Quanh Berlin, những con ngựa trùm áo mưa đứng dầm chân trên những cánh đồng, tai rủ xuống. Ở Hà Nội, theo tin từ internet, cũng mưa, mà mưa còn được dự báo sẽ kéo dài đến hết tuần sau. Nhưng nhiệt độ ở đó không phải 80C, mà là 350C. Khi chuẩn bị đồ đạc, tôi mới phát hiện mình không có cái áo mưa nào. Ôi, không lẽ suốt 36 năm qua, tôi chưa từng cần đến áo mưa hay sao – mà lại ở Đức nữa cơ đấy?
Mệt nhừ tử. Để cất bước ra đi, bạn cần một cái mẹo nhỏ, đó là : những tuần trước đó, bạn làm cả núi việc, đến nỗi sau đó bạn mệt tới mức thực sự muốn nghỉ ngơi. Một loạt đối tác đột nhiên thấy rằng họ cần tôi gửi gấp một bài viết, một chương trình, một bài phỏng vấn, hoặc phải đưa ra một quyết định nào đó. Như thể họ sợ tôi không trở về nữa. Với cảm giác khoái trá, tôi đặt trong hộp thư điện tử một tin nhắn tự động nói rằng trong thời gian tôi đi vắng, tất cả e-mail gửi đến sẽ, thứ nhất, không được đọc, và thứ hai, sẽ tự động bị xóa (chuyện này quá đơn giản). Nhưng thực ra cả hai đều không đúng, bởi tôi nghe nói ở Việt Nam, người ta có thể truy cập internet công cộng còn dễ hơn ở Brandenburg nhiều. Nhưng dù sao, ít ra một tin nhắn tự động như thế cũng tạo được tác dụng như một rào chắn vậy.
Cẩm nang du lịch Việt Nam, cẩm nang du lịch Thái Lan, cẩm nang du lịch Trung Quốc, cẩm nang du lịch Campuchia đặt cạnh nhau tại quầy châu Á ở khu vực check-in của Sân bay Quốc tế Frankfurt. Ấn tượng đầu tiên về con người và đất nước này: những người phụ nữ xinh xinh, những đứa trẻ ngoan ngoãn, những người đàn ông chất phác. Tất cả đều khiến bạn có thể bật cười, dù cho hàng người đứng chờ trước quầy kéo dài như thể đến tận Hà Nội vậy.
Có cảm giác thủ tục xuất cảnh cho mỗi hành khách kéo dài cả nửa tiếng đồng hồ. Quang cảnh quanh hàng người dài dằng dặc trông như ở một công ty vận tải. Những hành khách người Việt Nam mang theo đủ thứ lỉnh kỉnh về Hà Nội, nào là lò vi sóng, nào là máy trộn hoa quả, máy hút bụi, máy in laser, thậm chí cả nồi cơm điện nữa. Có vị còn mang theo nguyên cả bộ bồn tắm, bao gồm bệ, thành và phụ kiện, đựng trong năm thùng các-tông khổng lồ.
Made in Vietnam. Có lẽ một nửa số quà tặng cồng kềnh này đang trên đường trở về quê hương của chính nó, đắt gấp hai mươi lần giá gốc, nhờ được cấp nhãn hiệu chất lượng hàng hóa Đức theo một cách nào đấy, qua cửa hải quan Frankfurt. Tôi có thể hình dung như thể đang nghe được những lời này từ người thân những hành khách ấy ở Hà Nội: “Quạt máy hết ý. Ông anh tớ vừa mang từ Đức về đấy!”. Tôi nhìn lại trang phục của mình: áo khoác Jack-Wolfskin, xăng-đan Nike – tất cả đều made in Vietnam.
Trên thực tế, bạn có thể nhận ra ngay dân Tây Âu du lịch châu Á khi nhìn vào những ba lô nhựa, quần nhựa, áo nhựa, giày thể thao nhựa, túi buộc bụng nhựa và túi xách tay nhựa. Dù đàn ông hay đàn bà, mỗi khách du lịch đều mang trên mình ít nhất năm thứ “Jack-Wolfskin” hoặc “The Northern Face”. Cứ như thể hết thảy thế giới bên ngoài khối Liên minh châu Âu đều là một cuộc leo núi Himalaya vậy.
Khi ra đi tôi có mang theo một câu, một câu chợt đến với tôi sáng nay khi tỉnh dậy, nhưng vì vội chuẩn bị nên tôi đã không ghi lại: “Cô cảm thấy như mình vừa bước ra khỏi một bữa tiệc thành công để hít thở không khí trong lành một lát, và khi cô quay lại thì đột nhiên một người đàn ông ngồi chắn cửa đòi cô phải trình giấy mời, nếu không sẽ không cho cô vào – thế là cuộc đời cô trở thành một xã hội khép kín, và cô là kẻ đứng ngoài”.
Cảm giác khi bay giống như nằm trong bệnh viện vậy. Mắt nóng, tai nặng, mũi chảy, cổ rát. Co quắp chăn đệm, chúng tôi ngồi cứng đơ khi bữa ăn tối đã tiêu hóa hết từ lâu, dài cổ đợi cô tiếp viên rầu rĩ trong bộ đồng phục màu đỏ của Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam đến dọn để có thể đứng dậy đi vào nhà vệ sinh. Dưới tấm đệm, chân cứ phải dậm dậm cho máu đỡ dồn xuống. Thỉnh thoảng lại thèm thuồng ghen tị nhìn qua tấm chắn lên khoang hạng nhất dành cho các “bệnh nhân” giàu có. Tivi cứ chạy, ê ẩm khắp người, không ngủ được. Thôi đừng làm gì gây chú ý: Cứ ngoan ngoãn chịu đựng, biết đâu bạn sẽ sớm được giải thoát thôi.
Tiếng quẹt đường băng chát chúa kéo dài khi máy bay hạ cánh, và chấm dứt. Mở cửa: Hà Nội. Mệt đừ cả người. Không khí nóng hầm hập. Những vệt sáng xẹt qua vùn vụt. Thực tế đó là những vệt sáng phát ra từ mấy đôi giày thể thao của các cậu bé, giống như những vệt sáng ở một sàn nhảy disco vậy.
