NIỀM CÔ ĐƠN VÀ NỖI HOANG MANG
Trong nhiều năm, tôi điều trị cho một bệnh nhân cô độc(*). Ông sống tách biệt với xã hội theo nhiều nghĩa khác nhau chứ không chỉ sống một mình một nhà. Ông hầu như rất ít liên lạc với những người thân trong gia đình. Cả hai người con gái của ông đều đã định cư ở nước ngoài và ông không còn người thân nào khác ngoài cha và chị gái, những người ông vốn đã không nói chuyện từ lâu. Vợ ông đã qua đời nhiều năm trước. Trong suốt hơn mười lăm năm điều trị với tôi, mối quan hệ duy nhất mà ông cố gắng thiết lập cuối cùng lại chấm dứt một cách đầy bi kịch khi người phụ nữ mà ông mới quen qua đời trong một tai nạn giao thông.
Chú thích:
(*) Tôi đã cố gắng thay đổi những câu chuyện đủ để đảm bảo tính riêng tư của bệnh nhân đến điều trị với tôi nhưng vẫn chuyển tải được những điểm quan trọng tôi muốn nói.
Khi bắt đầu quá trình trị liệu, những cuộc trò chuyện của chúng tôi thường rất lúng túng và ngượng nghịu. Ông ấy dường như không quen với sự phức tạp, tinh tế của giao tiếp xã hội và hành vi của ông thiếu đi sự đồng điệu, hài hòa cần có trong tương tác xã hội. Khi còn là một đứa trẻ, ông hoàn toàn bị cha mẹ bỏ bê cũng như bị họ làm nản lòng trong mọi việc một cách cố ý. Cha ông hầu như hoàn toàn vắng mặt, cư xử tàn bạo và không quan tâm tới gia đình. Còn mẹ ông thì lại mắc chứng nghiện rượu kinh niên. Ông còn thường xuyên bị hành hạ và quấy rối ở trường, và chưa từng có thầy cô nào thực sự quan tâm đến ông trong suốt những năm đi học. Những trải nghiệm đó đã khiến vị thân chủ của tôi có khuynh hướng dễ bị trầm cảm, hoặc ít nhất là khiến cho khuynh hướng đó trở nên tệ hơn bản chất vốn có của ông ấy. Vì thế, ông thường cáu kỉnh, thô lỗ và có tính khí khá thất thường, nhất là khi ông cảm thấy mình bị hiểu sai hoặc bị cắt ngang một cách bất ngờ trong khi nói chuyện. Những phản ứng tâm lý này lại càng khiến ông trở thành mục tiêu của sự bắt nạt khi đã trưởng thành và bắt đầu đi làm.
Tuy nhiên, tôi sớm nhận ra rằng mọi thứ dường như trở nên tốt hơn khi tôi giữ im lặng trong phần lớn buổi nói chuyện với ông. Thường thì ông ấy đến khám mỗi tuần hoặc cách hai tuần một lần. Ông thường nói về những gì đã xảy ra và khiến ông bận tâm trong vòng một hay hai tuần trước đó. Nếu tôi giữ im lặng trong 50 phút đầu của buổi trị liệu dài một tiếng và lắng nghe chăm chú thì buổi nói chuyện sẽ diễn ra tương đối bình thường trong 10 phút còn lại. Và tôi đã cố gắng duy trì điều này bằng cách kiềm chế bản thân tối đa trong suốt hơn một thập kỷ điều trị cho ông ấy (một điều không hề dễ dàng tí nào, ít nhất là đối với bản thân tôi). Và dần dần, tôi nhận ra rằng tỉ lệ những điều tiêu cực ông ấy nói ra giảm đi rõ rệt. Cuộc trò chuyện của chúng tôi (gần như là một mẩu độc thoại của ông ấy) đã từng luôn bắt đầu bằng những điều khiến ông khó chịu và chúng thường chỉ dừng lại ở đó. Giờ đây, ông ấy còn cố gắng rất nhiều trong đời sống hằng ngày như kết bạn mới, tham gia những buổi trình diễn nghệ thuật và lễ hội âm nhạc, làm sống lại khả năng bẩm sinh trong việc sáng tác nhạc và chơi đàn guitar. Khi kỹ năng xã hội của ông khá hơn lên, ông cũng bắt đầu tự đề ra giải pháp cho những vấn đề của mình và thảo luận một vài mặt tích cực trong đời sống của bản thân. Sự tiến bộ diễn ra khá chậm chạp nhưng liên tục. Khi ông ta đến khám lần đầu tiên, chúng tôi hoàn toàn không thể ngồi cùng nhau trong một quán cà phê (hoặc bất kì một không gian công cộng nào) và trò chuyện một cách bình thường vì ông ấy sẽ lập tức cảm thấy tê liệt và trở nên im lặng. Khi kết thúc quá trình điều trị kéo dài hàng chục năm, ông ấy đã có thể đọc thơ do mình sáng tác cho một nhóm nhỏ nghe, thậm chí còn thử học cách diễn hài độc thoại.
Đó là trường hợp điển hình thực tế nhất mà tôi nhận thấy trong hơn 20 năm hành nghề trị liệu tâm lý của tôi: Con người cần giao tiếp liên tục với người khác để giữ sự ngăn nắp, trật tự trong tâm trí mình. Chúng ta cần tư duy để giải quyết mọi việc, và tư duy của chúng ta lại cần đến việc nói chuyện để có thể hoạt động tốt. Chúng ta cần nói chuyện về quá khứ để có thể phân biệt đâu là những mối quan tâm vụn vặt bị thổi phồng đến mức choán hết tâm trí mình và đâu là những điều thật sự quan trọng. Chúng ta còn cần nói về bản chất của hiện tại và kế hoạch cho tương lai để biết được mình đang ở đâu, mình sẽ đi về đâu cũng như tại sao mình lại muốn đi về hướng đó. Chúng ta cần trình bày rõ ràng những chiến lược và chiến thuật của mình để người khác đánh giá và cải thiện chúng cho hiệu quả, chắc chắn hơn. Chúng ta cũng cần lắng nghe lời nói của chính bản thân mình để có thể sắp xếp phản ứng cơ thể, động lực và cảm xúc vốn còn ngổn ngang thành một điều gì đó trật tự và mạch lạc hơn. Hơn nữa, nó còn giúp ta buông bỏ những mối quan tâm phi lý và bị thổi phồng quá mức. Nói tóm lại, ta cần phải nói để có thể nhớ những điều cần phải nhớ, và để quên những điều cần phải quên.
Vị thân chủ của tôi rất cần ai đó lắng nghe ông. Ông ấy cũng cần tham gia vào những nhóm xã hội phức tạp và lớn hơn, và thực sự thì chúng tôi đã cùng lên kế hoạch trong những buổi trị liệu để ông có thể tự mình thực hiện. Nếu ông chấp nhận bị cầm tù trong những trải nghiệm đau khổ của quá khứ đã khiến ông hạ thấp giá trị của sự tương tác và mối quan hệ xã hội thì có lẽ ông đã không có cơ hội hồi phục sức khỏe thể chất lẫn tinh thần. Thay vì thế, ông ấy đã can đảm vượt khỏi tù ngục quá khứ của mình để hòa nhập vào thế giới rộng lớn.
SỰ TỈNH TÁO – MỘT THIẾT CHẾ XÃ HỘI
Theo quan điểm của hai nhà tâm lý học vĩ đại Sigmund Freud và Carl Jung, sự tỉnh táo là một đặc tính của tâm trí con người. Con người chỉ có thể sáng suốt khi những nhân cách nhỏ lẻ tồn tại trong mỗi người có thể được hợp nhất và cân bằng trong sự biểu hiện tổng thể. Ba khái niệm chính trong truyền thống tâm lý học đó bao gồm: cái ấy – id, mặt bản năng của tâm lý (tiếng Đức là it, có nghĩa là bản chất nội tâm vừa mạnh mẽ vừa xa lạ); cái siêu ngã – superego (các quy chuẩn xã hội được nhập tâm và đôi lúc mang tính đàn áp); và cái ngã – ego (bản thân nhân cách, vốn bị chèn ép bởi cái ấy và cái siêu ngã). Mỗi khái niệm đó đều có chức năng riêng biệt của nó. Cái ấy, ngã, và siêu ngã tương tác với nhau như những bộ phận của nhà nước hiện đại: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Freud, nhưng Jung lại phân tích tâm lý con người theo một cách khác. Theo Jung thì cái ngã cần phải hòa hợp được với mảng tối (mặt đen tối của nhân cách), sự nam tính và sự nữ tính (mặt giới tính thường bị đè nén của nhân cách), và cái tôi (mặt lý tưởng của nội tâm). Với sự khác biệt chi tiết đó, tất cả những khái niệm trên đều có chung một đặc điểm: Chúng đều là những thực thể tâm lý tồn tại bên trong con người và tách biệt khỏi môi trường xung quanh. Tuy nhiên, con người là những sinh vật xã hội (đây vốn là một đặc tính độc nhất của loài người), và có vô số những chỉ dẫn cùng sự thông thái tồn tại trong môi trường xã hội. Tại sao chúng ta phải dựa vào trí nhớ có hạn của mình để học thuộc những con đường, để định hướng trong vùng đất mới trong khi ta có thể dựa vào những biển chỉ dẫn và tín hiệu đã được người khác sắp xếp một cách tỉ mỉ? Freud và Jung đã quá tập trung vào mặt nội tâm của tâm lý con người mà quên đi vai trò của cộng đồng trong việc giữ gìn sức khỏe tinh thần con người.
Vì lý do đó, khi bắt đầu quá trình điều trị cho bệnh nhân, tôi luôn đánh giá tình trạng của họ theo những mặt mang tính xã hội: Liệu họ có nhận được sự giáo dục phù hợp với khả năng cũng như tham vọng của bản thân không? Họ có dùng thời gian rảnh vào những việc thú vị, có ý nghĩa và hiệu quả không? Họ có lên một kế hoạch chắc chắn và rõ ràng cho tương lai chưa? Liệu họ (hay người thân của họ) có vướng phải vấn đề trầm trọng nào về sức khỏe hay kinh tế không? Họ có bạn bè và đời sống xã hội phong phú không? Họ có một mối quan hệ thân mật bền vững và viên mãn không? Họ có duy trì được mối quan hệ thân thiết với gia đình không? Và cuối cùng, họ có một sự nghiệp (hoặc ít nhất một công việc) ổn định, vững vàng về tài chính, mang lại cho họ sự hài lòng cũng như nhiều cơ hội thăng tiến không? Nếu câu trả lời là không cho ít nhất ba câu hỏi trên, tôi sẽ đánh giá rằng vị thân chủ của tôi chưa có một đời sống xã hội đầy đủ và họ có nguy cơ bị suy sụp về mặt tâm lý trong tương lai. Loài người tồn tại như một tập thể chứ không phải một cá nhân đơn lẻ. Một người không cần phải quá xuất sắc để tồn tại trong tập thể; họ chỉ cần cư xử đúng mực đối với người khác. Nói một cách đơn giản là ta giải quyết vấn đề và giữ vững sự tỉnh táo cho mỗi cá nhân bằng sức mạnh của tập thể. Con người giữ vững sức khỏe tinh thần không chỉ nhờ sức mạnh tâm lý của bản thân mà còn nhờ được những người xung quanh nhắc nhở về cách suy nghĩ, hành xử và nói năng hợp lý.
Nếu bạn đi trượt khỏi con đường hẹp thẳng tắp của sự cư xử hợp lý, người khác sẽ phản ứng lại bằng cách chế giễu, cười cợt, nhắc nhở và thậm chí chỉ trích trước khi bạn đi quá xa. Họ sẽ nhướng mày, mỉm cười (hoặc ngược lại), và bỗng nhiên chú ý đến bạn (hoặc ngược lại). Nói cách khác, nếu những người xung quanh có thể chấp nhận sự có mặt của bạn, họ sẽ thường xuyên nhắc nhở bạn cư xử cho phải phép đồng thời cũng mong muốn bạn làm hết sức mình. Vì thế, những gì bạn cần làm đơn giản là quan sát, lắng nghe và phản ứng hợp lý với tín hiệu của người xung quanh. Như thế, bạn sẽ luôn duy trì được động lực cho bản thân cũng như sự đoàn kết tập thể và tránh được sự tuột dốc không phanh. Đây là lý do chính mà bạn nên xem trọng sự hòa nhập với thế giới xã hội (bạn bè, gia đình và cả kẻ thù) mặc dù sự tương tác xã hội bao giờ cũng chứa đựng nhiều lo âu và bất mãn.
Nhưng làm thế nào chúng ta có thể đi đến một sự đồng thuận rộng rãi về những hành vi xã hội giúp giữ vững sự ổn định tinh thần cho mỗi cá nhân? Đó dường như là việc hết sức khó khăn (nếu không muốn nói là không thể) khi ta xét đến tất cả những biến đổi phức tạp luôn thách thức xã hội. Có những câu hỏi mà mọi xã hội đều phải đối mặt như: “Chúng ta có nên theo đuổi ý tưởng đó không?”, “Giá trị của điều này so với điều kia thì sao?”, “Ai là người có năng lực, sáng tạo và quyết đoán nhất để có thể được trao quyền lực?”. Và để có thể trả lời những câu hỏi này, chúng ta luôn phải thảo luận và thương lượng căng thẳng (cả bằng lời nói và hành động) trong khuôn khổ những quy tắc về hành vi cá nhân, sự hợp tác và sự cạnh tranh. Những điều chúng ta xem là có giá trị và quan trọng đều được hiện thực hóa trong khế ước xã hội, trong quy định thưởng phạt cho sự phục tùng hay sự phá rối, cũng như trong những biểu hiện khác để nhắc nhở ta rằng: “Đây là điều có giá trị. Hãy nhìn kỹ (và hiểu rõ) nó chứ không phải điều gì khác. Hãy theo đuổi nó và luôn hành động hướng về nó thay vì những điều khác”. Sự tuân phục theo những chỉ dẫn và nhắc nhở chính là hiện thân của sự tỉnh táo. Và đó cũng là điều mỗi chúng ta đều bắt buộc phải làm theo từ những giai đoạn sớm nhất của đời mình. Không có sự nâng đỡ của tổ chức xã hội, chúng ta không thể nào sắp xếp tâm trí mình và sẽ nhanh chóng bị choáng ngợp trước thế giới tự nhiên.
