tú đã đem lại cái tình sâu đậm, cái niềm tự hào và tạo tiếng vang cho thôn sóc. Già Lên còn nợ người anh đáng kính ấy một lời hứa. Lời hứa vẫn chưa hoàn thành với di nguyện của người đã ra đi. Lời hứa ấy và những ký ức xưa cùng đồng đội, cùng dân sóc trải qua những biến đổi thăng trầm, những mất mát đau thương vẫn hằng đêm theo già đi vào trong cả giấc mơ. Những chuỗi giấc mơ cứ nối tiếp theo nhau hiển hiện đi qua năm tháng cùng già “mơ mơ, thật thật”. Một bút tích vô hình đã lưu giữ từng khoảnh khắc đi qua thành kho tàng ký ức. Những hoài niệm xưa vẫn sống mãi bên đời. Pho sử oai hùng về cuộc đấu tranh cách mạng chống giặc ngoại xâm của người dân vùng sơn cước Đắk Nhau - Bom Bo cùng những chiến sĩ kiên trung, những kỳ tích quật cường... đã đi vào trong huyết quản, đã ngấm sâu vào tri giác, đã thẩm thấu xuyên suốt từng tế bào cơ thể của già. Chỉ cần chạm vào là những câu chuyện cứ tuôn theo dòng chảy. Già kể chuyện đấu tranh như tái hiện lại bối cảnh lịch sử, khiến người nghe có cảm giác như mình đang hóa thân vào từng nhân vật trong câu chuyện có thật của già. Già hiển nhiên trở thành một “pho sử sống”. Nhưng, trong lòng già vẫn còn đầy ắp những ước mơ...

Thay lời kết

Xuân vẫn thắm nồng trong tiết tháng ba

Năm tháng dần qua vẫn ngọt ngào như hương mật

Không bon chen

không tất bật

tranh giành

Con cháu thảo hiền

gần gũi

quây quanh

Ngày ngày đi vun vén những mầm xanh

Dòng nhựa trắng an lành vẫn chảy

Hương điều thơm vẫn theo mùa béo ngậy

Đêm đêm vẫn bên nàng giao liên thuở ấy

Hai mái đầu mây mẩy giữa tuyết sương

Tình vẫn như gương

Thương vẫn còn thương

Vẫn chung đường

về đoạn cuối

Nếu trở về cát bụi

Tay vẫn trong tay

như buổi ban đầu

Từ ký ức thẳm sâu

Kỷ niệm xưa đã đi vào truyền thống

Già trở thành nhân chứng sống

Kể chuyện anh hùng

dân sóc đấu tranh

rồi trở thành bất hủ

Nuôi những vì tinh tú

bằng tiếng chày không ngủ giữa rừng khuya

Dòng cảm xúc kia

vỡ òa thành khúc nhạc

Theo nhịp điệu rộn ràng trong lời hát

Lửa bập bùng

réo rắt

xuyên đêm

Bừng sáng trong tim

mỗi người dân

vùng sơn cước

Hóa thành thánh dược

xóa sạch thù

đất nước rộn niềm vui

Người nhạc sĩ từng chia ngọt sẻ bùi

rồi trở thành dân sóc

Đã đưa Bom Bo vào huyền thoại để đời

Vượt thời gian

vang vọng khắp muôn nơi

Tất cả

Vẫn theo lời già kể

Trong những đêm lễ hội tưng bừng

Trong những ngày khách du lịch về thôn

Để cháu con tự hào

Để đồng bào hãnh diện

về Bom Bo

Làng kháng chiến oai hùng.

Bản thảo được hoàn thành tại Trại sáng tác văn học về đề tài “Lực lượng vũ trang - Chiến tranh cách mạng” do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân tổ chức tại Nhà sáng tác Đà Lạt, tháng 11 năm 2020.

(Để hoàn thành tiểu thuyết này, tác giả đã tìm hiểu và sử dụng một số nguồn tư liệu:

+ Truyền thống đấu tranh cách mạng của quân và dân xã Bom Bo Anh hùng.

+ Lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ.

+ Lịch sử Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Phước.

+ Truyền thống Lực lượng vũ trang tỉnh Bình Phước.

+ Sưu tầm một số truyền thuyết và truyện dân gian của đồng bào S’tiêng Bom Bo.

Phần lớn những thông tin sử dụng được già làng Điểu Lên cung cấp).

9. Bài hát Thương nhau của người S’tiêng do Điểu Kvrăng phỏng dịch.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 12
  • 13
  • Sau