Nhiều thành phố lớn trên thế giới nổi tiếng vì giao thông hỗn loạn, đến mức nếu là người nước ngoài bị thả vào đó thì bạn sẽ khó mà sống nổi. Paris, Roma, Bắc Kinh, New York, Moscow, thậm chí ngay cả Berlin cũng vậy. Như thể tắc đường là chuyện đương nhiên ở các đại đô thị, giống như một tay vệ sĩ thì đương nhiên phải có đôi bắp tay lực lưỡng vậy. Ở những nơi ấy, tất cả đều có phần quay cuồng. Nhưng mà ở đây - có Chúa làm chứng cho tôi - mọi thứ còn quay cuồng gấp đôi, không, phải là gấp mười lần như thế! Đây không phải là giao thông nữa, mà là một màn xiếc tập thể. Tôi không hề biết rằng có thể xếp lọt nhiều xe máy đến thế trên đường, giống như nước chảy trên sông vậy. Tôi không hề biết rằng cả một gia đình gồm vợ, chồng với hai đứa con có thể thoải mái ngồi lọt trên một chiếc Vespa. Tôi không biết rằng người ta có thể chở cả một cái tủ đá bằng xe máy. Tôi không hề biết rằng người ta vừa có thể hút thuốc, vừa gọi điện thoại, vừa giữ một đứa bé trong lòng, trong khi vẫn đang lái xe máy. Mà mỗi chiếc xe chạy trên đường chỉ có chỗ vừa đủ bằng độ lớn của chính nó thôi, bởi vì bao quanh chiếc xe đó là những chiếc xe khác. Thỉnh thoảng cũng có ôtô, vài người đi xe đạp và khách đi bộ (chúng tôi hay vài khách Tây ba-lô khác). Như một dòng sông, tác-phẩm-nghệ-thuật-tổng-thể này không chỉ chuyển động về một hướng mà tràn ra đủ mọi hướng. Nó hòa vào, nó tách ra, nó quấn lấy nhau, nó đan vào nhau. Nó tự trôi chảy không ngừng nghỉ. Một hoạt cảnh thiên nhiên kì vĩ, hình thành từ quá trình cơ giới hóa nhanh chóng, kết hợp với sự vắng bóng triệt để của tất cả các loại hình giao thông công cộng đô thị. Ở Hà Nội không có tàu điện ngầm, không có tàu điện trên mặt đất, không có tàu nội tỉnh, không có tàu trên không. Chỉ có vài tuyến xe buýt gần như vô hình với những chuyến xe cứ như mất hút đâu đó vì tắc đường. Nếu một ngày nào đó mọi người dân ở đây đều đủ giàu để có thể sắm ô tô riêng, hay một ngày Việt Nam bị WTO ép phải bỏ mức thuế 200% áp dụng cho ôtô nhập khẩu, thì có lẽ mọi sự sẽ chấm dứt với giao thông ở đây.
Đừng quên bấm còi. Mặc dù ở đây người ta có thể làm mọi việc khi đi xe máy, dễ dàng như ở trên tàu điện ngầm, nào là đọc báo, ăn uống và tán chuyện, nhưng họ vẫn luôn còn thừa một ngón tay nào đó để nhấn còi: tiếng còi là âm thanh tự nhiên của dân chạy xe máy ở đây, giống như tiếng hót là âm thanh tự nhiên của loài chim vậy. Tiếng còi xe kết hợp với sự mệt mỏi, say máy bay và sốc khí hậu (đây không phải không khí nữa, mà là một nồi súp nóng!) khiến tôi rơi vào trạng thái mê man, trạng thái mà ở đó sự khác biệt giữa sống và chết chẳng còn ý nghĩa gì, nó giúp một khách du lịch như tôi có thể tham gia vào giao thông ở đây, thật ra là buộc phải tham gia, mà không đến nỗi phát hoảng lên vì sợ. Tôi giống như một khúc gỗ đang trôi trên sông, cứ để mặc cho mình bị cuốn đi như thế. Dòng nước sẽ tự biết cách chảy làm sao để không nghiền nát tôi.
Những cô gái đi xe máy mặc áo khoác hoa, khăn trùm kín mặt, lại còn thêm cả khẩu trang sặc sỡ, kính râm và mũ bảo hiểm bọc vải hoa. Như một ánh chớp, ngôn ngữ chụp ngay lấy hiện tượng, nuốt trôi, tiêu hóa và bắn ra thành khái niệm chính xác: đội quân cướp nhà băng sặc sỡ. Tôi hoan hỉ ngắm nghía khái niệm này từ mọi hướng: tuyệt diệu, chuẩn không cần chỉnh.
Và, đội quân cướp nhà băng sặc sỡ này chính là lực lượng gìn giữ hòa bình trong cuộc xung đột giữa các nền văn hóa: chúng tôi sẽ kể cho những người Tây Âu sự thật đơn giản là, chiếc khăn trùm đầu trong đạo Hồi chắc chắn là một biểu tượng tôn giáo rồi, nhưng chiếc khăn ấy, cũng như hầu hết những biểu tượng tôn giáo khác, còn có một giá trị sử dụng khó lượng định hết được: nó giúp chống tia mặt trời (gây ung thư da)...
khí thải ô tô (gây viêm phổi)...
phấn hoa (gây dị ứng)...
khói thuốc thụ động (gây ung thư phổi)...
và bảo vệ da khỏi khô và tóc khỏi xơ.
Dẫn chứng: Hà Nội! Đội quân cướp nhà băng sặc sỡ đang đi tiên phong (và châu Âu hỡi, bạn đừng quên rằng, châu Á luôn hiểu biết hơn bạn, đúng như bấy lâu bạn từng lo sợ!): khẩu trang toàn thân như là mốt thời trang của những nhà vệ sinh sức khỏe cuồng tín. Đột nhiên thế giới Hồi giáo đánh mất biểu tượng độc nhất vô nhị của mình, còn thế giới Thiên chúa giáo cũng mất đi biểu tượng thù địch. Adieu, Clash of Civilizations. (Không phải tôi đang nói đâu nhé, hậu quả của cơn say máy bay đấy!)
Sắp xếp đâu ra đấy, người Việt Nam. Mỗi ngôi nhà là một cửa hàng, mà các cửa hàng thì lại giống như thời tiết. Thống kê cho thấy, dự báo thời tiết chắc chắn nhất là nói rằng thời tiết ngày mai sẽ giống như hôm nay. Dự báo chắc chắn nhất cho công chuyện làm ăn của các cửa hàng ở Việt Nam là: Hãy bán những mặt hàng giống hệt như anh hàng xóm của bạn. Bởi thế mới có phố Hàng Thùng, phố Hàng Cân, phố Hàng Đồng, phố Hàng Khay, phố Hàng Điếu; bởi thế mới có những con phố bán toàn khăn, mũ: phía bên này bán toàn khuy áo, phía bên kia bán toàn cặp tóc. Có phố bán toàn đồ chơi trẻ em, có phố bán toàn nồi cơm điện, có phố bán toàn túi xách. Lại có phố bán toàn mành, và thậm chí (đến đây thì tôi xin hứa sẽ không kể thêm nữa) có phố bán toàn băng dính. Thế mới biết, ngay cả sự hỗn loạn khủng khiếp nhất cũng chỉ là sự thu nhỏ của trật tự mà thôi.
Tôi đã luôn nghĩ rằng, những thứ kitsch[1] Việt Nam vốn chỉ được sản xuất riêng cho thị trường Đức. Tuy nhiên những cửa hàng ở Hà Nội đã giúp tôi hiểu rõ sự thật: Người Đức chúng ta mới chỉ nếm một mẩu kitsch nhỏ của cái bánh kitsch khổng lồ mà thôi. Chẳng hiểu sao tự nhiên tôi thấy nhẹ cả người.
[1] Kitsch nghĩa là kệch cỡm, sáo, giả. Các sản phẩm kitsch được xem là sản phẩm thiếu chiều sâu, sinh ra từ tinh thần và ý thức tầm thường, một loại sản phẩm hạng hai, cố gắng bắt chước bản gốc, chiều theo sở thích của người mua. – BT.