MỤC ĐÍCH CỦA SỰ CHỈ TRỎ
Tôi cảm thấy rất may mắn khi cháu ngoại tôi, Elizabeth Scarlett Peterson Korikova, chào đời vào năm 2017. Tôi đã quan sát sự phát triển của con bé rất kỹ càng, cố gắng hiểu được nó sắp làm gì để cổ vũ và chơi chung với nó. Khi con bé được khoảng một tuổi rưỡi, nó bắt đầu có những hành vi hết sức đáng yêu: cười khúc khích hay cười nắc nẻ khi bị thọc lét, đập tay với người khác, cụng đầu và xoa mũi. Tuy nhiên, theo tôi thì hành vi đáng chú ý nhất của con bé vào tuổi đó là sự chỉ trỏ.
Sau khi khám phá ra được ngón trỏ của mình, con bé dùng nó để chỉ vào tất cả những vật xung quanh mà nó thấy thích thú. Nó rất thích làm thế, nhất là khi hành động này thu hút sự chú ý của người lớn. Điều đó là minh chứng rõ ràng rằng hành vi và ý định của con bé thường nhắm tới việc kích thích sự chú ý của người khác. Và không có gì ngạc nhiên khi con bé thực hiện việc này một cách xuất sắc. Con người luôn cạnh tranh để được chú ý, cả về khía cạnh cá nhân, xã hội lẫn kinh tế. Không gì đáng giá hơn việc có được sự chú ý. Trẻ em, người lớn và xã hội sẽ nhanh chóng héo mòn nếu thiếu vắng nó. Khi người khác chú ý đến những gì mà ta cho là quan trọng hoặc thú vị, điều này trước hết xác nhận tầm quan trọng của việc đó, và hơn nữa, nó còn xác nhận bản thân ta như một người đáng được tôn trọng và có ích cho xã hội. Ngoài ra, sự chỉ trỏ còn là một tiền đề quan trọng cho sự phát triển ngôn ngữ. Về cơ bản, việc gọi tên một điều gì đó đồng nghĩa với việc chỉ vào nó, xác định nó và hướng tất cả mọi sự chú ý vào nó.
Khi cháu gái tôi chỉ trỏ, nó làm điều đó một cách công khai. Khi con bé chỉ vào điều gì đó, nó có thể ngay lập tức quan sát phản ứng của những người xung quanh. Chẳng có lý do nào để ta phải chỉ vào một vật mà chẳng ai quan tâm. Vì thế, con bé chỉ vào vật nó thấy thú vị và nhìn quanh xem có ai cũng quan tâm như mình không. Như thế, nó đang học một bài học quan trọng đầu đời: Nếu bạn không nói về những thứ thu hút sự quan tâm của mọi người, giá trị trong việc truyền đạt thông tin của bạn (và thậm chí là giá trị của chính bạn) có nguy cơ tụt xuống bằng không. Bằng cách này, con bé có thể khám phá hết chiều sâu những giá trị phức tạp trong gia đình và xã hội rộng lớn.
Giờ thì con bé Scarlett đang học nói, vốn là một dạng phức tạp hơn của việc chỉ trỏ (và của việc khám phá). Mỗi từ đều để chỉ một điều gì đó, và cũng là một phương tiện để đơn giản hóa và tổng quát hóa thế giới xung quanh. Khi bạn gọi tên một điều gì đó, bạn không chỉ khiến nó nổi bật lên giữa muôn vàn sự vật khác mà bạn còn phân loại và phân nhóm nó cùng với những hiện tượng quan trọng và hữu ích khác. Ví dụ khi ta nói từ “sàn nhà”, ta không dùng từ này cho riêng một cái sàn cụ thể với một đặc tính cụ thể nào cả, dù là sàn bê tông, gỗ, đất hay kính với vô số màu sắc, hoa văn và độ bóng khác nhau. Chúng ta dùng từ “sàn nhà” như một cách biểu đạt đơn giản: Nếu ta có thể bước đi vững vàng trên nó và nó được đặt trong một ngôi nhà, ta có thể gọi nó là “sàn nhà”, và nó đủ chính xác để diễn đạt điều ta muốn nói. Từ này không những đủ để phân biệt sàn nhà với những thành phần khác (như tường nhà chẳng hạn) mà còn bao quát được hết tất cả những loại sàn nhà khác nhau vào một khái niệm duy nhất: một bề mặt phẳng, vững chắc trong nhà mà ta có thể bước đi được trên đó.
Ngôn từ là công cụ giúp ta hệ thống hóa kinh nghiệm cá nhân của mình đồng thời nó cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của xã hội. Chúng ta sẽ không biết đến hoặc dùng từ “sàn nhà” nếu không có sự đồng ý chung của cả xã hội rằng khái niệm sàn nhà đủ quan trọng để dành riêng một từ cho nó. Vì thế, hành động đặt tên cho điều gì đó (và sự đồng thuận về nó) là một phần quan trọng của quá trình đơn giản hóa thế giới khách quan phức tạp thành một hệ thống giá trị có ích. Và chính sự tương tác của mỗi cá nhân với thiết chế xã hội giúp cho quá trình này có thể hoạt động tốt.
CHÚNG TA NÊN NÓI VỀ ĐIỀU GÌ?
Môi trường xã hội giúp thu hẹp và nhấn mạnh những điều quan trọng cho chúng ta. Nhưng thế nào là “quan trọng”? Làm sao ta có thể xác định được nó? Mỗi cá nhân đều được định hình bởi môi trường xã hội. Nhưng bản thân thiết chế xã hội cũng được định hình từ những yêu cầu của mỗi cá nhân sống trong xã hội đó. Chúng ta cần phải tổ chức xã hội sao cho nhu cầu sống cơ bản của mỗi cá nhân được đáp ứng một cách hợp lý. Chúng ta không thể sống thiếu thức ăn, nước uống, không khí trong lành và chỗ ở. Hơn nữa, chúng ta còn cần đến đời sống cộng đồng, hoạt động giải trí và sự quan tâm thân mật của người thân. Tất cả đều là những nhu cầu thiết yếu cả về mặt sinh học lẫn tâm lý (và đó chắc chắn chưa phải là danh sách đầy đủ). Chúng ta cần phải chỉ rõ và sau đó khai thác những yếu tố quan trọng trong môi trường tự nhiên để giúp con người thỏa mãn những nhu cầu đó. Bởi vì con người là những sinh vật mang tính xã hội cao, chúng ta còn có những nhu cầu khác cần được đáp ứng. Cụ thể hơn, không ai có thể sống tách biệt hoàn toàn nên chúng ta còn phải thỏa mãn những nhu cầu kể trên trong khuôn khổ chấp nhận của người khác. Điều đó có nghĩa là bất kì giải pháp nào cho vấn đề nhu cầu cơ bản của con người đều phải có được sự đồng thuận cũng như khả thi đối với toàn thể xã hội.
Đến đây tôi nghĩ chúng ta cần xem xét sâu hơn tại sao nhu cầu cơ bản của con người lại giới hạn số lượng những cách thức tổ chức xã hội có thể thực hiện được. Trước tiên, như tôi đã nhắc đến ở trên, cách thức tổ chức đó cần phải có khả năng giải quyết một vấn đề thực tế. Điều thứ hai là nó phải thu hút sự chú ý của người khác (để có thể cạnh tranh với những cách thức tổ chức khác) bởi nếu không thì những người khác sẽ không hợp tác và thậm chí có thể phản đối. Vì thế, nếu tôi đánh giá cao một điều gì đó, tôi phải cân nhắc xem nó có thể mang lại lợi ích gì cho người khác. Nói cách khác, nó không chỉ cần phải tốt cho tôi mà còn phải tốt cho những người xung quanh. Nhưng chỉ đáp ứng yêu cầu đó thì cũng chưa đủ, chúng ta còn cần đến những quy tắc khác về cách mỗi cá nhân suy nghĩ cũng như hành xử. Cụ thể hơn, cách mà tôi nhìn nhận và đánh giá thế giới (vốn là một phần của bất kì cách thức tổ chức xã hội nào) còn phải có hiệu quả với tôi, gia đình tôi, cũng như cộng đồng chung. Hơn nữa, nó không những phải hiệu quả bây giờ mà còn phải có hiệu quả trong tương lai, thậm chí trong nhiều chục năm hoặc nhiều trăm năm tới. Một giải pháp tốt với vấn đề đau khổ của con người cũng phải ổn định ở một mức độ nào đó sao cho hiệu quả của nó không suy suyển theo thời gian cũng như phù hợp với đa số mọi người.
Những yêu cầu phổ quát này, được biểu hiện qua cơ chế sinh học và được thực hiện qua cơ chế xã hội, giúp đơn giản hóa thế giới phức tạp thành một hệ giá trị có thể hiểu được một cách rộng rãi. Điều này cực kì quan trọng bởi vì luôn có vô số vấn đề trên thế giới và về mặt lý thuyết, có vô số giải pháp cho các vấn đề đó. Thế nhưng, chúng ta chỉ có một số ít những giải pháp có hiệu quả về mặt thực tiễn và thỏa mãn tất cả những yêu cầu tâm lý, xã hội kể trên. Và điều đó đưa đến sự tồn tại của một thứ gần như là đạo đức tự nhiên với tính chất linh động như ngôn ngữ con người nhưng vẫn đủ ổn định và dễ nhận biết về mặt cơ bản. Chính vì sự tồn tại của thứ đạo đức tự nhiên này mà bất kì sự bôi nhọ thiếu suy nghĩ nào với các thiết chế xã hội đều sai lầm và nguy hiểm. Những thiết chế đó đã tồn tại qua hàng ngàn năm tiến hóa để giải quyết những vấn đề cơ bản của loài người. Tất nhiên, chúng không hoàn hảo, nhưng vấn đề chính (và hóc búa) ở đây là làm thế nào để chúng tốt hơn, chứ không phải xấu hơn.
Như vậy, tôi vừa phải biến sự phức tạp của thế giới thành một điều đủ đơn giản cho hành động thực tiễn, vừa phải cân nhắc đến nhu cầu của tất cả mọi người trong xã hội. Làm thế nào ta có thể làm được điều đó? Bằng cách giao tiếp và thương lượng. Bằng cách nhờ đến xã hội giải quyết giúp mình bài toán tư duy cực kì hóc búa đó. Mỗi cá nhân trong xã hội đều phải hợp tác và cạnh tranh về mặt ngôn ngữ (mặc dù ngôn ngữ không phải là cách duy nhất để làm điều này). Từ ngữ được tạo thành bởi một cộng đồng, và mọi người đều phải đồng ý với cách sử dụng chúng. Hệ thống từ ngữ giúp chúng ta mô tả thế giới là hệ quả của những giá trị được xã hội xây dựng và đồng thời cũng bị hạn chế bởi những yêu cầu của thực tiễn. Điều đó giúp định hình một cấu trúc xã hội nhất định như ta thấy hiện nay (một điều không phải ngẫu nhiên). Và đây cũng là điểm bắt đầu của những hệ thống phân cấp có ích và hiệu quả.
Những điều thiết yếu cần phải được đáp ứng, nếu không con người sẽ chết vì đói, khát và thiếu sự bảo vệ, hoặc vì cô đơn và thiếu vắng sự quan tâm của người khác. Và những điều cần làm phải được xác định và lên kế hoạch rõ ràng. Những kỹ năng cần thiết để thực hiện những việc này cần phải được phát triển. Hơn nữa, tất cả những kế hoạch, kỹ năng cũng như việc thực hiện các kế hoạch đó phải được diễn ra trong môi trường xã hội có sự hợp tác (cũng như cạnh tranh) của các thành viên trong đó. Vì thế, một vài người sẽ giỏi giải quyết một số vấn đề nào đó hơn so với những người khác. Sự khác biệt trong khả năng giải quyết vấn đề này (cùng với số lượng lớn những vấn đề trong xã hội và trình độ giáo dục của mỗi cá nhân) đưa đến sự cần thiết của một hệ thống phân cấp dựa trên sự cạnh tranh công bằng giữa những thành viên cùng hướng đến một mục đích. Về cơ bản, một hệ thống phân cấp như thế giữ vai trò như một công cụ xã hội giúp loài người thành công trong những nhiệm vụ quan trọng và giá trị. Nó đồng thời là một thiết chế xã hội vừa thúc đẩy sự tiến bộ vừa giữ gìn hòa bình cho con người.
TỪ CƠ BẢN ĐẾN PHỨC TẠP
Sự đồng thuận về những điều quan trọng trong xã hội đã có từ ngàn xưa, và được phát triển qua hàng trăm triệu năm. Suy cho cùng thì câu hỏi “Ta phải làm gì?” chỉ là một phiên bản ngắn hạn, tức thời của câu hỏi cơ bản, lâu dài hơn – “Làm thế nào để ta sống sót?”. Vì thế chúng ta có thể nhìn về quá khứ xa xôi trong quá trình tiến hóa đến tận những thời kì sơ khai nhất để suy ngẫm về bản chất của những điều quan trọng trong xã hội loài người. Những sinh vật đa bào cổ xưa nhất thường được cấu thành bởi những tế bào cảm giác và vận động tương đối đồng nhất1. Những tế bào này liên kết trực tiếp các đặc tính của môi trường đến phản ứng của cùng một tế bào theo một mối liên hệ cực kì đơn giản. Cụ thể hơn, một kích thích A sẽ luôn đưa đến phản ứng A, trong khi một kích thích B sẽ đưa đến phản ứng B. Đối với những sinh vật phức tạp và đa dạng hơn (vốn dễ nhận biết và cũng nhiều hơn trong thế giới tự nhiên), chức năng về cảm giác và vận động được tách biệt và chuyên biệt hóa: chức năng cảm giác sẽ nhận diện đặc tính của thế giới và chức năng vận động sẽ đưa đến hành động của sinh vật. Sự tách biệt này giúp sinh vật nhận biết và xử lý nhiều đặc tính của môi trường hơn cũng như đưa đến những hành vi và phản ứng đa dạng hơn. Một dạng tế bào thứ ba, tế bào thần kinh, phát triển sau đó như một bộ phận trung gian giữa hai chức năng trên. Với những giống loài phát triển đến cấp độ có tế bào thần kinh, cùng một sự kích thích có thể đưa đến những phản ứng khác nhau của sinh vật (ví dụ như phản ứng còn tùy thuộc vào những thay đổi trong môi trường hoặc điều kiện tâm sinh lý của sinh vật đó).
