“Từ trong sâu thẳm, mọi người đều mong bản thân được chấp nhận; và tôi mong chúng ta sẽ có được sự tự tin thật sự để yêu thương chính mình cũng như tin rằng bản thân ta vốn đã đủ đầy.”
– Justin Baldom

“Từ trong sâu thẳm, mọi người đều mong bản thân được chấp nhận; và tôi mong chúng ta sẽ có được sự tự tin thật sự để yêu thương chính mình cũng như tin rằng bản thân ta vốn đã đủ đầy.”
– Justin Baldom
Suốt mười chín năm đầu đời, tôi từng đóng rất nhiều vai khớp với kỳ vọng của mọi người. Tôi từng là một cậu bé lên mười rụt rè hay lo lắng, sau đó lớn lên thành một nam sinh trung học chăm chỉ, và rồi trở thành một sinh viên đại học hay ngủ gục trong lớp. Tuy vậy, có một vai mà tôi chưa từng thể hiện trọn vẹn – vai một người đàn ông “nam tính” theo đúng chuẩn mực xã hội.
Tôi được nuôi nấng trong một môi trường đa phần là nữ giới. Tôi có ba chị em gái vô cùng thân thiết và một người mẹ cực kỳ quan tâm đến con cái. Cha tôi có những ảnh hưởng rất tích cực đến tôi, nhưng hai cha con tôi vẫn là thiểu số trong gia đình mà sức mạnh nữ tính chiếm đa số.
Đương nhiên, mẹ và các chị em gái đã truyền cho tôi nhiều phẩm chất mà tôi cực kỳ biết ơn. Họ dạy tôi cách biểu đạt cảm xúc, bày tỏ lòng trắc ẩn và chung thủy với những người mình yêu thương. Nhưng hiển nhiên, tôi cũng học theo mẹ và các chị một vài sở thích cũng như những hành vi mà nếu không lớn lên trong gia đình hiện tại, tôi không biết mình có cư xử như thế không. Ví dụ, tôi có thói quen đứng chống nạnh, dáng vẻ trông y hệt các bà mẹ Do Thái, và tôi đã xem cũng như nhớ rõ mọi chi tiết trong show America’s Next Top Model suốt năm mùa liên tục.
Tôi chưa hề nhận thấy bản thân có gì “lệch lạc” – từ cách tôi đi đứng, nói năng đến xu hướng thích kết thân với các bạn gái, bởi tôi cảm thấy rất thoải mái khi giao tiếp với họ – cho đến năm tôi vào học lớp một.
Hồi còn nhỏ, lúc nào tôi cũng trông nhỏ hơn tuổi. Tôi thấp hơn chiều cao trung bình trong suốt thời thơ ấu. Điều này, cộng với thái độ thờ ơ đối với hầu hết các môn thể thao và giọng nói cao the thé, khiến tôi trông rất khác với các bạn nam trong trường.
Các bạn nam cùng trường với tôi có một vài điểm chung. Hầu hết các bạn đều chơi thể thao, thân với nhiều bạn nam hơn bạn nữ và hiếm khi bày tỏ cảm xúc của bản thân. Sau này, tôi mới biết rằng những đặc điểm đó được gán cho một cái tên là “nam tính”, từ thường được dùng để gán sức mạnh cho cánh đàn ông. Tôi không có nhiều đặc điểm trong số đó – hoặc ít nhất là không nhiều như các bạn cùng lớp với mình – vì thế mọi người thường nghĩ tôi “nữ tính”, một từ đáng tiếc thay, thường được dùng để gán sự yếu đuối cho các bạn nữ.
Bọn con trai trong các lớp không chấp nhận việc tôi phá vỡ quy ước ngầm này, nên chúng thường thể hiện thái độ không chấp nhận của mình theo một cách rất lạ lẫm với tôi: những hành động hung hăng, gây hấn.
Lần đầu tôi bị các bạn gọi là “gay”1 với hàm ý xúc phạm là vào năm lên sáu. Tôi nhớ rõ chuyện này hơn hầu hết những bữa tiệc mừng sinh nhật thời thơ ấu của mình. Lúc đó, tôi không biết từ này có nghĩa là gì, nhưng từ vẻ ghê tởm trong giọng nói của mấy đứa bạn khi thốt ra từ đó, tôi có thể mơ hồ cảm nhận được bọn họ nói thế là để làm bẽ mặt tôi.
Chú thích:
1 “Gay” là từ tiếng Anh chỉ những người đồng tính (thường là nam).