Nỗi sợ làn sóng châu Á. Mới đây tôi có đọc một cuốn sách rất hấp dẫn nói về việc tại sao người Tây Âu luôn nhìn lục địa châu Á như một ổ dịch bệnh. Cuốn sách trước hết phân tích những diễn ngôn của truyền thông đương đại phương Tây, đến nay vẫn luôn miêu tả về cộng sản (Nga-Á), những tên khủng bố (Hồi-Á) và những tên tài phiệt mới nổi (Trung Quốc-châu Á) như những con bọ, những con vi trùng gieo rắc bệnh tật, xâm nhập, đổ bộ vào xã hội phương Tây. Những con vi trùng này lập căn cứ (Al Qaeda) hoặc mở rộng lãnh địa ở châu Âu (“hiểm họa da vàng”). Cuốn sách phân tích tại sao “châu Á tự nó” đối với người châu Âu luôn có gì đó giống như một đàn kiến, rằng tính bầy đàn đã luôn nằm sẵn trong “bản chất châu Á”. Tôi đọc cuốn sách mà cảm thấy nó soi sáng, như thể mình được khai minh, và tôi thấy tự tin hơn với ý thức phê phán bản thân…
…còn bây giờ tôi đang ngồi đây trong một quán ăn ở phố cổ Hà Nội. Chúng tôi đã mất hết hai tiếng đồng hồ tỉ mẩn lựa chọn mới tìm được quán này, bởi chúng tôi không muốn tới một quán ăn chỉ dành cho dân du lịch balô, nhưng nó vẫn phải có một bảng thực đơn bằng tiếng Anh (nếu không, làm sao tôi biết mình ăn thứ gì vào bụng?). Nó đồng thời cũng phải là một quán đông khách (đồ ăn sẽ tươi hơn) và cũng phải sạch sẽ một chút (khi đi qua cửa bếp, bạn nhớ đừng nhìn vào vì đồ ăn thường được chuẩn bị trên nền đất). Cuối cùng chúng tôi cũng tìm được một địa điểm phù hợp và đặt được món ăn mình muốn. Tôi đã cẩn thận nuốt mấy viên thuốc chống tiêu chảy và bây giờ tôi đang săm soi mấy viên đá trong cốc cola của mình (chỉ những viên đá có lỗ ở giữa mới là được sản xuất công nghiệp), tôi lật lật món rau luộc trên đĩa (xem luộc có chín không?), cảnh giác nhấp một ngụm trà (xem nước có nóng già không?), nghi hoặc săm soi cái đĩa ăn (xem có rửa bằng nước máy không?), phân chia mấy món rau quả sống thành từng loại khác nhau (món này chắc phải rửa nước máy rồi), và tự nhủ với trời đất rằng, nhất định tôi phải gọt vỏ món quả…
Bởi vì các loại cẩm nang du lịch, bạn bè và tất cả các chuyên gia về châu Á của phương Tây đều cảnh báo rằng, hiểm họa ở đây không đến từ bão lụt hay căn bệnh viêm phổi do mấy cái máy điều hòa nhiệt độ lạnh cóng gây ra, mà nó đến từ: giun, sán, khuẩn, vi trùng. Chúng sẽ xâm nhập, lây nhiễm, thậm chí sẽ đổ bộ vào cơ thể dân Tây Âu. Chưa kịp lùa đũa ăn vào miệng, tôi đã cảm thấy ruột gan mình đảo lộn hết lên vì sợ.
Hỡi ôi, hỡi tinh thần khai sáng, hỡi ý thức phê phán, về lý thuyết thì các ngươi luôn hấp dẫn đấy, nhưng khi áp dụng vào thực tế thì các ngươi lại khá vô dụng.
Món nem rán, thì ra vị thật của nó là thế này đây. Khắp Berlin bây giờ chỉ còn các nhà hàng, các quầy bán đồ ăn nhanh và dịch vụ cung cấp đồ ăn của người Việt Nam và người Thái Lan – tuy nhiên món nem rán đã được giảm dầu mỡ để dành cho dân Đức sợ béo ở Berlin thì khó có thể coi là món ẩm thực hấp dẫn được.
Bàn bên cạnh, một anh chàng người Mỹ và hai cô gái người Tây Ban Nha. Đúng kiểu nói chuyện ở khách sạn: Anh từ đâu đến, em đi về đâu (tuy nhiên không phải theo nghĩa triết học, mà theo nghĩa địa lý). Rồi sau một lát, chỉ còn anh chàng nói, và nói mỗi chuyện tiền. Một căn hộ chung cư ở Hà Nội giá bao nhiêu tiền, một ngôi nhà ở Hà Nội giá bao nhiêu tiền, một chiếc ôtô ở Hà Nội giá bao nhiêu tiền, mở một cửa hàng ở Hà Nội cần bao nhiêu tiền. Rằng anh ta vừa bị phá sản sạch sành sanh, và bà mẹ anh ta ở Mỹ thì luôn nói: “If you're so smart, why aren't you rich?”[2] Anh ta cứ nhắc đi nhắc lại câu này, hai cô gái Tây Ban Nha thậm chí còn dịch câu đó sang tiếng Tây Ban Nha: “Si eres tan inteligente, ¿por qué no eres rico?” và cũng nhắc đi nhắc lại. Tâm lý của dân Tây ở các nước thế giới thứ hai là: Tiền nằm đầy đường đấy, sao mình lại chỉ giẫm phải xương xẩu? Nếu gã này còn nói thêm một câu nào nữa, tôi sẽ đứng dậy và đấm tay lên bàn. Hay sẽ đấm thẳng vào mặt gã.
[2] “Nếu con thông minh vậy, sao con không giàu nổi?”
Tiền Việt Nam. Tôi không thấy mình smart (lanh lợi sao được giữa cái nóng hầm hập này!), nhưng đổi lại thì tôi rich (giàu): Từ lúc rời quầy rút tiền tự động, tôi đã trở thành triệu phú. Một người Việt Nam có lẽ sẽ không thấy khó chịu vì câu nói của anh chàng Mỹ kia, bởi vì, chúng tôi đã đọc được từ những cuốn cẩm nay du lịch tốt nhất thế giới điều này (tôi nói nghiêm túc đấy): Xã hội Việt Nam đương thời có ba giá trị: Tiền, Giàu, Sung túc, theo đúng thứ tự đó. Ở đây, nếu người ta có tiền, thì người ta cũng sẵn sàng trưng ra, chứ chẳng ai lại nảy ra cái ý tưởng ngớ ngẩn là cảm thấy xấu hổ vì giàu, nhất là khi cái sự giàu chẳng những không khiến anh hàng xóm nghèo kiết xác cạnh nhà bạn căm ghét, mà ngược lại, còn được ngưỡng mộ thành thực. (Đạo Tin lành theo kiểu tư bản châu Á: Tiền là thước đo cho tình yêu Thiên Chúa). Ở ngoài kia, giữa đám giao thông hỗn loạn, đan giữa rừng người và xe máy là những chiếc BMW cáu cạnh, những chiếc Maserati kiêu hãnh, những chiếc Mercedes bệ vệ: những linh vật của thế kỷ hai mốt.
Những chùm dây điện như những con rắn khổng lồ cuộn trên cột…
…tỏa ra các con phố, đôi chỗ búi lại thành những mạng dày che kín cả mặt trời. Như thể đêm đêm có những con nhện khổng lồ bò khắp Hà Nội, dệt cả thành phố thành những mạng nhện dây điện. Đây đó, những chiếc đèn canh gác thản nhiên quẹt qua chúng tôi, những người đi đường.
Những con ma-nơ-canh cầm ô đứng trong tủ kính, những chiếc ghế nhựa chân ngắn tũn…
… và những chiếc chổi cán ngắn cũn cỡn: cứ phải cúi thấp khi quét có dễ chịu không? (Ý tưởng kinh doanh: xuất khẩu cán chổi dài hơn 20 cm, dịch vụ có thể hoạt động bất kể giờ nào.) Trong ngôi nhà thờ nhỏ bên hồ, Chúa Jesus tự ôm mình trên tay.