Khi hệ thần kinh dần trở nên phức tạp hơn, và càng nhiều những tầng lớp thần kinh trung gian xuất hiện, mối quan hệ giữa sự kích thích từ môi trường với hành vi của sinh vật càng trở nên phức tạp và khó dự đoán hơn. Cùng một điều hoặc một hoàn cảnh nào đó có thể được nhận thức theo những cách khác nhau, và cùng một nhận thức vẫn có thể đưa đến những hành vi rất khác nhau. Ngay cả đối với môi trường thí nghiệm khoa học vốn được tách biệt và kiểm soát tối đa thì cùng một điều kiện và môi trường vẫn có thể đưa đến những hành vi khác nhau của sinh vật. Khi những lớp tế bào thần kinh giữa cảm giác và hành vi phát triển nhiều hơn, chúng đồng thời cũng trở nên khác nhau và chuyên biệt hơn. Những hệ thống thần kinh chuyên về sự thôi thúc bản năng (như đói, khát, hung hăng) dường như làm tăng thêm sự chuyên biệt và đa dạng trong cảm giác và hành vi của con người. Hơn nữa, ở loài người còn có thêm hệ thần kinh cảm xúc vốn rất gần với hệ thần kinh chuyên về sự thôi thúc bản năng. Hệ thần kinh nhận thức phát triển trễ nhất và xuất hiện đầu tiên dưới dạng tư duy tưởng tượng rồi mới đến hệ thống ngôn ngữ hoàn chỉnh (vốn chỉ có ở con người). Vì thế, những sinh vật phức tạp nhất luôn có một hệ thống phân cấp nội tại từ phản xạ đến sự thôi thúc bản năng và đến hành vi được hướng dẫn bởi ngôn ngữ. Và hệ thống đó cần phải được sắp xếp hợp lý thì sinh vật đó mới có thể hoạt động bình thường và hướng đến một mục tiêu nào đó được2.
Vậy thì, hệ thống phân cấp vốn xuất hiện từ cơ bản đến phức tạp này được phát triển như thế nào trong quá trình tiến hóa? Câu trả lời tương tự với điều tôi nói đến trước đó: Nó xảy ra thông qua sự hợp tác và cạnh tranh liên tục để giành lấy các nguồn lực và địa vị, vốn là một phần quan trọng của sự đấu tranh để sinh tồn và sinh sản của các loài. Quá trình này diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử tiến hóa và cũng xảy ra trong vòng đời ngắn ngủi của mỗi cá thể. Sự cạnh tranh cho địa vị này đã sắp xếp các sinh vật vào một hệ thống phân cấp phổ biến được dùng để phân phối những tài nguyên thiết yếu như chỗ ở, thức ăn và bạn tình. Tất cả những sinh vật nào đạt đến một độ phức tạp nhất định đều biết được vị trí của mình trong hệ thống đó. Những sinh vật mang tính xã hội cũng học được những gì mà các thành viên khác xem trọng và từ đó suy ra được hệ giá trị của cộng đồng. Nói một cách ngắn gọn thì hệ thống thần kinh phân cấp trong mỗi sinh vật phản ánh hệ thống phân cấp của xã hội mà sinh vật đó sống. Chẳng hạn những con tinh tinh trong một quần thể hiểu rõ cộng đồng xã hội của nó cũng như hệ thống phân cấp trong xã hội đó một cách tường tận. Chúng biết được điều gì là quan trọng, cũng như con tinh tinh nào trong đàn có quyền ưu tiên trong xã hội của chúng. Chúng hiểu rõ điều này cứ như thể sự hiểu biết đó sẽ quyết định sự sống còn và khả năng sinh sản của chúng. Và sự thật đúng là như thế3.
Một em bé sơ sinh được trang bị những phản xạ tương đối cố định như bú (sữa mẹ), khóc và giật mình. Mặc dù đơn giản nhưng những phản xạ này là điểm khởi đầu trọng yếu cho một loạt những kỹ năng quan trọng trong sự phát triển của con người. Vào khoảng hai tuổi (hoặc thường là trước đó), trẻ em có thể định hướng với các giác quan của mình, bước đi thẳng người, dùng bàn tay cho nhiều mục đích, và thể hiện mong muốn cũng như nhu cầu của bản thân bằng lời nói lẫn hành động. Và đó chỉ là một vài kỹ năng cơ bản trong vô số những kỹ năng mà trẻ em phát triển vào độ tuổi đó. Tất cả những kỹ năng vận động này được tích hợp vào một hệ thống phức tạp những cảm xúc và những thôi thúc bản năng (như giận dữ, buồn, sợ, vui, ngạc nhiên,...) và được tổ chức để thực hiện một mục đích tức thời nào đó của trẻ rồi về sau sẽ là những mục tiêu dài hạn hơn.
Đứa trẻ sơ sinh còn phải rèn luyện và trau chuốt sự phối hợp giữa những thôi thúc tức thời với những thôi thúc nội tại khác (ví dụ như những thôi thúc về ăn, ngủ và chơi cần phải được phối hợp sao cho đạt hiệu quả cao nhất). Hơn nữa, chúng còn phải theo kịp với những yêu cầu, quy định và cơ hội của môi trường xã hội. Quá trình rèn luyện này bắt đầu bằng mối quan hệ của trẻ với người mẹ cũng như những hành vi chơi đùa trong môi trường xã hội nhỏ bé ấy. Sau đó, khi đứa trẻ trưởng thành đến mức độ mà hệ thống phân cấp nội tâm của những cảm xúc và thôi thúc bản năng có thể được tích hợp vào một mục tiêu trừu tượng, có ý thức nào đó (như “hãy lấy ngôi nhà đồ chơi ra chơi nào”), trẻ đã sẵn sàng để chơi với người khác, và điều đó dần dần sẽ phát triển thành những hoạt động xã hội phức tạp hơn4.
Hoạt động chơi đùa với người khác phụ thuộc vào việc xác định một mục tiêu chung với những người cùng chơi (như nhà tâm lý học phát triển Jean Piaget nhận xét5). Sự xác định mục tiêu chung (tức mục đích của trò chơi) cùng với những quy định về hợp tác và cạnh tranh hướng tới mục tiêu đó sẽ làm nên một xã hội thu nhỏ đối với trẻ. Xã hội người lớn có thể được xem như những dạng khác nhau của thế giới trò chơi này (giống như câu E pluribus unum trên quốc huy của nước Mỹ, nghĩa là “Từ đa dạng đến thống nhất”). Và trong các xã hội văn minh – phát triển, những quy tắc cơ bản về luật chơi công bằng (vốn dựa trên sự có qua có lại giữa các thành viên) được áp dụng một cách phổ biến. Những trò chơi (cũng như các giải pháp) cần có khả năng lặp đi lặp lại thì mới tồn tại được lâu dài, và có những quy tắc nhất định chi phối khả năng lặp đi lặp lại đó. Ví dụ Piaget cho rằng những trò chơi mà mọi người tự nguyện tham gia sẽ chiếm ưu thế so với những trò chơi bị áp đặt bằng vũ lực và sự đe dọa. Ông lý luận rằng với những trò chơi bị áp đặt, năng lượng vốn có thể được dành để chơi sẽ bị hao phí vào sự áp đặt đó. Có những bằng chứng khoa học ủng hộ giả thuyết này ngay cả đối với những loài động vật linh trưởng như khỉ hay tinh tinh6.
Quy tắc phổ quát về cách chơi công bằng bao gồm khả năng kiểm soát những cảm xúc và thôi thúc cá nhân khi hợp tác lẫn cạnh tranh để đạt được mục tiêu của trò chơi, cũng như khả năng và ý chí thiết lập sự tương tác có đi có lại qua thời gian và trong nhiều hoàn cảnh. Hơn nữa, cuộc sống không chỉ đơn giản là một trò chơi duy nhất mà là một loạt những trò chơi khác nhau, và những trò chơi đó sẽ có những điểm chung (như điều kiện cơ bản để lập ra trò chơi) và những điểm riêng (vì nếu không thì chẳng có lý do nào để làm ra nhiều trò chơi cả). Về mặt cơ bản, một trò chơi cần có điểm bắt đầu (nhà trẻ, tỉ số 0-0, lần hẹn hò đầu tiên, công việc đầu tiên), một quy trình xác định những gì cần làm để tiến bộ, và một mục tiêu đáng mơ ước (tốt nghiệp trung học, tỉ số thắng cuộc, một mối quan hệ bền vững, một sự nghiệp lẫy lừng). Vì thế, mọi trò chơi đều có chung một hệ giá trị (hoặc chính xác hơn là một hệ siêu giá trị) vốn dần xuất hiện từ những quy luật cơ bản nhất. Người chơi giỏi nhất không phải là người chiến thắng trong một cuộc chơi nào đó mà là người được mời chào nhiều nhất để tham gia những cuộc chơi có giá trị nhất (và nhiều điều khác nữa). Có thể bạn không nhận ra điều này nhưng đó cũng là lý do mà bạn thường bảo con rằng “Việc con thắng hay thua không quan trọng. Điều quan trọng là con chơi như thế nào!”(*). Vậy thì bạn phải chơi như thế nào để có thể là người chơi được ngưỡng mộ nhất? Và bạn phải thiết lập trật tự nào cho chính bản thân mình để giúp duy trì cuộc chơi như thế? Hai câu hỏi này thực sự liên quan với nhau rất nhiều bởi vì sự trật tự giúp bạn chơi đúng cách (cũng như càng lúc càng rành rẽ và giỏi hơn) sẽ chỉ xuất hiện trong khi bạn liên tục thực tập nghệ thuật của việc chơi đúng cách. Vậy thì bạn có thể học cách chơi đúng cách ở đâu? Câu trả lời là ở mọi nơi... nếu bạn may mắn và tinh ý.
Chú thích:
(*) Ngay cả loài chuột cũng hiểu được điều này. Jaak Panksepp, một trong những người sáng lập ra ngành khoa học thần kinh cảm xúc, đã dành nhiều năm nghiên cứu về vai trò của việc chơi đùa trong sự phát triển và hòa nhập xã hội của loài chuột (Bạn có thể đọc thêm trong cuốn sách Affective Neuroscience: The Foundations of Human and Animal Emotions của Jaak Panksepp, đặc biệt là chương về sự chơi đùa). Loài chuột thích chơi đùa, đặc biệt là những trò chơi vận động mạnh như vật nhau hay nhào lộn. Khi hai con chuột xa lạ gặp nhau lần đầu, chúng sẽ đánh giá lẫn nhau và thiết lập một trật tự vai vế. Chỉ cần một con chuột lớn hơn con kia khoảng 10% là nó có thể gần như nắm chắc phần thắng trong bất kì cuộc vật lộn nào. Nhưng thường thì chúng vẫn thích chơi thử và gần như con to hơn lúc nào cũng chiến thắng. Nếu bạn nghĩ rằng hệ thống phân cấp xã hội chỉ dựa trên sức mạnh cơ bắp thì câu chuyện sẽ chấm dứt ở đây: Con to hơn và mạnh hơn luôn thắng cuộc. Nhưng điều này hoàn toàn không đúng, trừ khi những con chuột chỉ gặp nhau một lần.
Sự thực là loài chuột cũng sống trong một môi trường xã hội như ta, và chúng liên tục tương tác với nhau nhiều lần. Vì thế, trò chơi của loài chuột sẽ tiếp tục lặp đi lặp lại và mục tiêu của một trò chơi lặp đi lặp lại không phải là sự thống trị mà là làm sao để duy trì trò chơi được diễn ra liên tục. Tất nhiên, điều đó không có nghĩa rằng sự thống trị lúc đầu không quan trọng, nhưng nó quan trọng theo cách như sau: Khi hai con chuột gặp lại lần thứ hai, chúng sẽ tự động giữ một vai trò nhất định trong cuộc chơi. Con nhỏ hơn có nhiệm vụ phải mời con lớn hơn chơi, và con lớn hơn có nhiệm vụ phải chấp nhận lời mời đó.
Tuy nhiên, điểm cực kì quan trọng ở đây là, nếu con chuột lớn không để con chuột nhỏ thắng một số lần nhất định trong trò chơi (Panksepp ước tính khoảng 30-40%) thì con chuột nhỏ sẽ không mời con chuột lớn chơi tiếp nữa, đơn giản là vì trò chơi không còn chút thú vị nào với con chuột nhỏ nữa. Vì thế, nếu con chuột lớn thích chứng tỏ sức mạnh của mình (như một kẻ bắt nạt), nó sẽ thua trò chơi ở một cấp độ cao hơn (tức duy trì sự tiếp diễn của trò chơi lâu nhất có thể) mặc dù nó có thể thắng nhiều lần ở cấp độ thấp hơn (tức bản thân trò chơi). Bài học quan trọng nhất chính là quyền lực và sức mạnh không phải cơ sở vững chắc để xây dựng một hệ thống phân cấp tối ưu cho những tương tác lặp đi lặp lại. Và điều này không chỉ đúng với loài chuột mà còn đúng với những loài cấp cao hơn.
VAI TRÒ CỦA KẺ NGỐC
Trải nghiệm là kẻ ở tầng thấp của hệ thống phân cấp có nhiều lợi ích cho bạn. Nó giúp bạn phát triển hai phẩm chất quan trọng là lòng biết ơn và sự khiêm tốn. Trước hết, về lòng biết ơn: Có nhiều người với kiến thức chuyên môn giỏi hơn bạn và nếu bạn khôn ngoan thì bạn nên thấy vui lòng về điều đó. Bởi vì xã hội có quá nhiều vấn đề phức tạp và nghiêm trọng, chúng ta cần có những người đủ sức gánh vác những vai trò trọng yếu. Và bạn nên cảm thấy thành thật biết ơn những người đủ tài giỏi và đủ kinh nghiệm để giữ những vai trò đó. Thứ hai là sự khiêm tốn: Tốt hơn là ta nên giả định rằng mình chưa biết rõ về điều gì đó và cố gắng học hỏi thêm thay vì nghĩ rằng mình đã biết hết. Nó giúp bạn tránh được sự mù quáng. Hơn nữa, ta nên học cách làm quen với điều chưa biết hơn là điều đã biết bởi vì điều chưa biết thì vô cùng còn cái đã biết thì có hạn. Khi bạn bị dồn đến chân tường (thường là do bạn cố chấp và bám lấy những ý tưởng mù quáng nào đó), những gì có thể giúp bạn thường là những điều bạn chưa biết.
Bắt đầu từ vị trí thấp không những cần thiết mà còn có thể có ích (và đôi lúc bạn cần giữ sự cởi mở, ham học hỏi ngay cả khi đã có nhiều kinh nghiệm). Vì lý do đó mà bộ bài Tarot có lá bài Kẻ ngốc (The Fool) như một lá bài tích cực (và đó cũng là hình minh họa của chương này). Kẻ ngốc là một chàng trai trẻ đẹp, mắt ngước lên trời, dạo chơi trên núi dưới ánh mặt trời chói chang, và có vẻ như đang vô ý bước chân vào vực thẳm. Tuy nhiên, sức mạnh của chàng trai chính là ở tinh thần sẵn sàng mạo hiểm, chấp nhận rơi xuống đáy vực thẳm. Không ai có thể học hỏi thêm điều mới mẻ nếu không sẵn sàng trở thành một kẻ ngốc như thế. Vì lý do đó (và một số lý do khác) mà Carl Jung đã xem Kẻ ngốc như một người tiền nhiệm điển hình của một nhân vật điển hình khác – Người cứu rỗi (tức nhân vật hoàn hảo).