Cũng trong khoảng thời gian này, tôi bắt đầu chơi quần vợt. Nhờ năng khiếu bẩm sinh và quá trình luyện tập siêng năng, tôi nhanh chóng thành thạo môn thể thao này và vượt trội hơn hầu hết những đứa trẻ sáu tuổi khác.
Đến năm lên chín, tôi tham gia một chương trình huấn luyện chất lượng cao. Năm đó, tôi chính là tay vợt trẻ tuổi và nhỏ con nhất tham gia chương trình, nhưng tôi cũng là người nhanh nhẹn và chơi có chiến lược nhất. Việc này thật sự mang lại cho tôi sức mạnh – không chỉ là sức mạnh thể chất, mà còn là sức mạnh tinh thần đến từ khả năng chơi giỏi một môn thể thao dù không sở hữu những phẩm chất cần thiết thường thấy để trở nên vượt trội.
Nhờ chơi quần vợt giỏi mà tôi cũng ít bị ăn hiếp hơn trong thời gian học tiểu học. Dù vẫn có dáng người thấp bé, giọng nói the thé và chủ yếu chơi chung với các bạn nữ, nhưng tôi lại có thể chơi một môn thể thao ở trình độ cao, việc mà những người bị xem là “yếu ớt” hoặc “nữ tính” thường không làm được.
Quần vợt dần trở thành tấm khiên giúp tôi thoát khỏi cái mác “yếu ớt”. Những câu sỉ nhục mà bọn con trai trong lớp nhắm về phía tôi sau cùng lại thường làm nổi bật năng lực thể thao mà tôi đạt được bất chấp mọi trở ngại về thể chất. Vì vậy, cuối cùng bọn họ thôi không gây sự với tôi nữa.
Khi lên cấp hai, nhờ sự tự tin mới mẻ này mà tôi bắt đầu kết bạn nhiều hơn, có một cô bạn gái và trở nên gắn bó hơn với các bạn cùng chơi quần vợt. Tôi vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi cảm giác bất an thường trực về thể trạng nhỏ gầy và những nét nữ tính của bản thân. Tuy nhiên, nếu không ai chọc ghẹo tôi về vấn đề này nữa thì tôi không thấy có lý do gì mình phải thay đổi cả.
Thế nhưng, sự yêu thích tôi dành cho môn quần vợt ngày một vơi dần. Ở cấp độ chuyên nghiệp, các vận động viên quần vợt phải tham gia các giải đấu bắt buộc để nâng cao thứ hạng của bản thân, ở cấp tỉnh hoặc cấp quốc gia.
Những giải đấu này luôn khiến tôi rối trí. Trong thời gian luyện tập, tôi sẽ cùng các bạn cố gắng trau dồi kỹ năng và giúp đỡ nhau; nhưng khi vào giải đấu, quần vợt lại là một môn thể thao đối kháng, một chọi một. Tôi không thích phải cạnh tranh với các bạn, không muốn chúng tôi trở thành “đối thủ” của nhau. Tôi không thích nhìn thấy các bạn thua cuộc nhưng cũng không thích bản thân không giành được chiến thắng. Tuy nhiên, tôi không bao giờ chia sẻ với mọi người nỗi e ngại này, vì sợ lòng trắc ẩn của mình sẽ bị xem là sự hèn nhát.
Dù tôi phải cố gắng theo đuổi môn thể thao mà mình không còn yêu thích nữa, nỗi khó khăn này vẫn khá nhỏ bé so với những gì tôi phải trải qua ở trường trung học.
Vào đến cấp ba nhưng thân người vẫn nhỏ thó, tôi trở nên khác biệt với các bạn cùng lứa hơn bao giờ hết. Sau khi đọc được những gì mà cô bạn gái tôi từng hẹn hò năm cấp hai viết về mình, tôi mới biết những người bạn lớp chín nghĩ thế nào về tôi. Cô ấy đã đăng một chia sẻ ẩn danh với nội dung: “Người bạn duy nhất bạn từng hẹn hò lại là [J]osh [G]ranovsky nên lần đó sẽ không được tính, vì cậu ấy… chẳng khác gì một cô gái cả”.
Tôi không có tài khoản ẩn danh riêng để phản bác lại, vì vậy trang chia sẻ thông tin của cô ấy dần trở thành một nơi để lan truyền và bàn tán các tin đồn về xu hướng tính dục và sự “thiếu nam tính” của tôi, theo mọi cách mà những người bạn thiếu chín chắn của tôi có thể nghĩ ra.