Đi xích-lô ở độ cao ngang tầm ống bô xe máy: Không khí là bằng chứng mạnh mẽ chống lại sự hô hấp. Đi bộ, chậm như sên, lúc nào cũng như sắp đứt hơi. Với thời tiết hầm hập kiểu này, người ta phải học lại tất cả từ đầu: học đi, học đứng, học ngồi xuống và học đứng lên (đặc biệt là học đứng lên). Tôi cứ thấy người mê man, lúc mệt lúc khỏe. “Luật lệ giao thông của thực tế!”, đột nhiên D. thốt lên, như vậy anh đã tìm ra được một khái niệm thích hợp để miêu tả màn xiếc tập thể trên đường phố Hà Nội.
Món hàng xuất khẩu lớn nhất của văn hóa Tây Âu: đám cưới có cô dâu mặc váy trắng.
Xung quanh Hồ Hoàn Kiếm, từng cặp cô dâu chú rể đứng như ma-nơ-canh, vây quanh là đám thợ ảnh với những đạo cụ lỉnh kỉnh. Thỉnh thoảng họ mới nhúc nhích một chút: nghiêng đầu sang trái một tí nào! Thì đúng rồi, để có cái ngày đẹp nhất trong đời ra ngô ra khoai một chút, người ta phải chịu cực khổ thôi, nhưng có sao đâu, bởi trong cuộc đời này, khoảnh khắc sống chẳng có ý nghĩa gì hết, có chăng chỉ là ký ức được lưu giữ bằng hình ảnh (nhờ kỹ thuật nhiếp ảnh) mà thôi.
Hà Nội trang hoàng giấy màu, đèn lồng và những lẵng hoa cao ngất: 1000 năm, quả là một sự kiện tuyệt vời! 10 ngày lễ hội theo kế hoạch của Chính phủ. Những sân khấu dựng lên. Đèn chiếu, máy phun hơi màu đặt vào vị trí. Những con phố trung tâm chìm trong dải đèn màu nhấp nhánh. Dân chúng chấp hành nghĩa vụ treo cờ: ở khắp các tầng, trước cửa nhà nào cũng treo cờ đỏ sao vàng. Trên những tuyến đường lớn có gắn biển hiệu chỉ dẫn để đoàn diễu binh đi qua. Nhưng ai có thể đến xem diễu binh đây khi mà việc chặn đường sẽ khiến cho giao thông tắc nghẽn và không ai có thể chen chân nổi để vào xem cả? Tối hôm trước, khu trung tâm thành phố đã bị tắc toàn bộ vì người đi xe máy tụ lại ở các ngã tư, rút điện thoại di động ra chụp ảnh những dây đèn sáng treo trên đường. Thì cứ đành vậy thôi, nhìn cảnh này tôi chỉ còn biết thốt lên: Việt Nam vô địch muôn năm!
Ngồi sau yên xe máy đi dạo đêm. Rốt cuộc tôi cũng trở thành một phần của cộng đồng giao thông! Đầu gối tôi chạm vào một anh đi xe đạp và tôi cảm nhận được một sự hòa nhập dễ chịu: một sự hài hòa kỳ diệu khi chúng tôi đi qua một ngã tư tưởng chừng không thể qua nổi – đột nhiên ta hiểu ra tại sao xã hội này hoạt động được và nó hoạt động như thế nào.
Chúng tôi muốn tạt vào một quán ăn, nhưng đám thanh niên chạy xe không ngừng lại: Tháp dân số của Việt Nam không vươn rộng lên phía trên, mà đặc biệt phình to ra ở phía đáy. Tuổi trung bình của người Việt Nam là... 26! Và cái đáy dân số này cứ tối tối lại ngồi lên xe máy lượn quanh thành phố vì ở nhà họ không có không gian riêng tư, còn thành phố lại có quá ít tụ điểm giải trí. Vậy là, luôn chuyển động, hóng gió mát - những cô gái bốt cao, váy ngắn, áo trễ, ngồi tréo chân lịch lãm sau yên xe, được phép ôm chặt những chàng trai cầm lái. Giá như có ai chịu khó mang đến cho giới trẻ ở thành phố Hà Nội đầy tham vọng này một hoạt động vui chơi giải trí nào đó, như disco, bowling, rạp chiếu phim,... – có lẽ người đó sẽ rich, rico(giàu) rất nhanh.
"Họ không quá lo sợ cái chết”...
... chị bạn cầm lái, một người Đức sống ở thành phố này, nói với tôi qua mũ bảo hiểm. Dĩ nhiên, chị ám chỉ những người lái xe máy ở Hà Nội, những người luôn làm tôi kinh ngạc. Có thể chị nói đúng. Bốn người ngồi trên một chiếc xe máy, trong đó có hai đứa trẻ, điều này một phần phản ánh hoàn cảnh kinh tế, song phần khác cũng nói lên thế giới quan của những người này – dù sao chắc chắn đó không phải là một sự mạo hiểm có thể đo đếm được một cách khách quan. Thì cứ nhìn vào người Đức chúng ta đi: người Đức với hệ thống biển chỉ đường dày đặc, với những mặt đường nhựa phẳng lỳ, với những vạch phân luồng thẳng băng. Chúng ta di chuyển êm ru trong những chiếc xe lớn bọc thép chắc chắn bên ngoài, ghế bọc da vững chãi bên trong. Chúng ta di chuyển trật tự, trên những con đường trật tự, qua những thành phố trật tự. Chúng ta được bảo vệ bằng Airbags, bằng ABS, bằng TS. Chúng ta được kiểm soát bằng những máy đo khoảng cách điện tử, những máy bắn tốc độ. Chúng ta buộc chặt trẻ em vào những chiếc ghế dành riêng cho chúng theo đúng chỉ dẫn. Nhưng chính người Đức chúng ta lại sợ vã mồ hôi mỗi khi người ngồi bên cạnh châm thuốc lá, hay một con chó không buộc rọ mõm đi ngang qua. Định mệnh buộc chúng ta sống trong kỷ cương và kiểm soát, cho tới khi một người nào đó trong chúng ta tin rằng mình còn có quyền tự do mạo hiểm... Như thể cái chết là một con thú mà chúng ta có thể nhốt nó trong lồng và chỉ thả nó ra khi một chuyên gia với ba chứng chỉ quốc gia quyết định rằng, thời khắc đó đã đến. Nhưng thực tế lại chứng minh rằng không phải vì trật tự hay kiểm soát mà chúng ta trở nên hạnh phúc hay vừa lòng với cuộc đời hơn. Bởi vậy, có lẽ hàng năm, mỗi chúng ta nên đến Hà Nội để đi xe máy một lần.
Bữa sáng theo kiểu toàn cầu hóa tại khách sạn: súp đậu phụ Nhật Bản và sốt đậu nành, cơm và trứng tráng, kim-chi và bánh kem trứng với mật ong (loại bánh khô khốc như vừa được chuyển tới từ châu Mỹ bằng xe ngựa). Có phải ở đây người ta nêm ít muối khi nấu ăn vì với độ ẩm thế này, muối cũng vón cục cả lại trong hộp không?
Giao tiếp khó khăn với ngôn ngữ toàn cầu hóa, một câu chuyện hai phần với phần tổng kết ở giữa và bài học ở cuối: Tối qua sau khi D. và tôi uống ly cuối ở quầy bar khách sạn, về phòng tắm và thay quần áo ngoài, đang ngậm bàn chải đánh răng trong miệng thì có tiếng gõ cửa. Chúng tôi giật mình: hay là tiếng động ở phòng bên, sau lớp tường mỏng dính? Có tiếng chuông vang lên. Chúng tôi thảng thốt nhìn nhau: hay là tiếng kêu từ cái máy điều hòa? Rồi có tiếng người đằng hắng ngoài cửa: D. súc miệng, với lấy chiếc áo Jack-Wolfskin khoác vào người, đi ra. Tôi núp sau cánh cửa tủ để mở. D. mở cửa. “Good evening”, một giọng đàn ông vang lên. “Foul aim, Sir”.