Kẻ mới bắt đầu hay kẻ ngốc luôn phải kiên nhẫn và chịu đựng với người khác, và với cả chính mình. Sự dốt nát, thiếu kinh nghiệm và thiếu kỹ năng của kẻ ngốc đôi lúc bị cho là thiếu trách nhiệm và bị người khác lên án (việc này thực ra cũng đúng đắn và hợp lý). Thế nhưng, sự kém cỏi của kẻ ngốc cũng thường được xem như hệ quả tất yếu của những khuyết điểm căn bản nơi con người, chứ không phải là một sự tha hóa đạo đức. Đa số những điều vĩ đại đều bắt đầu một cách nhỏ bé, ngu dốt và vô dụng. Bài học này xuất hiện ở mọi lĩnh vực và nền văn hóa, chẳng hạn như các nhân vật anh hùng trong phim hoạt hình của Disney – chú bé người gỗ Pinocchio và vua sư tử Simba – hoặc chàng phù thủy Harry Potter trong bộ truyện cùng tên của J. K. Rowling. Pinocchio ban đầu xuất hiện như một con rối ngốc nghếch mà ai cũng có thể lừa được. Vua sư tử ban đầu là một chú sư tử con ngây thơ, là một con rối ngờ nghệch dưới tay của ông chú độc ác và phản bội. Còn chàng phù thủy Harry Potter lại là một cậu bé mồ côi bị ghẻ lạnh, phải sống trong căn phòng dưới gầm cầu thang bụi bặm và phải chiến đấu chống lại kẻ thù không đội trời chung là Chúa tể hắc ám Voldemort. Tương tự, những vị anh hùng vĩ đại trong truyền thuyết thường xuất hiện trong những hoàn cảnh khiêm tốn nhất (như Moses là con của một nô lệ Israel, hay Chúa Giê-su khi sinh ra nằm trong máng cỏ) và nguy hiểm nhất (Moses và Chúa Giê-su ra đời trong hoàn cảnh những bạo chúa thời đó như vua Ai Cập hoặc Herod ra lệnh giết chết những bé trai sơ sinh người Israel). Những người mới vào nghề của ngày hôm nay có thể sẽ là bậc thầy của ngày mai. Vì thế, những ai thành công nhất (nếu muốn thành công hơn nữa) cần phải giữ liên hệ với những kẻ chưa thành công để thấu hiểu sự cố gắng vươn lên của họ, để cẩn thận và giữ sự khiêm tốn trong trò chơi trước mắt, và để phát triển tri thức, sự tự chủ, cũng như kỷ luật cần thiết cho bước tiến tiếp theo.
Khi viết những điều này, tôi cùng với vợ con đến ăn tại một nhà hàng ở Toronto. Khi tôi đang đi về phía bàn ăn của mình, một anh bồi bàn trẻ hỏi tôi liệu anh có thể nói vài lời không. Anh bảo tôi rằng anh đã xem những video, nghe podcast và đọc sách của tôi, và kết quả là anh đã thay đổi thái độ của mình đối với công việc tương đối hèn mọn (nhưng vẫn có ích và cần thiết) hiện tại. Anh đã dừng tự chỉ trích bản thân và quyết định cảm thấy biết ơn hơn cũng như tìm kiếm bất kì cơ hội nào anh có thể tìm được. Anh đã quyết tâm trở nên chăm chỉ và đáng tin cậy hơn để xem điều gì sẽ xảy ra nếu anh cố gắng hết sức. Và với nụ cười chân thành, anh kể lại rằng anh đã được thăng chức ba lần trong vòng sáu tháng.
Chàng trai trẻ đã dần nhận ra rằng tất cả vị trí mà anh đã thử đều có nhiều tiềm năng hơn so với lúc ban đầu anh nhìn nhận chúng (đặc biệt là khi anh bị mờ mắt bởi những oán hận và khinh miệt vì bị chèn ép ở dưới đáy xã hội). Dù gì đi nữa, nhà hàng mà anh đang làm việc cũng không phải là nơi tầm thường, nó thuộc một chuỗi nhà hàng lớn với chất lượng cao cấp trên khắp Canada. Để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ ở một nơi thế này, người bồi bàn cần phải giữ quan hệ tốt với đầu bếp, vốn được mọi người xem như một vị trí đầy rắc rối và phức tạp. Hơn nữa, họ còn phải lịch sự và liên tục để ý đến nhu cầu của khách hàng cũng như thích nghi với nhịp độ làm việc hết sức bất thường (có lúc chẳng có vị khách nào, có lúc thì đông nghẹt khách). Họ phải đến nơi làm việc đúng giờ trong trạng thái hết sức tỉnh táo. Họ cần phải cư xử lễ độ với sếp của mình và hành xử như thế với cả những người cấp thấp hơn (như người rửa chén chẳng hạn). Nếu họ làm tất cả những điều này và may mắn làm việc trong một nhà hàng hoạt động tốt, họ sẽ sớm trở thành một nhân viên khó bị thay thế. Khách hàng, đồng nghiệp và cấp trên sẽ bắt đầu cư xử với họ một cách tích cực hơn. Những cánh cửa cơ hội vốn đóng kín (hoặc vô hình) trước đây đột nhiên mở rộng với họ. Hơn nữa, những kỹ năng họ học được hoàn toàn có thể áp dụng cho bất kì công việc nào khác dù họ muốn tiếp tục tiến thân trong lĩnh vực nhà hàng, đi học để lấy thêm bằng cấp, hay chuyển sang một lĩnh vực hoàn toàn khác (trong trường hợp này họ sẽ rời khỏi công việc hiện tại trong sự tán thưởng của ông chủ cũng như có nhiều cơ hội nghề nghiệp hơn).
Như bạn có thể đoán, chàng bồi bàn trẻ đó rất phấn khích với những gì đã xảy ra với anh ấy. Những lo lắng về sự nghiệp của anh ấy đã được giải quyết rốt ráo bằng sự thăng tiến nghề nghiệp nhanh chóng (cũng như số tiền mà anh có thể kiếm thêm được). Bằng cách chấp nhận, anh ấy đã vượt qua được vị trí của người mới nhập cuộc. Anh ấy đã ngừng nhạo báng vị trí thấp kém của mình và những người xung quanh, và chấp nhận hệ thống phân cấp cũng như vị trí của mình trong đó. Anh bắt đầu thấy được những khả năng và cơ hội mà trước đó anh không thấy vì bị mù quáng bởi niềm kiêu hãnh của mình. Anh đã ngưng bôi nhọ thiết chế xã hội mà anh là một phần trong đó và bắt đầu hoàn thành tốt vai trò của mình. Và anh đã được đền trả xứng đáng vì sự khiêm nhường đến từ thái độ này.
SỰ CẦN THIẾT CỦA NHỮNG NGƯỜI BẰNG VAI PHẢI LỨA
Ngoài những điều tốt nói trên khi làm một người nhập cuộc, việc ta có những người ngang hàng với mình cũng có ích không kém. Người ta thường nói rằng (và thường là nói đúng) chỉ những người bằng vai phải lứa mới hiểu được nhau sâu sắc. Đó là bởi vì rất khó để truyền tải thông tin tới những người ở tầng lớp cao hơn ta. Những người có địa vị đã dùng uy tín của họ (vốn có được nhờ ý kiến được xem trọng, tri thức và kỹ năng đặc biệt) để lý giải cho sự hợp lý của địa vị mà họ có được. Vì thế, họ thường không thích nhận lỗi, học hỏi thêm hoặc thay đổi bản thân. Nếu một người dám chỉ ra sự dốt nát của ai đó ở tầng lớp trên, điều đó có thể làm bẽ mặt vị đó đồng thời đặt dấu hỏi với địa vị và tầm ảnh hưởng mà vị đó có, cũng như để lộ ra sự thật rằng vị đó thiếu năng lực, lạc hậu và sai lầm. Vì thế, nếu bạn là người khôn ngoan thì khi có vấn đề trong công việc, bạn nên cẩn thận gặp riêng sếp để trình bày (và có lẽ tốt nhất là bạn cũng nên có sẵn giải pháp hợp lý cũng như khéo léo trong cách diễn đạt của mình).
Tương tự, việc truyền thông từ trên xuống dưới cũng gặp nhiều khó khăn trong hệ thống phân cấp. Chẳng hạn cấp dưới vì cảm giác mặc cảm về vị trí của mình nên sẽ sinh oán hận và điều này có thể khiến họ không thể hành xử đúng đắn với thông tin đến từ cấp trên. Hoặc trong trường hợp xấu hơn, họ còn có thể cố tình làm ngược lại vì căm ghét cấp trên. Hơn nữa, những cấp dưới thiếu kinh nghiệm và kiến thức thường không hiểu biết về môi trường làm việc nên dễ bị ảnh hưởng bởi chức vụ và quyền lực của một người hơn là phẩm chất và khả năng của người đó. Ngược lại, những người ngang hàng cần phải chứng tỏ năng lực bản thân mới thuyết phục được nhau. Và họ cũng phải để ý hơn đến sự có qua có lại với nhau. Nói cách khác, làm việc với những người ngang hàng đòi hỏi sự có qua có lại cần thiết để duy trì mối quan hệ. Vì thế, vị trí ở giữa hệ thống phân cấp cũng rèn luyện cho bạn những kỹ năng hữu ích.
Đó cũng là lý do mà tình bạn rất quan trọng và xuất hiện khá sớm trong cuộc đời mỗi người. Mặc dù một đứa trẻ hai tuổi đa phần chỉ nghĩ về mình, trẻ vẫn có một số hành vi có qua có lại đơn giản. Chẳng hạn như đứa cháu gái Scarlett của tôi rất sẵn lòng đưa cho tôi món đồ chơi nhồi bông ưa thích của nó khi tôi yêu cầu. Và sau đó tôi sẽ trả lại cho nó. Con bé rất thích trò này. Đôi lúc chúng tôi chơi trò này bằng một cái muỗng (và con bé bắt đầu thành thạo với điều đó). Con bé cũng chơi trò đó với mẹ, bà ngoại, và ngay cả với một người nào đó đủ quen thân. Điểm khởi đầu này sẽ dần phát triển thành hành vi chia sẻ hoàn chỉnh khi trẻ lớn hơn.
Con gái tôi, Mikhaila, đã dắt con bé đến sân chơi ngoài trời trên tầng thượng khu nhà tôi vài ngày trước khi tôi viết điều này. Ở sân có một vài đứa trẻ đang chơi (đa số lớn tuổi hơn Scarlett) và có rất nhiều đồ chơi xung quanh. Scarlett dành phần lớn thời gian để gom càng nhiều đồ chơi càng tốt quanh ghế của mẹ mình và cũng chẳng hề để ý khi một đứa trẻ đến để lấy đồ chơi của nó. Con bé thậm chí còn lấy một quả bóng trên tay đứa trẻ khác để thêm vào bộ sưu tập của mình. Đó là một hành vi bình thường với những đứa bé nhỏ hơn hai tuổi. Hành vi có đi có lại của chúng vẫn còn khá hạn chế, chứ không phải hoàn toàn không có (và với người thân thì chúng vẫn trông rất đáng yêu).
Tuy nhiên, vào khoảng ba tuổi, phần lớn trẻ em đều có khả năng chia sẻ thật sự. Chúng có thể kiên nhẫn chờ đợi đến lượt mình trong những trò chơi với người khác. Chúng bắt đầu hiểu được cách thức của những trò chơi gồm nhiều người và tuân theo luật chơi, mặc dù chúng có thể không biết cách diễn đạt luật chơi thành lời. Chúng bắt đầu kết bạn với những đứa trẻ mà chúng thường chơi chung và có khả năng thương lượng thành công về mối quan hệ có qua có lại trong trò chơi. Một số mối quan hệ bạn bè đó sẽ trở thành những mối quan hệ gắn bó đầu tiên ngoài phạm vi gia đình. Chính trong những mối quan hệ như thế (vốn thường chỉ phát triển với những người đồng trang lứa) mà đứa trẻ học cách thiết lập mối quan hệ thân thiết với người ngang hàng cũng như học được cách đối xử với người khác một cách đúng mực và đòi hỏi điều tương tự nơi người kia.
Mối quan hệ qua lại này cực kì quan trọng. Một đứa trẻ mà không có ít nhất một người bạn thân đặc biệt, sau này sẽ có nhiều khả năng mắc phải những vấn đề tâm lý như trầm cảm, lo âu hoặc những hành vi phản xã hội7. Không chỉ thế, những đứa trẻ ít bạn hơn thường sẽ có khả năng bị thất nghiệp cũng như độc thân cao hơn khi trưởng thành8. Không có bằng chứng nào cho thấy sự suy giảm mức quan trọng của tình bạn khi một người lớn lên(*). Tỉ lệ tử vong vì mọi nguyên nhân đều thấp hơn ở những người trưởng thành có nhiều mối quan hệ xã hội chất lượng, ngay cả khi tình trạng sức khỏe là như nhau. Điều này cũng đúng với những người già bị bệnh cao huyết áp, tiểu đường, khí thũng phổi và viêm khớp; và cũng đúng với người trẻ lẫn người già bị bệnh tim. Một điều thú vị là có một số bằng chứng khoa học cho thấy sự cho đi quan trọng chẳng kém (hoặc có thể còn hơn) sự nhận lại trong mối quan hệ xã hội (hơn nữa, những người thường cho đi lại càng nhận được nhiều hơn)9. Vì thế, việc cho đi dường như mang lại nhiều lợi ích còn hơn cả việc nhận lại.
Chú thích:
(*) Trong một cuộc khảo sát trên YouGov vào ngày 30/07/2019 có tên “Thế hệ những người trưởng thành đầu thế kỷ 21 là thế hệ cô đơn nhất” (bit.ly/2TVVMLn), khoảng 25% người tham gia khảo sát cho biết họ không có người quen và 22% không có bạn. Nếu đúng như vậy thì đó là một điều đáng lo ngại.