Vì tôi không có cách nào để lên tiếng cho bản thân, phương pháp phòng vệ duy nhất của tôi trước những bình luận này là điên cuồng tập quần vợt. Tôi tăng thời gian luyện tập lên đến sáu ngày một tuần, có nhiều ngày bắt đầu từ lúc sáu giờ rưỡi sáng và kết thúc vào lúc mười giờ rưỡi đêm. Thứ hạng của tôi tăng lên đến mức cao nhất trong sự nghiệp – hạng bốn mươi chín ở Ontario và hạng hai trăm trên toàn Canada. Tôi bắt đầu chia sẻ về chế độ luyện tập cũng như dinh dưỡng nghiêm ngặt của mình lên mạng xã hội, và hết sức hân hoan khi nhận được những lời bình luận của các bạn học cũ về “sự nam tính kín đáo” của tôi.
Tôi càng điên cuồng tập luyện quần vợt nhiều chừng nào thì nỗi chán ngán trong tôi cũng tăng lên nhiều chừng ấy. Tôi vẫn không thích cạnh tranh với các bạn trên sân bóng, giờ đây tôi cũng bắt đầu thấy hối tiếc khi thường xuyên bỏ lỡ các hoạt động ngoại khóa hoặc phải ra về sớm để dành thời gian luyện tập.
Cuối cùng, đến gần cuối lớp mười thì những gì tôi mong mỏi cuối cùng cũng xảy ra. Tôi cao vổng lên và giọng nói của tôi trầm xuống hẳn. Khi cảm thấy tự tin hơn, tôi gia nhập một nhóm bạn mới, bắt đầu một mối quan hệ nghiêm túc, để cuối cùng tôi đã có đủ can đảm để từ bỏ môn quần vợt. Năm đó, tôi giảm thời gian luyện tập xuống còn bốn ngày một tuần, chẳng bao lâu xuống còn hai ngày, đến cuối cùng tôi không đi tập nữa.
Dần dần, mọi người xung quanh tôi không còn thường xuyên bình luận về những khía cạnh “nữ tính” của tôi nữa, tôi cũng trở nên tự tin hơn về giá trị bản thân.
Giờ đây, khi bắt đầu có được một trạng thái tinh thần và các mối quan hệ ổn định hơn, tôi đã không còn cần đến môn quần vợt để dựng lên một lớp rào chắn cho bản thân trước những người nghĩ tôi “giống con gái” nữa.
Một mặt, tôi thấy hạnh phúc khi không còn là một cậu bé cao một mét rưỡi thường hay lo lắng của ngày xưa. Mặt khác, tôi vẫn ước rằng giá như mình không cần phải trở nên cao lớn thì mới cảm thấy tự tin. Tôi ước mình không phải cố bám víu vào một môn thể thao mà mình không thích chỉ để có được cảm giác mạnh mẽ. Tôi ước mình không cần mất đến gần hai mươi năm mới thật sự hiểu ra rằng mình hoàn toàn có thể trở thành một người đàn ông khi sống đúng với chính con người thật mình, bất kể xã hội đã và đang định nghĩa “đàn ông” là gì đi nữa.
Giờ đây, ở tuổi mười chín và cao một mét tám, tôi không còn bị người khác hoài nghi về sự nam tính của mình nữa. Quan trọng hơn, tôi không còn tự hoài nghi về sự nam tính của bản thân nữa.
Tôi cho rằng sự thay đổi này không liên quan nhiều đến hình thể vạm vỡ hiện tại của tôi, mà chủ yếu nằm ở việc tôi bắt đầu học cách định nghĩa “sự nam tính” của mình dựa trên những gì khiến bản thân tôi cảm thấy mạnh mẽ, chứ không phải dựa trên những tiêu chuẩn mà xã hội áp đặt lên một người đàn ông.
Trong trường hợp lý tưởng nhất, câu chuyện của tôi sẽ góp phần vào phong trào xóa bỏ những gì được gọi là “nam tính độc hại”1. Nhưng tôi sẽ còn vui hơn nữa nếu có thể giúp dù chỉ một bạn nam đọc câu chuyện này, có thể nhận ra cậu ấy không cần phải sống theo bất kỳ một khuôn mẫu nào để trở thành một “người đàn ông đích thực” cả, thậm chí không cần chơi quần vợt cũng không sao.
Chú thích:
1 “Nam tính độc hại” hay “tính nam độc hại” dùng để chỉ những tiêu chuẩn cực đoan cho nam giới. Một số tiêu chuẩn đó đã trở nên “bình thường” trong nhiều nền văn hóa, thậm chí còn được tôn vinh. “Con trai không được khóc” là một ví dụ điển hình.