Tổng kết: Dù có nhiều người Việt Nam nói tiếng Anh thì còn lâu điều đó mới đồng nghĩa với việc bạn hiểu được họ nói gì. Riêng tôi thì khi họ nói tiếng Anh, tôi hiểu còn ít hơn khi họ nói tiếng Việt. Không phải vì tôi biết một từ tiếng Việt nào, mà vì khi nói tiếng Việt thì họ thể hiện ra bằng cử chỉ, còn khi nói tiếng Anh, họ bỏ qua. Lúc chiều tôi đã học được bài học đầu tiên về Vietlish tại một tiệm massage. Tôi đứng cạnh chiếc bàn massage vừa trải ga sạch bong, bên dưới là sàn gỗ sang trọng, phía sau là tiếng nước chảy êm ái, bên trên là tiếng nhạc thư giãn, tôi đã cởi hết quần áo, chỉ khoác một chiếc khăn quanh người và chờ đợi. “Sour fist?”, cô nhân viên massage hỏi với nụ cười thân thiện. Tôi co người lại trong chiếc áo tắm, bấm chặt các ngón chân xuống sàn. Có lẽ vẻ mặt ngẩn tò te vì không hiểu gì của tôi đã lộ hẳn ra, cô gái bình thản nhắc lại: “Sour fist?”, trong khi tôi từ lúng túng, “Sour fist?”, đến tuyệt vọng, “SOUR FIST?”, chuyển sang ngượng chín người. Cô gái nghĩ ngợi một chút và thay đổi chiến thuật - ôi, đúng là một nàng tiên tốt bụng! – “Take a bath?”, cô gái hỏi, trong đầu tôi chợt lóe lên: “Shower first”. Thì ra vậy.
Kết thúc tổng kết. Đứng sau cánh cửa tủ, tôi, với tư cách dịch giả Vietlish đã qua đào tạo, lập tức lóe sáng, trong khi D., trần truồng trong chiếc áo Wolf-Skin, còn đang từ lúng túng, “Foul aim, Sir!”, đến tuyệt vọng “FOUL AIM, SIR!”, rồi chuyển sang ngượng chín người. Lần này, chính tôi được đóng vai nàng tiên tốt bụng sẵn sàng cứu người: “Ông ấy muốn biết tên đầy đủ của anh: Full name, Sir!” Quả nhiên, người đàn ông đưa ra một cái hóa đơn mà D. vừa ký dưới quầy bar. “Tên đầy đủ của tôi ở đây rồi ạ”, D. thầm thì. “Jo A Ei”, người đàn ông nói ngoài cửa, và tôi lại lóe sáng: “Tên đệm của anh! Johannes!” Và đúng vậy, khi D. điền tên đệm Johannes vào đâu đó trên tấm hóa đơn, vị khách của chúng tôi tỏ ra hài lòng và quay đi với lời chúc “You sheep”, và bây giờ thì chúng tôi đã hiểu (“Good sleep”).
Bài học rút ra từ câu chuyện: C&T (Chủ nghĩa Cộng sản Tư bản) là: khi bạn đã phải trả một ly Gin Tonic với giá cắt cổ, bạn vẫn có thể bị dựng dậy giữa đêm chỉ vì một thiếu sót có tính thủ tục hành chính vớ vẩn nào đó.
Lại C&T: hồi ở Trung Quốc, tôi cũng đã không hiểu bằng cách nào đó mà cái công thức C&T dường như hàm nghĩa rằng: Nhà nước và Công dân tách rời nhau. Hệ quả là sự ra đời của hai thế giới song song với sự vắng bóng triệt để của chính trị: Thế giới bên dưới gồm những cá thể hoạt động trong khuôn khổ của một nền vô chính phủ tương đối hòa bình, còn thế giới bên trên là bộ máy quyền lực với nhiệm vụ điều hành các tập đoàn kinh tế. Cả hai đều cảm thấy vui vẻ nếu bên này để cho bên kia được yên. Trong xã hội ấy, con người chuyển đổi từ động vật chính trị sang động vật kinh tế thuần túy, và thoạt nhìn thì cuộc sống diễn ra như thể mọi sự đều hết sức tốt đẹp. Đó là một nhận thức khủng khiếp, nhưng đồng thời cũng mang lại cảm giác yên tâm: cái gánh xiếc chính trị lộn xộn của các nền dân chủ phương Tây, tuy không hẳn tối ưu, nhưng vẫn còn khả dĩ hơn.
Buổi sáng có âm thanh tiếng Việt vang lên trong tủ: Một cô dọn phòng để quên chiếc điện thoại di động giữa những chiếc áo phông.
Câu hỏi: Một: Người ta hút gì với những chiếc ống tre ở quán cóc vỉa hè? Hai: Những chiếc loa đặt giữa ngã tư nói gì? Ba: Những thùng tôn với dòng chữ “Tân Mỹ” hoặc “Sơn Hà” đặt trên những mái nhà đựng gì bên trong? Bốn: Những viên sần sùi có lỗ cháy đỏ lập lòe mà người ta thường chất khắp các vỉa hè là gì?
Phụ nữ nước ngoài được gọi là “Madame”, trong khi đàn ông là “Sir”: Có lẽ ở đây, về phương diện đàn ông, nhà tư bản Mỹ đã đẩy lùi các ông chủ Pháp, trong khi phụ nữ phương Tây vẫn còn dậm chân đâu đó ở thời thuộc địa.
Dưới tàn lá những cành cây bên vỉa hè có treo những chiếc lồng nhỏ: những con chim cảnh bị nhốt cách ly. Cả chó và mèo cũng bị nhốt trong lồng, những chiếc lồng không lớn hơn cơ thể chúng là mấy. Trong vườn bách thú, đôi chim công bị nhốt trong một chiếc cũi với nhiều lớp rào chắn như thể nhà tù, cứ như công là những kẻ tâm thần giết người hàng loạt vậy. Đến nỗi khi bất chợt nghe thấy tiếng ríu rít trên những ngọn cây trong công viên, tôi đã ngả đầu ra sau ngước nhìn lên vì tưởng rằng trên đó cũng treo những chiếc lồng nhỏ, mỗi lồng nhốt một con chim.
Không chỉ ở Hồ Tây, mà ở Hồ Hoàn Kiếm, những con cá cũng bơi ngửa bụng lên trời. Tôi sợ rằng cụ rùa nghìn tuổi sẽ khó lòng hưởng được sinh nhật lần thứ một nghìn, bởi cụ sẽ chết ngạt vì rác của Hà Nội hiện đại.
Nhưng những con chuột béo mũm chạy qua chạy lại trong quán ăn lại tỏ ra khỏe mạnh và phấn chấn: tôi cho rằng đây là một chỉ dấu tốt về chất lượng của quán ăn này.
Một khẩu ngữ mới ra đời: Khi D. trả tiền, tôi nói: “Đi làm cái Johannes của anh đi nhé”, và tôi tưởng tượng ra cảnh một trăm năm sau, người ta sẽ tra cứu nguồn gốc của khẩu ngữ này trong một cuốn từ điển ngữ nghĩa học, ở đó, người ta sẽ bắt gặp D. và tôi trong trang phục nửa trần truồng phía sau cánh cửa hé mở của căn phòng khách sạn.