Những người đồng trang lứa thường chia sẻ cả gánh nặng lẫn niềm vui trong cuộc sống với nhau. Gần đây, khi vợ chồng tôi gặp những vấn đề trầm trọng về sức khỏe, chúng tôi cảm thấy rất may mắn vì có người thân (cha mẹ, anh em và con cái) và bạn bè ở cạnh giúp đỡ rất nhiều. Họ sẵn sàng tạm gác lại cuộc sống riêng để giúp đỡ chúng tôi trong lúc khủng hoảng. Trước đó, khi quyển sách 12 Quy luật cuộc đời của tôi thành công, và trong những buổi nói chuyện sau đó, vợ tôi và tôi rất gần gũi với những người mà chúng tôi cảm thấy có thể chia sẻ sự may mắn của mình. Đó là những người bạn và người thân thành thật mừng vui cho chúng tôi và luôn dõi theo chúng tôi từng bước một cách nhiệt thành cũng như sẵn sàng trò chuyện về phản ứng cuồng nhiệt của công chúng dành cho cuốn sách. Điều này giúp chúng tôi nhận thấy rõ ràng hơn tầm quan trọng và ý nghĩa của việc mình đang làm cũng như giúp chúng tôi cảm thấy bớt đơn độc trước sự thay đổi hết sức đột ngột trong nếp sinh hoạt của gia đình.
Mối quan hệ với những đồng nghiệp cùng cấp ở nơi làm việc còn cho ta những kỹ năng sống quan trọng khác ngoài tình bạn. Để có thể giữ quan hệ tốt với họ, bạn cần phải biết cách khen ngợi hợp lý, biết cách chia sẻ đúng mức những việc chẳng ai muốn làm nhưng cần phải được hoàn tất, biết cách hoàn thành công việc đúng hạn với chất lượng cao khi cộng tác cùng người khác, biết cách xuất hiện đúng lúc, và nói chung là được tin cậy để làm những việc hơn cả vị trí của mình đòi hỏi. Sự đồng tình (hay không đồng tình) đến từ đồng nghiệp giúp củng cố mối quan hệ có qua có lại này. Hơn nữa, nó còn giúp bản thân bạn giữ được sự ổn định về mặt tâm lý (cũng như tác dụng cần thiết của việc có qua có lại trong quan hệ bạn bè). Tốt hơn hết là bạn nên trở thành người đáng tin cậy, được vậy thì khi bạn gặp những khó khăn cá nhân, đồng nghiệp sẽ sẵn sàng nhảy vào giúp đỡ bạn.
Thông qua mối quan hệ bạn bè và đồng nghiệp, chúng ta học được cách kiểm soát những ích kỷ cá nhân của mình và biết được lúc nào nên hay không nên đặt bản thân lên trước người khác. Một điều quan trọng khác (nhưng khó nhận thấy) là chúng ta cũng học được cách vượt qua những khuynh hướng ngây thơ mù quáng của mình (tức khi ta hi sinh bản thân một cách bất hợp lý trước những kẻ cơ hội) và biết lắng nghe lời khuyên của đồng nghiệp để đứng lên bảo vệ bản thân mình. Với tất cả những điều đó, nếu chúng ta may mắn, chúng ta sẽ bắt đầu học được cách cho đi và nhận lại một cách hợp lý, và cách chiếm lấy lợi thế được mô tả trong những vần thơ nổi tiếng của nhà thơ Robert Burns10:
Ôi quyền năng ta hằng ao ước:
Được thấy chính mình như người khác thấy!
Nó sẽ giải phóng ta khỏi những ngớ ngẩn
Và ý niệm sai lầm:
Rằng sự tôn thờ lụa là và cung cách
Sẽ nâng phẩm giá con người ta lên
TẦNG LỚP TRÊN
Có thẩm quyền tất nhiên cũng là một điều tốt. Con người vốn yếu đuối. Vì thế, cuộc sống luôn khó khăn và đau khổ thì đầy rẫy. Để xoa dịu những khổ đau đó (như đảm bảo mọi người đều có đủ thức ăn, nước sạch và một nơi ở đàng hoàng, sạch sẽ), chúng ta cần đến sự mạnh dạn sáng tạo, nỗ lực và năng lực. Nếu một vấn đề nào đó cần được giải quyết bởi nhiều người, một hệ thống phân cấp sẽ tự động được thiết lập khi những người có năng lực lẫn không có năng lực cố gắng hết sức đóng góp vào đó. Nếu đó là một vấn đề thực sự quan trọng, những người có khả năng giải quyết tốt nhất sẽ tiến lên những vị trí đầu. Đó không phải là quyền lực. Đó là thẩm quyền cần thiết dành cho những người có năng lực.
Đến đây ta có thể nói rằng trao quyền cho những người có năng lực là điều hiển nhiên và hợp lý, nếu họ có thể giải quyết những vấn đề cần thiết. Và nếu có thể thì bạn nên giữ lấy một trong những vị trí quyền lực đó để giải quyết một vấn đề hóc búa. Ta có thể xem điều này như triết lý của trách nhiệm. Một người có trách nhiệm quyết định nhận lấy vấn đề nào đó, và làm việc chăm chỉ (thậm chí là đầy tham vọng) để giải quyết nó hiệu quả nhất cùng với những người khác (tính hiệu quả rất quan trọng vì còn những vấn đề khác phải giải quyết và ta phải tiết kiệm nguồn lực).
Hoài bão lớn thường bị hiểu lầm (đôi lúc cố ý) là sự khát khao quyền lực, cũng như thường bị chê bai, bôi nhọ và trừng phạt. Tất nhiên, đôi lúc hoài bão lớn đồng nghĩa với tham vọng về quyền lực bất hợp lý. Nhưng có sự khác biệt quan trọng giữa “đôi lúc” và “luôn luôn”. Thẩm quyền không chỉ đơn thuần là quyền lực, và nếu ta nhầm lẫn giữa hai điều này thì hết sức đáng lo ngại, và thậm chí nguy hiểm. Khi một người dùng quyền lực để áp đặt ý chí của mình lên người khác, người đó đang ép buộc người khác bằng vũ lực. Người đó có thể đe dọa trừng phạt hoặc tịch thu tài sản và khiến những người thấp cổ bé họng đành phải hành xử trái với nhu cầu, mong ước và giá trị cá nhân. Ngược lại, khi một người thực thi thẩm quyền của mình, người đó được phép làm thế vì năng lực bản thân, và được những người khác công nhận và kính trọng. Vì thế, ý chí của người đó sẽ được đa số tự nguyện tuân theo với ý nghĩ rằng công lý đang được thực thi.
Những ai đói khát quyền lực (tức những tên bạo chúa, độc ác và thậm chí tâm thần) ao ước được kiểm soát người khác để mọi ý thích hưởng lạc của bản thân được thỏa mãn ngay lập tức, để mọi kẻ thù họ căm ghét bị tiêu diệt, và để sự hận thù có thể được tự do biểu hiện. Ngược lại, những người tử tế có hoài bão lớn (cũng như chăm chỉ, chân thành và tập trung) bởi vì họ bị ám ảnh bởi niềm mong ước giải quyết một vấn đề thực sự cấp thiết nào đó. Chính biểu hiện đó của tham vọng (tức hoài bão lớn) cần được khuyến khích rộng rãi khắp nơi. Trong xã hội hiện đại, năng suất và tương đối tự do hiện nay, có một quan niệm sai lầm cho rằng nỗ lực để chiến thắng của các chàng trai là hiện thân cho “sự chuyên chế của chế độ phụ hệ”. Và quan niệm đó có thể phản tác dụng mạnh mẽ (và tôi nghĩ rằng không có gì tệ hơn khi ta xem một người đang nỗ lực vươn lên như một tên bạo chúa tương lai). “Chiến thắng”, xét về những khía cạnh xã hội quan trọng và chính yếu nhất, là vượt qua những trở ngại để mang lại lợi ích chung cho toàn thể xã hội. Thái độ ngây thơ hoặc khinh miệt mù quáng về điều này (hoặc phủ nhận nó hoàn toàn) sẽ khiến bạn trở thành kẻ thù của nỗ lực xóa bỏ đau khổ trong xã hội loài người. Tôi thậm chí còn có thể nghĩ ra một vài thái độ đen tối khác nữa.
Như thế, quyền lực phải luôn đi kèm với thẩm quyền. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là thẩm quyền thật sự sẽ hạn chế sự lạm dụng quyền lực. Sự hạn chế này được biểu hiện khi người có thẩm quyền quan tâm và chịu trách nhiệm về những người nằm trong tầm ảnh hưởng quyền lực của mình. Người con lớn nhất có thể chịu trách nhiệm về những đứa em và thay vì lấn át, trêu chọc hoặc ức hiếp chúng, người đó sẽ học được cách sử dụng thẩm quyền của mình một cách hợp lý và hạn chế sự lạm quyền. Ngay cả đứa con nhỏ nhất cũng có thể thực thi thẩm quyền hợp lý của mình với chú chó trong nhà. Khi nhận lấy thẩm quyền, một người phải hiểu rằng quyền lực đòi hỏi sự quan tâm và năng lực, cũng như những mặt trái khác. Một người vừa được thăng chức lên làm sếp sẽ sớm nhận ra rằng sếp thường bị cấp dưới gây căng thẳng nhiều hơn là cấp dưới bị căng thẳng với sếp. Trải nghiệm đó giúp kiềm chế những mơ tưởng nguy hiểm về sự hấp dẫn của quyền lực, và giúp dập tắt những khao khát về quyền lực vô hạn. Thực tế là trong những xã hội văn minh, những người ở vị trí thẩm quyền thường hiểu được sâu sắc trách nhiệm nặng nề đối với những người mà họ quản lý và hướng dẫn.
Tất nhiên không phải ai cũng cảm nhận được gánh nặng của thẩm quyền. Một người ở vị trí thẩm quyền lâu năm có thể quên mất điểm bắt đầu của mình và dần có thái độ khinh miệt đáng phê phán với những người mới nhập cuộc. Đây là một sai lầm bởi vì điều này không chỉ khiến người có thẩm quyền không dám thử những điều mới mẻ (bởi vì họ phải vào vai trò của kẻ nhập cuộc khờ dại ở lĩnh vực mới) mà sự tự kiêu còn ngăn cản họ học hỏi. Tuy nhiên, trong những xã hội văn minh tiến bộ thì những kẻ chuyên chế ích kỷ, thiển cận và mù quáng không chiếm đa số, nếu không thì những xã hội đó đã không thể văn minh và tiến bộ như thế.
Ngược lại, khi người có thẩm quyền nhớ được mình đã từng bắt đầu như thế nào, họ có thể thông cảm được với người mới nhập cuộc cũng như hiểu được tiềm năng của những điều mới mẻ và dùng những hiểu biết đó để kiềm chế cơn khát quyền lực. Một trong những điều luôn khiến tôi kinh ngạc là sự sẵn lòng của những người có thẩm quyền trong việc trao cơ hội cho cấp dưới. Và tôi đã gặp điều đó nhiều lần trong vai trò giáo sư và nhà nghiên cứu cũng như trong những ngành nghề và lĩnh vực tôi biết đến. Có một niềm vui sâu sắc và lớn lao trong việc giúp đỡ những người trẻ tài giỏi và đáng khâm phục trở nên chuyên nghiệp, độc lập, được xã hội xem trọng và có trách nhiệm hơn. Nó dường như cũng giống niềm vui nuôi nấng con cái, và đó là một trong những nguồn động lực chính của tham vọng đúng đắn. Vì thế, vị trí trên cùng của hệ thống phân cấp, nếu được sử dụng hợp lý, là một cơ hội để xác định những cá nhân xứng đáng vừa bắt đầu nhập cuộc, đồng thời trao cho họ công cụ để tiến thân và đóng góp cho xã hội hiệu quả nhất.
THIẾT CHẾ XÃ HỘI LÀ CẦN THIẾT NHƯNG CHƯA ĐỦ
Sự tỉnh táo đồng nghĩa với việc biết được luật chơi của trò chơi xã hội, đồng thời nhập tâm và tuân theo chúng. Sự khác biệt về địa vị là điều tất yếu bởi vì mọi cố gắng xứng đáng đều hướng đến một mục tiêu và những người theo đuổi cùng một mục tiêu lại có năng lực khác nhau. Chấp nhận sự mất cân bằng này và vẫn cố gắng tiến về phía trước dù ta đang ở vị trí trên, dưới hay giữa là một yếu tố quan trọng để giữ gìn sức khỏe tinh thần. Nhưng ta vẫn còn một nghịch lý. Những giải pháp của ngày hôm qua và hôm nay, vốn tạo nên hệ thống phân cấp hiện tại, không nhất thiết sẽ là giải pháp thích hợp cho ngày mai. Vì vậy, sự lặp lại một cách thiếu cân nhắc những giải pháp hiệu quả trong quá khứ (hoặc tệ hơn là sự khăng khăng độc đoán rằng tất cả vấn đề đều đã được giải quyết mãi mãi) sẽ đưa đến hệ quả xấu khi những thay đổi trong môi trường rộng lớn đòi hỏi những thay đổi cần thiết ở mức cục bộ. Vì lý do đó mà những đổi mới sáng tạo cần phải đi kèm với sự quan tâm thích đáng đối với hệ thống phân cấp vốn đã giúp ta giải quyết nhiều vấn đề trong quá khứ. Đây không phải là một ý kiến về đạo đức được đưa ra một cách võ đoán hoặc một tuyên bố đạo đức mang tính tương đối, mà nó gần như là bộ đôi quy luật tự nhiên sẵn có trong thế giới thực tại của chúng ta. Những sinh vật mang tính xã hội cao như loài người chúng ta cần phải tuân theo quy luật này để giữ sự sáng suốt và giảm thiểu những bất định, đau khổ và xung đột không cần thiết. Tuy nhiên, ta cũng cần phải đổi mới những quy tắc này một cách cẩn trọng khi hoàn cảnh xung quanh ta thay đổi.
Điều này cũng có nghĩa rằng một nhân cách lý tưởng không thể chỉ là sự phản ánh mù quáng tình trạng hiện tại của xã hội. Trong những hoàn cảnh bình thường, khả năng tuân thủ mà không thắc mắc gì thường chiếm ưu thế so với sự chống đối. Tuy nhiên, khi xã hội trở nên bệnh hoạn, lỗi thời, mù quáng và thoái hóa thì sự chống đối cũng như năng lực đưa ra giải pháp sáng tạo, đúng đắn lại có giá trị cao hơn nhiều. Điều đó dẫn đến một vấn đề đạo đức hóc búa muôn thuở của con người: Khi nào thì ta nên tuân theo truyền thống cũng như làm theo những gì người khác yêu cầu và đòi hỏi; còn khi nào thì ta nên dựa trên đánh giá cá nhân (vốn nhiều hạn chế và định kiến) và từ chối sự đòi hỏi của tập thể? Nói cách khác, làm sao ta có thể cân bằng sự bảo thủ hợp lý với sự sáng tạo đầy sức sống?
Vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt tâm lý là tính khí con người. Một số người thì có khuynh hướng bảo thủ hơn, còn một số thì thích tự do và sáng tạo trong nhận thức và hành động của mình11. Điều đó không có nghĩa rằng quá trình hòa nhập xã hội không thể thay đổi khuynh hướng nội tại đó vì con người vốn rất linh hoạt, đặc biệt trong giai đoạn phát triển trước tuổi trưởng thành và những hoàn cảnh đặc biệt có khả năng thay đổi chúng ta một cách sâu sắc. Tuy nhiên, điều đó không thay đổi được sự thật rằng sự tồn tại của những tính khí đa dạng là cần thiết để thích nghi với môi trường sống đa dạng của con người.
Những ai theo cánh hữu về mặt chính trị thường bảo vệ quyết liệt những gì có hiệu quả trong quá khứ. Trong nhiều trường hợp, họ đúng hoàn toàn vì chỉ có một vài cách thức giúp con người thành công cũng như giữ sự hài hòa và ổn định lâu dài trong xã hội. Nhưng đôi lúc họ lại sai lầm bởi vì hoàn cảnh hiện tại và tương lai khác với quá khứ. Hơn nữa, ngay cả những xã hội hoạt động tốt vẫn có thể sụp đổ vì những khiếm khuyết nội tại của chúng. Một ví dụ điển hình là những người ngoi lên được tầng lớp trên sẽ dùng quyền lực của mình để thao túng xã hội và trục lợi cho bản thân (ít nhất là trong ngắn hạn), và làm xói mòn chức năng của hệ thống phân cấp mà họ lẽ ra phải phục vụ. Những người như thế thường không hiểu được hoặc không thèm quan tâm đến những chức năng mà tổ chức của họ được thiết kế để thực hiện. Họ chỉ cố gắng bòn rút nhiều lợi ích nhất có thể và để lại một di sản đổ vỡ phía sau.
Chính sự lạm dụng quyền lực này là điều thường bị những người tự do cánh tả phê phán mạnh mẽ nhất (và đó là sự phê phán đúng đắn). Nhưng ta cần phải phân biệt giữa một chế độ phân cấp (và những người vận hành nó) hoạt động hiệu quả với cái vỏ thối rữa của một thể chế đã từng hoạt động tốt. Để làm được điều này, ta cần có khả năng cũng như sẵn lòng quan sát và phân tích thay vì phụ thuộc một cách thiếu suy nghĩ vào một ý thức hệ nào đó. Nó đòi hỏi ta nhìn thấy những mặt tươi sáng lẫn những mặt đen tối của chế độ phân cấp xã hội mình đang sống (và ý thức rằng sự chú trọng một cách mù quáng vào một trong hai mặt đều là nguy hiểm). Ta cũng cần phải biết rằng trong sự sáng tạo, đổi mới (vốn cần thiết để mang lại sức sống mới cho những điều lạc hậu, cũ kỹ) luôn tiềm ẩn những nguy hiểm nhất định. Một phần của sự nguy hiểm này nằm ở khuynh hướng của những người có suy nghĩ quá tự do nên chỉ nhìn thấy mặt trái của thể chế dù thể chế ấy là xác đáng. Hơn nữa, sự nguy hiểm còn đến từ một mặt trái khác nữa của tự do và mặt trái này tương ứng với sự bảo thủ bị thoái hóa: Những phần tử tự do cực đoan đến vô đạo đức, vốn xấu xa chẳng kém những viên chức, nhà quản lý và giám đốc dối trá. Những cá nhân này thường thiếu hiểu biết trầm trọng về sự phức tạp của tình trạng hiện tại đồng thời không ý thức được sự dốt nát của bản thân và tỏ ra vô ơn với những thành quả của quá khứ. Sự dốt nát và thái độ vô ơn này thường đi chung với thói nhạo báng sáo rỗng để biện hộ cho việc từ chối thực hiện những quy trình không mấy thú vị nhưng cần thiết, cũng như để biện minh cho việc từ chối đối mặt với những khó khăn và nguy cơ của một nỗ lực thực sự có ích. Chính những nguy cơ đó của sự đổi mới sáng tạo khiến cho những người bảo thủ (và ngay cả những người không bảo thủ) trở nên thận trọng đúng mức với thay đổi.
Vài năm trước khi viết quyển sách này, tôi đã nói chuyện với một cô gái trẻ khoảng hơn hai mươi tuổi (cháu gái của một người đã email cho tôi sau khi xem những bài giảng của tôi trên mạng). Cô gái ấy trông cực kì đau khổ và kể rằng mình đã dành hầu hết thời gian để nằm trên giường trong 6 tháng qua. Cô chấp nhận đến nói chuyện với tôi vì cảm thấy vô cùng tuyệt vọng. Điều duy nhất ngăn cản cô tự tử (điều duy nhất cô quan tâm tới) chính là trách nhiệm chăm sóc cho một con thú cưng kì lạ, một con linh miêu đồng cỏ châu Phi. Đó là biểu hiện còn lại của niềm đam mê với ngành sinh học mà cô đã từ bỏ (và cảm thấy hối hận) khi cô bỏ học từ bậc phổ thông. Hơn nữa, ba mẹ cô đã không quan tâm đúng mức và để cho cô dần rơi vào tình trạng tồi tệ trong nhiều năm liền.
Mặc dù cô chối bỏ nhưng sự thực là cô đã có trong đầu một chút kế hoạch cho tương lai của mình. Cô bảo cô đã nghĩ về việc đăng ký một chương trình học hai năm có thể giúp cô tốt nghiệp phổ thông vì đó là điều kiện để nộp đơn vào đại học ngành thú y. Nhưng cô chưa tìm hiểu cụ thể những yêu cầu cần thiết để thực hiện dự định đó. Cô thiếu một người hướng dẫn. Cô cũng không có người bạn thân nào. Cô cảm thấy dễ dàng hơn nhiều khi không phải làm gì cả và cứ chìm đắm trong sự cô đơn của mình. Chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện tích cực trong khoảng 45 phút. Đó là một cô gái dễ thương. Tôi đề nghị rằng chúng tôi nên thảo luận cụ thể hơn về tương lai của cô sau khi cô hoàn thành một chương trình lên kế hoạch cho tương lai trên mạng mà tôi và đồng nghiệp thiết kế(*).
Chú thích:
(*) Đây là một phần của Bộ Chương trình Làm chủ Đời mình (Self-authoring Suite) bao gồm những chương trình được thiết kế để giúp người học viết về những khó khăn trong quá khứ (Làm chủ Quá khứ), khiếm khuyết và ưu điểm của nhân cách hiện tại (Làm chủ Hiện tại, gồm hai phần), và những khao khát, mong ước cho tương lai (Làm chủ Tương lai). Tôi đã đề nghị cô ấy làm phần cuối.
Cuộc trò chuyện của chúng tôi diễn ra khá thuận lợi cho đến khi nó chuyển hướng sang vấn đề chính trị. Sau khi kể về tình trạng cá nhân của mình, cô ấy bắt đầu nói lên sự bất mãn với tình trạng của thế giới hiện nay, đặc biệt là thảm họa sắp đến (theo ý kiến của cô) vì hệ quả xấu con người gây ra cho môi trường. Trước hết, tôi muốn khẳng định rằng về mặt nguyên tắc thì không có vấn đề gì với việc bày tỏ mối quan tâm đến những vấn đề toàn cầu cả. Nhưng vấn đề không nằm ở đó. Vấn đề ở đây là sự tự tin mù quáng vào kiến thức cô ấy có về những vấn đề lớn như thế khi mới hai mươi mấy tuổi đầu và không có suy nghĩ tích cực nào trong cuộc sống cá nhân (thậm chí cô còn không muốn rời khỏi giường của mình nữa kia mà). Trong trường hợp đó, bạn cần xác định rõ những ưu tiên trước mắt, và một phần thiết yếu của việc này là bạn phải phát triển sự khiêm nhường cần thiết để tập trung giải quyết vấn đề của mình.
Khi cuộc trò chuyện tiếp diễn, tôi nhận ra mình không còn khả năng nói chuyện một cách chân thành với cô gái lạc lối đó nữa. Dường như tôi trở thành một đối thủ đang tranh luận với một chiến binh ý thức hệ mà người chiến binh này tin chắc rằng mình biết rõ những điều sai lầm của thế giới, biết rõ ai phải chịu trách nhiệm, biết được hệ quả tai hại và vô đạo đức của việc thể hiện mong ước cá nhân, và đồng thời tin rằng loài người đầy tội lỗi sẽ bị hủy diệt. Nếu tôi vẫn tiếp tục cuộc nói chuyện, tôi biết rằng mình không còn nói chuyện với cô gái trẻ đó nữa mà là đang nói chuyện với những ý tưởng nhạo báng, vô hồn và trừu tượng đang chiếm lĩnh tâm trí cô ấy. Hơn nữa, nếu cứ tiếp tục nói chuyện, tôi sẽ khiến cô ấy suy nghĩ sai lầm rằng việc cô nói chuyện về những đề tài đó theo cách thức như vậy là chấp nhận được và có hiệu quả.
Bởi vì tôi tin rằng việc tiếp tục nói về đề tài này chẳng có tác dụng gì, nên tôi đã chấm dứt cuộc nói chuyện (nhưng không có nghĩa rằng cuộc gặp gỡ đó hoàn toàn vô ích). Sau cuộc gặp đó, tôi không khỏi đi đến kết luận rằng một phần nguyên nhân khiến cô gái trẻ khủng hoảng đến tê liệt như thế không phải vì mặc cảm tội lỗi của việc góp phần gây hại cho môi trường mà chính là cảm giác về sự cao thượng của bản thân xuất phát từ mối quan tâm của cô về môi trường (mặc cho những nguy hiểm về mặt tâm lý đối với cô khi có quan điểm u ám như thế về khả năng của con người). Mặc dù nhiều người sẽ cho là tôi nói những điều sáo rỗng nhưng tôi vẫn muốn khẳng định rằng bạn cần phải biết đi trước khi tập chạy. Và bạn còn phải học bò trước khi học đi. Đó là một phần của việc chấp nhận vị trí người nhập cuộc của mình, một vị trí ở dưới đáy hệ thống phân cấp mà bạn có thể vội vã căm ghét một cách ngạo nghễ. Hơn nữa, thái độ chống đối con người một cách mạnh mẽ thường đi kèm với những giọt nước mắt dành cho sự hủy hoại môi trường và sự vô nhân tính của con người, và điều đó luôn gây ra một hệ quả sâu sắc đến thái độ của người đó đối với bản thân họ.
Từ thời xa xưa, con người đã cần được tổ chức và sắp xếp (cả về mặt sinh học lẫn xã hội) vào những hệ thống phân cấp hiệu quả, vốn có tác dụng ảnh hưởng đến nhận thức và hành động của mỗi cá nhân cũng như định hình sự tương tác của chúng ta với thế giới tự nhiên và xã hội. Vì thế, sự biết ơn sâu sắc đối với di sản đó là phản ứng hợp lý duy nhất mà ta nên có. Mặc dù hệ thống xã hội mà ta đang sống có những mặt trái của nó (cũng như thế giới tự nhiên và mỗi cá nhân đều có khuyết điểm), điều đó không có nghĩa rằng những chỉ trích thiếu suy nghĩ, chung chung và có lợi cho bản thân là hợp lý (cũng như sự khăng khăng phản đối với bất kì thay đổi nào).
SỰ CẦN THIẾT CỦA THẾ CÂN BẰNG
Khi ta làm theo những gì người khác đã và đang làm, hành động đó thường mang lại hiệu quả tốt. Và đôi khi, những hành động đổi mới, khác lạ cũng có thể mang lại thành công vượt sức tưởng tượng. Vì thế mà cả hai phía bảo thủ lẫn tự do đều có dẫn chứng để liên tục tuyên truyền cho ý thức hệ của mình. Một thiết chế xã hội hoạt động tốt (vốn có thể tạo ra những điều có giá trị ngoài việc tự bảo tồn chính nó) có thể tận dụng cách tiếp cận bảo thủ để thực hiện những cơ chế đã được thử nghiệm và chứng minh có hiệu quả, đồng thời dùng cách tiếp cận sáng tạo tự do để xác định những gì lỗi thời cần phải được thay thế bởi những điều mới mẻ, có giá trị hơn. Vì thế, sự cân bằng giữa bảo thủ và sáng tạo về mặt xã hội có thể có được bằng cách tạo nên sự hợp tác của cả hai phe. Nhưng chúng ta cần cân nhắc kỹ lưỡng về cách thức để làm điều đó tốt nhất, và nó đòi hỏi sự thông thái có thể vượt thoát những khuynh hướng và cám dỗ bản năng nơi con người. Bởi vì tính cách sáng tạo và tính cách bảo thủ thường đối lập với nhau nên rất khó để tìm được một cá nhân có sự cân bằng hợp lý giữa hai tính cách này. Người nào có được sự cân bằng như thế thì họ có thể cảm thấy thoải mái làm việc với cả hai phía bảo thủ và tự do, đồng thời có khả năng và sẵn lòng sử dụng những tài năng của cả hai phía. Và mặc dù rất hiếm có một người như vậy, nhưng ai cũng có thể bắt đầu phát triển khả năng cân bằng này bằng cách mở mang nhận thức để hiểu được rằng cả sự bảo thủ lẫn sự đổi mới sáng tạo đều có những mặt tốt và mặt xấu. Thấu hiểu điều này một cách tường tận đồng nghĩa với việc chúng ta đánh giá cao sự cần thiết và tính hiệu quả của một nhóm làm việc đa dạng, đồng thời phải có khả năng nhận biết khi sự cân bằng bị thiên lệch về bất kì bên nào. Hơn nữa, ta cũng cần phải hiểu rõ mặt trái của cả hai phía bảo thủ và tự do. Để có thể quản lý tốt những vấn đề phức tạp, ta cần phải đủ lạnh lùng, sáng suốt để phân biệt giữa người tham quyền cố vị và người bảo thủ chân chính, cũng như phân biệt giữa kẻ nổi loạn vô trách nhiệm, không mục đích và người thực sự sáng tạo. Hơn nữa, ta không những cần phải đạt được sự phân biệt sáng suốt đó đối với người khác mà còn đối với chính mình.