Dưới con mắt của người Việt Nam, dân Âu chúng tôi không chỉ là những kẻ mũi lõ, nói năng xì xồ, mà còn là những kẻ ngồi dai. Tối nào cũng vậy, chúng tôi là những vị khách cuối cùng ngồi lại trong quán mà không để ý rằng những anh bồi bàn tội nghiệp phải dài cổ đợi, họ chỉ muốn chất luôn chúng tôi cùng những chiếc ghế lên bàn. Việc chúng tôi không tự mình cảm thấy bất lịch sự là điều khiến người Việt Nam thấy lạ.
Lạnh nhạt, bảo thủ và khách khí là tính cách của người miền Bắc Việt Nam, sách cẩm nang du lịch viết như vậy, trong khi ở miền Nam người ta sống cởi mở và nhiệt tình hơn. Cả ẩm thực cũng thế, càng vào trong càng ngon hơn: ẩm thực Hà Nội dở, Huế trung bình, còn Sài Gòn thì tuyệt vời. Hỡi ôi, dốc Bắc-Nam, chúng ta lại gặp nhau ở đây, mà thậm chí còn có điểm rất tương đồng nữa đấy. Ở Đức hay ở Ý, người ta thường miêu tả tính cách của bạn dựa trên thời tiết. Thời tiết tồi sinh ra con người chăm chỉ, kỷ luật, nhưng rầu rĩ và khó tính. Thời tiết tốt sinh ra con người vui vẻ, lười biếng và thích ăn nhậu. Nhưng ở Hà Nội, tháng Mười mà nhiệt độ lên tới 350C ngoài trời – thì phải với nhiệt độ thế nào nữa mới có thể làm tăng thêm thú vui ăn nhậu ở miền Nam? Dù sao, miền Bắc còn có đủ các mùa trong năm (bốn mùa!), còn có cả mùa đông. Phải chăng mùa đông có ảnh hưởng lớn tới vậy lên tính cách con người: Nó hình thành nên cách dân tộc, chia cắt các lãnh thổ, gây ra các cuộc chiến tranh? Dù sao nước Đức cũng chỉ vừa mới quên được mâu thuẫn Đông-Tây thôi, và bức tường thật sự trong đầu người dân không chạy từ Hessen đến Thuerringen, mà chạy từ Bayern đến Friesland.
Nhưng mà, đường xích đạo, nó nằm ở đâu nhỉ? Nghĩ lại, tôi chợt phát hiện rằng mình chưa bao giờ đặt chân đến vùng đất nào nằm phía dưới xích đạo (và Wikipedia biết vì sao: bởi vì loài người chủ yếu đứng trên đỉnh mũ của quả địa cầu) và trong những tuần tới, tôi cũng không muốn thay đổi thực tế này: Sài Gòn (tôi thích gọi Sài Gòn là Sài Gòn!) nằm ở vĩ độ 10 trên xích đạo. Thế còn bên dưới đường xích đạo, người ta phải hiểu dốc Bắc-Nam như thế nào? Ở đó, Bắc sẽ là Nam còn Nam sẽ là Bắc chăng? Vì sao tôi lại nảy ra những câu hỏi ngu ngốc này? Trả lời: Khi đêm khuya bạn biến phòng tắm khách sạn thành phòng hút thuốc lá, bạn vừa hút thuốc vừa uống vodka vừa khoác lác những chuyện khai sáng thế giới, và sáng hôm sau tỉnh dậy sau giấc ngủ vài tiếng trong khí hậu nhiệt đới, đầu đau như búa bổ, rồi sau hai tách cà phê, bạn sẽ nảy ra những suy nghĩ vớ vẩn như vậy về cái dốc Bắc-Nam.
Nhưng mà, hoặc là thời tiết hôm nay mát mẻ hơn hoặc là giao thông yên tĩnh hơn, hay là tôi đã bắt đầu biết cách làm nguội bản thân mình.
Quần soóc. Ở đây quả là một ngoại lệ: người ta không cảm thấy xấu hổ vì da đùi trắng quá. Một chị người Đức sống ở Hà Nội đi nghỉ hè về, cô bạn đồng nghiệp thốt lên: “Ôi khiếp quá, trông chị đen như cột nhà cháy ấy! Hy vọng chị lên cân chứ?”. Ỏ đây người ta phải béo, phải trắng mới là tốt ư? Thế thì chúng ta đổi cho nhau nhé.
Những cái kitsch châu Âu bày ra một cách đáng kinh ngạc trên sạp chợ châu Á: những con cua lớn buộc dây còn ngọ nguậy, những con lươn cuộn tròn trong chậu, những con cá lớn thả trong chậu nước xâm xấp, vừa đủ để chúng không chết. Thực phẩm tươi sống gây cảm giác mạnh. Một cái thủ lợn đủ cả tai mũi, da sọ vén lên như một cái mũ. Cơ man nào là ốc, là rắn. Cơ man nào là thịt. Những cỗ lòng roi rói xếp thành chồng, nhìn giống như những cỗ lòng thật, bởi chúng chính là lòng thật. Và ngay bên cạnh những quầy thịt cá là một quán ăn mà một người châu Âu dù ưa xà xịt như tôi có trả giá nào cũng không dám thử.
Môi trường ở đây vẫn là cái khiến bạn khó chấp nhận hơn cả: Hồ Trúc Bạch có nguy cơ bị ngập rác thải, trên mặt nước, rác vứt tứ tung, nổi lềnh phềnh. Những con rùa khổng lồ sắp chết ngạt bơi ở giữa. Có cả những con cá nhỏ ánh bạc, thịt khá ngon thì phải. Và đây đó quả nhiên có những người đàn ông thả câu trên cái mặt nước ao tù này: miễn bình luận. Còn chúng tôi thì ngồi ngay cạnh đấy, đặt món ăn trưa và nhai nuốt ngon lành nữa chứ: trò này chỉ dành cho những học viên cao cấp.
Bán đảo xung quanh chùa Trấn Quốc: một cỗ pháo hoa màu xanh bất động.
Trả lời: Một: thuốc lào. Hai: ông Vũ lại tái vi phạm luật giao thông, toàn dân phải tích cực phát giác và khai báo hành vi mua bán dâm. Ba: nước. Bốn: than tổ ong để đun bếp.
Câu hỏi số năm: Tại sao tất cả các ban công và sân thượng đều bịt rào sắt?
Bên ngoài khu phố cổ là những khu đô thị mới: Hà Nội đang tự thoát ra khỏi cái ống của mình. Một thành phố mới tinh được dựng lên trong tích tắc lịch sử từ lòng đất: ao chuôm được san lấp bằng vật liệu phế thải, những cao ốc văn phòng dựng đứng mọc lên trong nháy mắt, những đại lộ mênh mông chạy dọc các khu đô thị, những hàng cây trồng thẳng tắp, làm ta liên tưởng tới hình ảnh trong những bộ phim Mỹ. Trung tâm hội nghị Quốc gia mái uốn mới xây, sân vận động Quốc gia 40.000 chỗ ngồi mới xây, khách sạn Grand Plaza 6 sao lấp lánh, mới xây. Những khuôn viên sáng choang rộng mênh mông như cả một khu dân cư - cũng mới xây. Những tòa nhà chung cư bề ngoài trông như những lâu đài cổ, làm từ đá và kính, như thể chúng được tạo ra bởi một đạo diễn phim viễn tưởng. Ai muốn sở hữu một căn hộ ở những khu đô thị mới này sẽ cần cả một bao tiền - không phải tiền đồng, mà là tiền đô. Quả thật tôi không thể tưởng tượng nổi những công trường xây dựng lại khổng lồ đến thế nếu không được chứng kiến tận mắt. Và tôi cứ nhìn mãi một chiếc xe cẩu nhỏ bé với cabin lợp lá cọ.
Những cao ốc tương lai được che chắn bằng tấm lưới màu xanh như bộ da giả nhăn nheo; những ngôi nhà do dân tự xây thì được quấn tấm bạt như bộ pyjama kẻ xọc xanh-trắng-đỏ. Bên trong những cái tổ kén đó, con nhộng-nhà phát triển nhanh chóng thành con bướm màu sặc sỡ. Đây đó giữa những công trường xây dựng, người ta bắt gặp những khoảnh ruộng nhỏ: một vườn chuối hay ruộng lúa bình dị. Những con trâu lững thững đi thành đàn qua đoạn đường chưa xây xong, bình thản giữa dòng xe cộ ồn ào không dứt.
Giữa ngã tư đường cao tốc. Giữa những trung tâm mua bán. Khi tôi chạy trốn vào một ngôi chùa, một quần thể với những tầng mái uốn cong ẩn mình giữa đám phế liệu xây dựng và tiếng ồn công trường, giữa một khu đất lớn, như thể nó còn sót lại từ thể kỷ trước, tôi nhận ra rằng: hóa ra ở đây cũng đang xây dựng. Mà xây thế nào chứ? Trong khi tại chính điện vừa xây xong người ta đã cho làm lễ khánh thành, thì ở gian bên cạnh, công nhân vẫn tiếp tục làm việc, họ trang trí những hoa văn gỗ bằng sơn son thếp vàng. Lập tức tôi nhận ra toàn bộ quy mô của cái kỹ thuật hết sức đặc biệt này: kỹ thuật xây dựng các công trình mới sao cho bề ngoài giống hệt những công trình cổ: Nếu bạn từng đến một cửa hàng đồ gỗ châu Á nhập khẩu, bạn sẽ hiểu tôi muốn nói gì.
Và tôi cũng bị ức chế như vậy: Những khu phố với những ngôi nhà đặc trưng Hà Nội, cao và mỏng, với những lan can con tiện và những cột sơn màu mè, những khu phố sẵn sàng bị dỡ bỏ để xây một con đường mới hay một cao ốc mới, bản thân chúng không phải đã 100 tuổi mà mới chỉ độ 10 tuổi thôi. Cứ xây cao, xây mỏng, xây chồng lên: khác với tuổi thọ của con người, tuổi thọ của các công trình ở đây chẳng có giá trị gì hết.
Thì đúng rồi, ngay cả New York cũng phải được xây dựng ở một thời điểm nào đó, có thể quang cảnh ở đấy cũng giống như thế này thôi. Dĩ nhiên mọi người đều biết tới bức ảnh nổi tiếng có ba anh công nhân ngồi trên dàn giáo cao vút khi New York được xây dựng. Đối với người châu Âu, sự ra đời của một thành phố luôn là một sự kiện có tính lịch sử, bởi vậy người ta thường đọc về nó, còn người Mỹ thì lại thích mua những postcard về sự kiện ấy. Nhưng người ta không được trải nghiệm trực tiếp, không được chứng kiến tận mắt. Người ta cứ tưởng kiến trúc châu Âu là cái đã luôn sẵn có rồi. Còn ở đây, người ta được trải nghiệm sự sinh nở của một thành phố và trông nó thật đáng sợ. Không cần nhiều lời, những công trường xây dựng này kể cho chúng ta câu chuyện rằng những tòa nhà tráng lệ, ở thời nào cũng vậy, luôn được xây dựng sau lưng số đông. Rằng chúng nuốt trọn những cánh đồng, những đàn trâu, những nông trường. Chúng lùa người nông dân ra khỏi nơi cư ngụ của họ. Chúng huy động đến hàng vạn nhân công rẻ mạt. Vậy ai sẽ là những triệu phú trăm nghìn đô, ai sẽ dọn vào sống trong những khu đô thị nhân tạo xa xỉ này? Trả lời: Chính cái công trường khổng lồ này sẽ sinh ra lợi nhuận và tạo ra những ông chủ sở hữu cho nó. Những ông chủ sẽ xuất hiện ngay khi công trình được xây dựng xong.
Một cơn mưa bất chợt đổ xuống dòng xe chạy: những chiếc xe chạy dưới những cây cầu vượt tương lai và dưới những đường hầm tương lai. Đột nhiên chỉ còn những chiếc ôtô lăn bánh trên những con đường tương lai, và đột nhiên: những con đường tương lai ngập nước tới đầu gối. Liệu tương lai có tính tới hệ thống thoát nước ở đây không?
Trên cầu Long Biên, xe chạy bên lề trái: một con đường toàn xe máy, mà có lẽ không ai lý giải được tại sao luật giao thông nước Anh lại được áp dụng ở đây.
Ở giữa là một đường ray xe lửa kinh khủng được chắn lưới. Giống như tháp Eiffel nằm ngang. Tôi đi bộ ba kilômét dọc cái kiến trúc Eiffel bằng thép này. Bên dưới, sông Hồng chảy, ở giữa, một bãi nổi với những ruộng lúa, những người đàn ông đội mũ cối, những người đàn bà lưng tròn nón lá cặm cụi trồng cấy, trong khi tuổi trẻ Hà Nội lao xe máy vù vù ở bên trên. Bên dưới kia dường như người ta không hề biết rằng chỉ cách đó vài kilômét, Hà Nội đang xây dựng một linh hồn mới. Thì người ta còn có thể làm gì đây: cứ trồng lúa và thu hoạch, và chờ đợi một ngày kia những tòa nhà cao tầng xuất hiện. Tôi trở về khách sạn, kéo chăn kín đầu. Giấc ngủ sẽ kéo tôi đi và giúp tôi hồi phục qua đêm.
Sau ba ngày ở Hà Nội, chỉ muốn lao ra khỏi thành phố, muốn chạy trốn tiếng ồn và không khí ô nhiễm, muốn về nông thôn.
Những nghĩa địa và công trường xây dựng: Những ngôi nhà dành cho người chết không chỉ đẹp hơn mà còn chắc chắn hơn hẳn, che mưa tốt hơn những túp lều dựng tạm của công nhân xây dựng. Ngay cả khi đã đi khỏi thành phố 20 kilômét, Hà Nội vẫn không ngừng xây dựng: không phải những tòa nhà cao tầng mà là những ngôi nhà dân tự xây, mà đa số đều có gu thẩm mỹ một cách bất ngờ. Có lẽ người ta nên tập trung tất cả kiến trúc sư của Đức lại để đưa tới Việt Nam tập huấn vài tháng. Ở đây, họ có thể tìm hiểu, bằng cách nào người ta có thể xây cất mới mà vẫn hợp lý đâu ra đấy. Có lẽ những kiến trúc sư của chúng ta phải cứng họng vì không thể hiểu được tại sao ở cái đất nước nhìn chung nghèo hơn Đức rất nhiều, nhưng giá đất vẫn cao khủng khiếp, và người ta vẫn có thể bằng mọi cách mua được đất và xây được nhà.
Ngọn đồi đầu tiên: Những dãy núi đá dựng đứng trên cánh đồng bằng phẳng như từ trên trời rơi xuống, trên vách núi là màu xanh tươi rói. Nhưng ở đây, thiên nhiên tươi đẹp không có nghĩa là người ta không vứt rác ra đó.