Vậy thì làm thế nào ta có thể đạt tới sự cân bằng đó? Trước hết ta cần phải hiểu rõ rằng cả hai quan điểm và cách sống này có sự liên hệ mật thiết với nhau. Một cái không thể nào tồn tại mà không có cái kia, mặc dù chúng tồn tại trong sự đối lập căng thẳng thật sự. Điều này có nghĩa rằng sự kỷ luật (tức sự phục tùng những điều truyền thống) cần phải được hiểu như tiền đề cho sự đổi mới sáng tạo chứ không phải là kẻ thù không đội trời chung. Vì thế, hệ thống phân cấp được dùng để tổ chức xã hội và định hình nhận thức con người chịu ảnh hưởng cũng như phụ thuộc mật thiết vào những giới hạn; và điều tương tự cũng đúng với sự đổi mới sáng tạo. Bất kì sự sáng tạo nào cũng phải chịu thử thách trước những giới hạn, và sẽ là hoàn toàn vô ích nếu nó không chịu bất kì sự thử thách nào. Vì lý do đó mà Thần Đèn trong truyện Aladdin (vốn có khả năng ban điều ước và quyền lực như Thượng Đế) phải bị nhốt vào không gian chật hẹp của chiếc đèn và phải chịu tuân theo ý thích của chủ nhân cây đèn. Sự thần thánh (hoặc thiên tài) là kết hợp giữa năng lực, tính khả thi và những giới hạn tột bực.
Vì thế, giới hạn (tức quy tắc) không những giúp bảo đảm sự hài hòa về mặt xã hội và ổn định về mặt tâm lý mà còn giúp sự đổi mới sáng tạo trở thành hiện thực. Những gì tiềm ẩn trong nỗi khao khát được tự do tuyệt đối (ý tưởng của những người theo thuyết hư vô, vô chính phủ) không phải là một mong ước tích cực hướng tới sự sáng tạo, như theo cách nói lãng mạn hóa của giới nghệ sĩ. Mà thực chất, đó là một mong ước tiêu cực: Mong ước được thoát khỏi mọi trách nhiệm ràng buộc vốn đi kèm với tự do chân thực. Và đó là sự dối trá trong những lời phản đối chống lại tính cần thiết của các quy tắc. Có thể nói, khẩu hiệu “Vứt bỏ mọi trách nhiệm” không hấp dẫn lắm, nhưng khẩu hiệu “Vứt bỏ mọi quy tắc” (vốn cũng không khác là mấy về mặt ý nghĩa) lại có thể được tô hồng.
Bên cạnh sự thông thái của chủ nghĩa bảo thủ chân chính là nguy cơ khi những điều truyền thống bị thoái hóa và lạm dụng. Cũng như vậy, bên cạnh nỗ lực sáng tạo là chủ nghĩa anh hùng giả dối của những chiến binh ý thức hệ đầy oán hận, những người khoác lên mình tấm áo choàng của sự nổi dậy chính nghĩa và tuyên bố bản thân có đạo đức hơn người khác cũng như phủi bỏ mọi trách nhiệm. Để giữ trật tự cho thế giới, cả sự bảo thủ thông minh và cẩn trọng lẫn sự đổi mới sâu sắc và thận trọng đều là cần thiết. Nhưng cả hai cũng đều chứa đựng những mặt trái của riêng nó. Vì thế, điều quan trọng là bạn phải tự hỏi mình: Bạn đang bảo thủ (hay đổi mới) một cách chân chính hay đen tối? Và thường thì câu trả lời sẽ là một chút của cả hai, và có lẽ sẽ có nhiều phần đen tối hơn bạn nghĩ. Nhưng đó là một phần thiết yếu của quá trình hiểu biết về thế giới phức tạp trong mỗi người chúng ta.
NHÂN CÁCH LÀ MỘT HỆ THỐNG PHÂN CẤP VÀ CÓ THỂ ĐỔI MỚI
Vậy thì ta phải hiểu thế nào về một nhân cách có thể cân bằng giữa sự tôn trọng thiết chế xã hội và sự đổi mới sáng tạo? Đó là một vấn đề hóc búa vì mức độ phức tạp cao của nó. Vì thế, chúng ta hãy tìm đến những câu chuyện để hiểu nó sâu sắc hơn. Những câu chuyện trao cho ta một bức tranh toàn cảnh. Chúng khắc họa vừa đủ những chi tiết giá trị để ta có thể làm theo nhưng cũng đủ tổng quát để ta có thể ứng dụng cho những trường hợp mới (còn một quy tắc thì có thể chỉ áp dụng được một vài trường hợp cụ thể). Trong những câu chuyện, ta thấy được một nhân cách lý tưởng nào đó. Chúng ta thường kể chuyện về thành công lẫn thất bại, phiêu lưu lẫn lãng mạn. Trong thế giới chuyện kể đó, thành công đưa ta đến những gì tốt đẹp hơn, một miền đất hứa; còn thất bại thì đẩy ta (và những người đồng hành) xuống đáy sâu vực thẳm. Một câu chuyện hay luôn chứa đựng những nhân vật cũng như những hành động của họ, và vì thế chúng phản ánh được quá trình tâm lý vô thức vốn có thể giúp ta chuyển đổi thế giới khô cứng của thực tại thành thế giới bền vững, hiệu quả, tương hỗ của những giá trị xã hội(*).
Chú thích:
(*) Một ví dụ điển hình là khi những người truyền giáo Tin Lành ở Hoa Kỳ đối mặt với một vấn đề hiện sinh mới mẻ, họ thường tự hỏi: “Trong trường hợp này, Chúa Giê-su sẽ làm gì nhỉ?”. Đó có thể là một cách thức đơn giản đến khôi hài nhưng nó thể hiện được chính xác giá trị của câu chuyện: Khi câu chuyện đã được nhập tâm, nó có thể được dùng như một hình mẫu để tạo ra nhận thức và hành vi mới mẻ. Thoạt nghe thì nó có vẻ khá ngây thơ và táo bạo khi tưởng tượng Đấng Cứu Thế sẽ làm gì trong không gian chật hẹp của cuộc sống trần tục. Thế nhưng, mục đích nền tảng của những chuyện kể tôn giáo chính là để khuyến khích con người làm theo những hành vi đạo đức trong câu chuyện đó.
Một hệ giá trị chân chính (gồm cả bảo thủ lẫn đổi mới) thường được thể hiện qua một nhân cách trong câu chuyện, đặc biệt là một nhân cách lý tưởng. Mọi hệ giá trị đều có đỉnh điểm của nó. Vì thế mà mọi câu chuyện đều có một anh hùng (và ngay cả khi nhân vật chính là một kẻ xấu thì tác dụng của câu chuyện cũng tương tự vì thông qua nhân vật phản diện mà ta có thể thấy được người anh hùng). Người anh hùng đại diện cho một cá nhân ở phong độ đỉnh cao, ví dụ như người chiến thắng, nhà vô địch, nhà thông thái, người thấp kém nhưng cuối cùng vẫn thành công, người dám nói lên sự thật giữa muôn vàn nguy hiểm, và nhiều thứ khác nữa. Những câu chuyện ta tạo nên, theo dõi, lắng nghe và ghi nhớ thường tập trung vào những hành động cùng thái độ thú vị, hấp dẫn và đáng để kể cho người khác nghe. Con người thường làm thế để những người xung quanh có thể học hỏi từ kinh nghiệm cá nhân của họ và cũng một phần bởi vì chúng ta có khuynh hướng thích chia sẻ những gì mình thấy thú vị với người khác. Đôi lúc ta có thể kể một câu chuyện hấp dẫn được lấy trực tiếp từ kinh nghiệm cá nhân của mình; và đôi lúc ta tạo nên một câu chuyện từ nhiều nhân cách khác nhau phù hợp với xã hội mà ta sinh sống.
Vị thân chủ mà tôi nhắc đến ở đầu chương là một ví dụ điển hình về sự cần thiết của việc hòa nhập xã hội. Tuy nhiên, câu chuyện tôi kể ở trên về ông ấy chưa lột tả hết được tầm quan trọng trong sự thay đổi thái độ và hành vi của ông. Khi ông sắp xếp lại đời sống xã hội của mình và chủ động hơn trong việc tham gia vào các hoạt động tập thể, ông cũng đồng thời phát triển một kỹ năng sáng tạo không ngờ tới. Về mặt học vấn, ông chưa từng tham gia vào chương trình học nào trên trình độ phổ thông, và nhìn thoáng qua thì mọi người sẽ không nghĩ ông có chút xíu gì về khả năng sáng tạo. Thế nhưng, niềm đam mê cá nhân mới mẻ mà ông tìm thấy lại nằm ở khuynh hướng yêu thích cái đẹp.
Trước tiên, ông phát triển con mắt thẩm mỹ để nhận biết những hình dạng, sự đối xứng, sự mới mẻ và cái đẹp như một nhiếp ảnh gia thực thụ. Và niềm đam mê này có nhiều lợi ích xã hội: Ông tham gia vào một câu lạc bộ nhiếp ảnh hoạt động mỗi hai tuần một lần. Họ đi thành nhóm khoảng 20 người đến khắp nơi trong thành phố để chụp ảnh, những nơi mà họ thấy thú vị vì vẻ đẹp tự nhiên độc đáo hoặc một công trình công nghiệp đặc biệt nào đó. Thông qua hoạt động này, ông ấy đã học hỏi khá nhiều về những thiết bị chụp ảnh. Những thành viên trong nhóm cũng thường nhận xét về tác phẩm của nhau theo một cách tích cực và mang tính xây dựng (tức là chỉ ra khuyết điểm nhưng đồng thời cũng nói lên những ưu điểm của tác phẩm).
Tất cả những điều này giúp thân chủ của tôi học giao tiếp một cách hiệu quả về những đề tài tương đối khó nói (như sự phê bình của người khác về khiếu thẩm mỹ của mình, thứ vốn có thể tạo ra những cảm xúc tiêu cực). Hơn nữa, ông ấy còn tăng khả năng phân biệt những bức ảnh tầm thường, chán ngắt, đơn điệu và những bức ảnh thực sự chất lượng. Sau vài tháng, khả năng thẩm mỹ của ông phát triển đủ để thắng một vài cuộc thi nhiếp ảnh địa phương cũng như kiếm được ít tiền từ nghề nhiếp ảnh. Mặc dù ngay từ đầu tôi đã tin rằng việc tham gia vào câu lạc bộ nhiếp ảnh sẽ giúp ông ấy phát triển về mặt nhân cách, nhưng tôi thật sự ngạc nhiên trước sự phát triển nhanh chóng của ông và tôi cảm thấy hết sức thỏa mãn khi cùng vị thân chủ này xem lại những tác phẩm ông chụp.
Sau vài tháng hoạt động nhiếp ảnh, thân chủ của tôi bắt đầu cho tôi xem một số bức tranh ông ấy tự vẽ. Và những bức đầu tiên tất nhiên trông rất nghiệp dư với những nét vẽ trừu tượng bằng bút mực. Những bức tranh đó thường gồm các hình vòng đủ kích thước nối liền với nhau, cứ như những nét nguệch ngoạc mặc dù nhìn kỹ thì chúng được nắn nót cẩn thận. Cũng như khi ông theo đuổi ngành nhiếp ảnh, tôi xem điều này có ích về mặt tâm lý (vì nó giúp phát triển khả năng sáng tạo) nhưng tôi không nghĩ nó mang tính thẩm mỹ nhiều lắm. Tuy nhiên, ông vẫn kiên trì theo đuổi niềm đam mê mới này và cho tôi xem thêm nhiều bức tranh mới trong những lần gặp tiếp theo. Những bức tranh ông vẽ dần trở nên phức tạp cũng như đẹp hơn một cách nhanh chóng đến không ngờ. Chẳng bao lâu sau, ông đã có thể vẽ những bức tranh bằng màu đen trắng, phức tạp, hài hòa, đủ đẹp để in trên áo thun.
Tôi cũng đã chứng kiến sự tiến bộ rõ ràng như thế nơi hai vị thân chủ khác của mình. Mặc dù cả hai đều biểu lộ khuynh hướng sáng tạo, với một người thì tiềm ẩn nhiều hơn và với người kia thì bộc lộ rõ ràng, được phát triển và nuôi dưỡng nhiều hơn. Hơn nữa, trong những ghi chú về quá trình trị liệu tâm lý và sự phát triển cá nhân, Carl Jung đã nhận thấy rằng sự tiến bộ trong khả năng vẽ những hình phức tạp, trật tự (như hình tròn nằm trong hình vuông và ngược lại) thường đi kèm với sự trưởng thành hơn về nhân cách. Điều này không chỉ đúng với vị thân chủ thích nhiếp ảnh và hội họa mà còn đúng với cả hai thân chủ kia. Vì thế, những gì tôi liên tục chứng kiến về tác dụng của quá trình hòa nhập xã hội không chỉ là sự khôi phục phẩm chất tâm lý (và sự tôn trọng với thiết chế xã hội) mà còn có cả sự chuyển đổi trong quá trình nội tâm, đặc biệt là khả năng nhận biết cũng như tạo nên những gì tinh tế, đẹp đẽ và có giá trị về mặt xã hội. Những thân chủ của tôi không chỉ học được cách tuân theo những đòi hỏi đôi lúc ngẫu nhiên nhưng cần thiết của xã hội mà còn có thể tạo ra những giá trị cho xã hội từ công sức lao động của mình.
Cháu gái Scarlett của tôi cũng dần biểu lộ những hành vi thể hiện niềm yêu thích (hoặc thiên hướng bẩm sinh) với khả năng sáng tạo bên cạnh quá trình hòa nhập xã hội của việc chú ý đến những điều quan trọng. Khi chúng ta thảo luận một câu chuyện (thể hiện qua phim ảnh, kịch nghệ hoặc sách vở), ta thường cố gắng đạt tới sự đồng thuận phức tạp về ý nghĩa của nó (phức tạp bởi vì một nhóm người bao giờ cũng có nhiều quan điểm hơn một cá nhân; và đồng thuận bởi vì cuộc thảo luận luôn tiếp diễn cho đến khi mọi người đi đến một điểm chung nào đó). Ý tưởng rằng chuyện kể là một cách để giao tiếp (và giải trí) có vẻ khá hiển nhiên khi ta vừa nghĩ đến nó. Thế nhưng một khi suy ngẫm kỹ hơn, ta sẽ càng thấy nó chứa đựng nhiều bí ẩn. Nếu đúng là mọi câu chuyện đều có một ý nghĩa nào đó thì rõ ràng rằng mục đích của nó là để chỉ ra cho ta một bài học quan trọng. Nhưng bài học đó là gì và một câu chuyện có thể làm được điều đó như thế nào? Điều đó tương đối rõ ràng khi câu chuyện nói về một hành động hoặc một cá nhân cụ thể nhưng lại khó nhận biết hơn khi câu chuyện nói về một loạt những hành động của một nhân vật nào đó trong câu chuyện.
Hành động và thái độ của những anh hùng trong truyện Harry Potter cung cấp cho ta những ví dụ điển hình của quá trình này. Harry Potter, Ron Weasley và Hermione Granger vừa có khả năng và ý chí tuân theo những luật lệ (như một kỹ năng của phù thủy tập sự) vừa có thể phá vỡ chúng khi cần thiết. Hơn nữa, điều thú vị là thầy cô ở trường Hogwarts lại thường khen thưởng cho cả hai hành vi đối lập đó. Ngay cả những đồ vật phép thuật được những cô cậu học trò phù thủy sử dụng cũng thể hiện sự đối lập này. Ví dụ tấm Bản đồ Đạo tặc (có thể hiện ra sơ đồ chi tiết của trường Hogwarts kèm theo vị trí và hành động của tất cả mọi người đang có mặt ở trường) chỉ có thể được kích hoạt bằng cách nói ra một câu mà thoạt nghe có vẻ không được đạo đức cho lắm: “Tôi trang trọng thề rằng tôi là đồ vô tích sự”, và khi cần xóa sạch tấm bản đồ thì phải nói: “Phá luật xong”.
Thật khó để hiểu được làm thế nào mà một món đồ vật chỉ được sử dụng với những lời nói như thế thì có thể làm được điều gì khác ngoài những điều xấu. Thế nhưng, cũng như việc Harry và những người bạn thường xuyên phá vỡ luật lệ (một cách cẩn thận) mà vẫn được khen thưởng vì điều đó, thì giá trị đạo đức của tấm Bản đồ Đạo tặc sẽ tùy thuộc vào ý định của người sử dụng. Một ý tưởng xuyên suốt trong toàn bộ câu chuyện đó là: Những điều tốt đẹp không thể chỉ được gói gọn trong một vài quy tắc cứng nhắc và đơn giản dù quy tắc đó có quan trọng đến mấy. Vì thế, truyện Harry Potter không hướng đến việc xem sự phục tùng trật tự xã hội một cách máy móc như là phẩm chất đạo đức cao nhất. Và những phẩm chất thay thế cho sự phục tùng đó không dễ để diễn đạt, mà chỉ có thể nói một cách chung chung rằng: “Hãy tuân theo những quy tắc trừ khi nó đi ngược lại với mục tiêu mà những quy tắc đó hướng tới, và trong trường hợp đó thì hãy mạo hiểm hành động ngược lại với những gì được xem như là đạo đức”. Một bài học như thế có vẻ được chuyển tải dễ dàng hơn thông qua hành động của các nhân vật trong một câu chuyện so với học vẹt hay nêu lên một vài quy tắc. Siêu quy tắc (tức quy tắc về những quy tắc) không nhất thiết phải được diễn đạt theo cùng một cách của những quy tắc đơn giản.
Với sự tập trung vào việc chỉ trỏ, Scarlett nhanh chóng nhận ra rằng sau hành vi đó nó còn cần phải nắm được ý nghĩa phức tạp của những câu chuyện. Vào khoảng một tuổi rưỡi, con bé có thể dùng ngón trỏ chỉ vào một vật nào đó. Đến khoảng hai tuổi rưỡi thì con bé đã có thể hiểu và diễn đạt được ý nghĩa tinh tế của một câu chuyện kể. Trong vòng sáu tháng liên tiếp, con bé cứ khăng khăng rằng mình là Pocahontas chứ không phải là Ellie (tên mà cha con bé thường gọi nó) hay Scarlett (cái tên mà mẹ nó yêu thích). Với tôi thì đây là một biểu hiện đáng ngạc nhiên của tư duy trừu tượng. Con bé được cho một con búp bê Pocahontas (một trong những món đồ chơi yêu thích nhất của nó) cùng với một con búp bê em bé khác mà nó đặt theo tên bà ngoại, Tammy. Khi Scarlett chơi với con búp bê em bé thì nó đóng vai người mẹ, nhưng khi chơi với con búp bê Pocahontas thì khác hẳn vì đó không phải là búp bê em bé. Vì thế khi chơi với con búp bê Pocahontas, Scarlett tự xem mình như một người lớn giống như Pocahontas và bắt chước con búp bê đó (vốn được mặc đồ như một phụ nữ trẻ và là nhân vật nữ chính trong một phim hoạt hình Disney mà con bé rất thích xem).
Nhân vật Pocahontas và Harry Potter có những điểm giống nhau đáng kinh ngạc. Cha của Pocahontas đã hứa gả cô cho Kocoum, một chiến binh quả cảm và là hiện thân của những phẩm chất tốt đẹp của bộ lạc. Thế nhưng, đối với cô dâu tương lai vốn có tính cách phóng khoáng thì hành vi và thái độ của Kocoum lại quá cứng nhắc và phục tùng. Vì thế, Pocahontas đã phải lòng John Smith, vị thuyền trưởng đến từ châu Âu và là đại diện cho những gì vượt ngoài tầm hiểu biết của bộ lạc (vốn có thể mang lại lợi ích nào đó). Điều quan trọng là khi cô chọn Smith thay vì Kocoum, Pocahontas đã theo đuổi một quy tắc đạo đức cao hơn những quy tắc được đánh giá cao trong bộ lạc và cũng như Harry Potter, cô đã phá vỡ một số quy tắc chuẩn mực trong cuộc hành trình của mình. Đó là ý nghĩa chung của cả hai câu chuyện: Tuân theo những quy tắc cho đến khi bạn trở thành một biểu tượng sáng ngời cho những giá trị mà các quy tắc đó đại diện, nhưng hãy phá vỡ những quy tắc khi chúng trở thành một chướng ngại cho những phẩm chất cao đẹp. Và cháu tôi Scarlett, lúc này chưa đến ba tuổi, đã có đủ sự khôn ngoan để hiểu được điểm này trong bộ phim của Disney và đưa nó vào trong trò chơi của mình với con búp bê Pocahontas. Sự khôn ngoan này của con bé đã đạt tới ngưỡng cửa của những điều bí ẩn.
Những ý tưởng này (tức sự tôn trọng quy tắc trừ khi chúng đi ngược lại với những nguyên tắc đạo đức cao hơn) đã được khắc họa rõ nét và mạnh mẽ trong hai câu chuyện của sách Phúc âm trong Kinh Thánh. Đó là những câu chuyện truyền thống, hoặc là kinh điển, mô tả một nhân cách lý tưởng nhằm mục đích khuyến khích mọi người làm theo nhân cách đó. Trong câu chuyện đầu tiên, Chúa Giê-su được mô tả như một bậc tôn sư của truyền thống đạo Do Thái (ngay cả khi vẫn còn là một đứa trẻ). Vì thế, ông biết rõ được những giá trị truyền thống của quá khứ và mang những phẩm chất quý giá của một người bảo thủ chân chính. Trong sách Phúc âm Luke 2:42-52(*), gia đình của Giê-su hành hương tới Jerusalem mỗi năm vào ngày lễ Vượt qua (Passover) của người Do Thái:
Chú thích:
(*) Tác giả Jordan B. Peterson có chú thích rằng, các trích dẫn Kinh Thánh trong cuốn sách được lấy từ Kinh Thánh phiên bản King James, trừ khi có ghi chú khác. Khi chuyển ngữ, người dịch có tham khảo bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ (tại trang webhttps://ktcgkpv.org/) và giữ nguyên tên riêng chứ không phiên âm, tuy nhiên tên Chúa Giê-su sẽ được phiên âm theo cách dùng phổ biến trước giờ. – BTV
Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ.
Xong kì lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Jerusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết.
Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm cậu giữa đám bà con và người quen thuộc.
Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Jerusalem mà tìm.
Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong đền thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ vừa đặt câu hỏi.
Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu.
Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại đối xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”.
Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”.
Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.
Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazareth và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.
Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.
Tuy nhiên, khi xem xét kỹ hơn toàn bộ sách Phúc âm thì ta sẽ nhận thấy bật lên một nghịch lý có liên hệ mật thiết tới sự giằng co giữa việc tôn trọng truyền thống và việc cần thiết phải đổi mới sáng tạo. Mặc dù Người thấu hiểu rất cặn kẽ và tôn trọng những luật lệ, nhưng cũng không ít lần Giê-su đã vi phạm truyền thống Sabbath (ít nhất là theo quan điểm của những người Do Thái thủ cựu và điều đó đã gây không ít khó khăn cho Người). Chẳng hạn Người đã dẫn các tông đồ của mình qua cánh đồng bắp để hái và ăn những hạt bắp (sách Luke 6:1). Khi những người Pharisee (tức những người Do Thái thủ cựu) phản đối hành động đó, Giê-su đã đáp lại bằng cách trích dẫn việc Vua David đã làm điều tương tự, tức là cho thần dân của mình ăn thức ăn vốn chỉ dành cho linh mục khi hoàn cảnh bắt buộc (sách Luke 6:4). Giê-su đã nói với những người phản đối đó bằng những lời đáng chú ý: “Rồi Người nói: ‘Con Người làm chủ ngày Sabbath’”, (sách Luke 6:5).
Một tài liệu cổ có tên Codex Bezae(*) (một phiên bản không chính thống của Kinh Tân Ước) đã diễn dịch rộng hơn cho phần Phúc âm Luke mà ta vừa nói ở trên, và giúp soi sáng thêm cho ta về vấn đề này. Nó cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn về mối quan hệ đối lập phức tạp giữa sự tôn trọng các quy tắc và sự đổi mới sáng tạo vốn cần thiết nhưng đồng thời cũng đi ngược lại các quy tắc đó. Trong Codex Bezae có câu chuyện về Chúa Giê-su khi Người nói về một người cũng phá vỡ một luật lệ thiêng liêng giống Người: “Vào ngày hôm đó, khi theo dõi một người thực hành nghi lễ Sabbath, Chúa Giê-su bảo rằng: ‘Này anh kia, nếu anh thực sự hiểu rõ được những gì mình đang làm, anh sẽ được ban phước lành; nhưng nếu anh không hiểu được, anh sẽ bị nguyền rủa, và trở thành kẻ vi phạm Luật lệ của Chúa’”12.
Chú thích:
(*) Codex dùng để chỉ một quyển sách được làm từ nhiều chất liệu khác nhau như giấy da bê hoặc cừu, và giấy làm từ ruột cây papyrus. Ngoài ra, hiện nay từ này còn được dùng để chỉ riêng những tài liệu viết tay như trường hợp quyển Codex Bezae. Quyển sách này được viết bằng cả tiếng Hi Lạp lẫn Latin và gồm phần lớn cả bốn sách Phúc âm lẫn sách Công vụ Tông đồ. Đây là tài liệu độc đáo do những nội dung được thêm vào, lược bỏ và cả văn phong của các sách được ghi chép trong đó.
Vậy thì câu nói đó có ý nghĩa gì? Câu đó đã tổng kết hoàn hảo ý nghĩa của Quy tắc 1. Nếu bạn hiểu rõ những quy tắc (tức sự cần thiết và giá trị của chúng trong việc đoàn kết xã hội cũng như cái giá phải trả để thiết lập hay phá vỡ chúng) nhưng bạn vẫn chấp nhận những ngoại lệ khi cần thiết vì một mục đích cao cả hơn, thì bạn đang phục vụ cho tinh thần của đạo đức chân chính chứ không phải luật lệ, thứ vốn chỉ là cái vỏ của tinh thần đó. Nhưng nếu bạn không nhận ra được tầm quan trọng của những quy tắc mà mình muốn phá vỡ và bạn chỉ hành động vì lợi ích bản thân thì bạn sẽ bị khốn khổ. Sự vô tâm, bất cẩn với chính truyền thống của mình sẽ gây hại sâu sắc cho bạn và có lẽ cả những người xung quanh bạn.
Điều đó hoàn toàn phù hợp với tinh thần và hành động của Chúa Giê-su trong các sách Phúc âm. Ví dụ như sách Matthew 12:11 nói rằng: “Người đáp: ‘Ai trong các ông có một con chiên độc nhất bị sa hố ngày Sabbath, lại không nắm lấy nó và kéo lên sao?’”. Sách Luke 6:6 mô tả Giê-su chữa lành cho một người đàn ông có cánh tay bị tật vào ngày lễ Sabbath và nói rằng: “Đức Giê-su nói với họ: ‘Tôi xin hỏi các ông: Ngày Sabbath, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay hủy diệt?’”, (sách Luke 6:9). Sự hòa trộn đầy khó khăn về mặt tâm lý của hai quan điểm đạo đức (tức tuân theo luật lệ ngày Sabbath hay là làm điều tốt theo lương tâm mình) thường làm những vị Do Thái thủ cựu nổi giận, và là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc Chúa Giê-su bị bắt giữ và đóng đinh trên thập giá. Những câu chuyện này khắc họa rõ nét vấn đề hiện sinh hóc búa muôn thuở của loài người: Chúng ta cần phải tuân thủ một cách kỷ luật những luật lệ (và khiêm tốn làm theo những người khác) nhưng ta cũng cần phải tự mình xét đoán, nhìn nhận để thấy được sự thật, cũng như lắng nghe tiếng nói lương tâm của mình khi nó đi ngược lại với những quy tắc. Chính khả năng cân bằng và phối hợp được cả hai điều đó là phẩm chất của một nhân cách hoàn thiện, tức của một người hùng thực sự.
Chúng ta cần phải chấp nhận một mức độ vừa phải những quy tắc cần thiết để giữ trật tự cho thế giới và đoàn kết con người lại với nhau. Cũng như vậy, chúng ta cần một mức độ hợp lý những sáng tạo và nổi loạn cần thiết để giúp xã hội liên tục đổi mới. Mọi quy tắc đều là những điều mới mẻ khi chúng thay thế (và thậm chí phá vỡ) những quy tắc cũ. Chính sự tương tác sống động giữa thiết chế xã hội và thành tựu sáng tạo giúp thế giới cân bằng giữa hai cực trật tự và hỗn độn. Đó là một vấn đề hóc búa, một gánh nặng sinh tồn thực sự cho loài người. Chúng ta cần ủng hộ và xem trọng quá khứ, và phải làm thế với lòng biết ơn cùng sự kính trọng. Tuy nhiên, ta cũng cần mở rộng lòng mình với những điều mới mẻ để sửa chữa những cơ chế xưa cũ đang bắt đầu lỗi thời. Vì thế, ta phải đối mặt với nghịch lý của việc vừa phải tôn trọng những bức tường giữ ta an toàn, vừa phải cho phép sự phát triển hợp lý của những điều mới mẻ để thiết chế xã hội vẫn giữ được sự lành mạnh và sức sống của nó. Sự ổn định và sống động của thế giới phụ thuộc vào sự đồng lòng cố gắng của mọi cá nhân trong quá trình hoàn thiện sự cân bằng tinh tế đó.
Đừng bao giờ vội chê trách thiết chế xã hội hay thành tựu sáng tạo.
Nguyên tố cơ bản, lấy cảm hứng từ Hermes Trismegistus, Occulta philosophia (1613), và từ H. Nollius, Theoria philosophiae hermeticae (Hanoviae: Apud P. Antonium, 1617).