Đường cao tốc: Những con bò đi lững thững giữa vạch kẻ phân luồng, và ở những đoạn rẽ, người ta thường bắt gặp một chiếc xe máy hồn nhiên đi ngược chiều vì tin rằng đi sai như vậy sẽ quay đầu nhanh hơn. Mặc dù sợ đi máy bay, nhưng tôi lại cho phép mình ngồi ôtô không buộc dây an toàn trên đường cao tốc Việt Nam. Thì tôi đã bao giờ nói rằng mọi sự đều tuân theo logic đâu.
Bể bơi với ván nhảy, bên cạnh đặt một chiếc xe tăng xích sắt. Một chiếc xe tải chở đầy lồng gà: lại đồ tươi sống. Ngay trước những dãy núi xa xa là một quần thể sân golf khổng lồ 45 lỗ dưới những hàng dừa: Bên đường là những quầy bán những viên đủ màu lấp lánh làm từ những quả bóng màu trắng: “What this?”, người hướng dẫn du lịch hỏi, và chúng tôi đã phải tử tế giả vờ trả lời anh ta rằng: “trứng gà”, để anh ta được dịp mừng rỡ đáp lại: “No, golf balls!”. Cùng với việc bán bóng golf, để tăng thu nhập, người ta còn bán cả những bức tượng hoành tráng làm từ đá cẩm thạch đủ hình thù; và còn có cả những bức tượng kỳ dị làm từ rễ cây gỗ lão mài nhẵn, đánh bóng, mà chỉ cần thấm mệt, hoặc nhấp chút rượu, chút ma túy, hay chỉ với một chút tưởng tượng, bạn sẽ liên tưởng ra bất kỳ hình dạng nào: những con thú kỳ ảo hay những phụ nữ khỏa thân.
Nghỉ cà phê bên đường: một chiếc bàn bóng bàn, một con rắn hổ mang ngâm trong bình thủy tinh (một thứ thuốc bổ dương, như tất cả đồ ngâm rượu của người Việt Nam), một con thạch sùng lười nhác chẳng muốn bắt ruồi. Từ từ, chầm chậm, tôi cũng dần hiểu ra cái cảm giác Apocalypse-Now là thế nào: những người châu Âu uể oải nằm dài dưới quạt, không động lực, không ý nghĩa, gần như không còn ý thức bản thân: Nếu người hướng dẫn du lịch không gọi, có lẽ tôi sẽ ngồi đây cả giờ, dưới bóng râm, vô tư lự nhìn ra phong cảnh phía xa, giới hạn các hoạt động trí não ở mức thấp nhất.
Có tai nạn. Công an dựng rào chắn giữa con đường núi ngoằn ngoèo để đo khoảng cách giữa vạch phân cách với các đồ vật văng ra: một chiếc xe máy ngã sóng xoài, một chiếc giày thể thao duy nhất, một chiếc mũ bảo hiểm lưỡi trai màu trắng xanh, vỡ vụn như vỏ trứng.
Không phải dân đi ôtô. Có lẽ nên nói thế này: tôi là một người Đức được sinh ra và nuôi nấng bằng tiếng chuyển côn xe hơi chính xác như trẻ em quen với sữa mẹ vậy. Thế nên khi anh tài xế của chúng tôi mắm môi mắm lợi, cứ để nguyên số 4 mà vượt dốc 12 độ, thì tôi thật sự không còn giữ nổi bình tĩnh nữa.
Không có ôtô. Lần đầu tiên trong đời tôi đến một vùng đất gần như không có ôtô. Thỉnh thoảng mới có một chiếc xe tải đậu bên lề đường, đôi chỗ có xe máy. Còn thì cơ man là xe đạp: học sinh trung học mặc áo xanh quần trắng, những em gái buộc tóc đuôi gà, có em thả tóc dài tới eo.
Một thiên đường thu nhỏ: Những thung lũng hẹp và dựng đứng, bên dưới là đồng lúa, phía trên những vách đá là rừng cọ, bầu trời xanh như cái nắp úp phía trên, cảnh vật lung linh rực rỡ tắm trong ánh mặt trời vô tình. .
Những ngôi làng vây quanh thung lũng: những ngôi nhà sàn cho thuê, những ao cá, những cái máng lợn, những con trâu giương sừng nghênh ngang. Vô số cún nhỏ xinh xắn, như thể chúng có chung một ông bố vậy. Chúng đều béo tốt, tươi rói, khỏe mạnh. Tuy nhiên chắn chắn chúng không phải là những con vật được nuôi để âu yếm, ôm ấp – tôi chưa nhìn thấy một người Việt Nam nào vuốt ve chó. Nuôi để bắt chuột thì chúng quá lười, còn để canh nhà thì chúng lại quá đáng yêu, chúng cứ nằm dài cả ngày trong bóng râm: thử nói xem, chúng mày đều được nuôi để lấy thịt hay sao?
Nào ngỗng, nào vịt, nào gà, nào lợn. Nào ngỗng con, vịt con, gà con, lợn con: tất cả đều chạy nhảy tung tăng hòa nhã. Tung tăng hòa nhã với nhau, và tung tăng hòa nhã bên nhau.
... Quả là một thiên đường bị Chúa bỏ rơi: Người dân nơi đây hẳn phải nghèo lắm, khi mùa đông đến, hẳn họ phải chịu đói rét (Dân Âu sẽ nghĩ thế, bởi họ thích vận dụng phép biện chứng, hay ý thức hệ tư bản - dân chủ. Theo đó, người ta không thể sống no đủ nếu thiếu sản xuất công nghiệp). Nhưng ở đây thì không, người hướng dẫn du lịch nói, thung lũng này cung cấp đủ thức ăn cho mọi người, còn mùa đông thì không ai phải chịu rét, vì nhiệt độ không bao giờ xuống dưới 100C.
Theo nguyên tắc sắp xếp truyền thống của người Việt Nam, một (chỉ một!) ngôi làng đã chuyển đổi hoàn toàn thành một khu nhà trọ: Các gia đình đã sắp xếp lại căn nhà sàn của mình để dành ra một gian phòng lớn, không có đồ gỗ, cho khách (chúng ta nhìn những tấm thảm màu và những chiếc gối mềm rồi ngạc nhiên tự hỏi: cả nghìn năm qua chúng ta cần đến đồ gỗ để làm gì?)...
… và bán những tấm khăn lụa sặc sỡ: đặc trưng của các dân tộc miền núi. Những tấm khăn lụa khiến dân Đức cảm thấy bị chọc giận, bởi họ lại cảm thấy bị đối xử như dân du lịch: Chúng tôi không mua gì cả, chỉ thích đi dạo quanh những ngôi làng chìm giữa thiên nhiên, nhìn những người nông dân trồng lúa…
… nhìn những người thợ gạch đun lò, nhìn những con trâu đang cày ruộng, những con lợn đang ngủ và những con gà sống cuộc đời vô tư lự của những con gà (cũng không hẳn là một công việc tồi tệ nhất: đơn giản là sống để chờ cái chết).
Tôi tích vào bảng thống kê 10 điểm: Yên tĩnh và hòa nhã? Rất nhiều. Những người dân vui vẻ? Chấp nhận được. Những con vật hạnh phúc? Không thể tin được, nhưng lại là sự thật (và một lần nữa, điều này chứng minh rằng những con vật sẽ không hề gây hấn với nhau nếu con người không can thiệp vào).
Nước sạch? Đúng vậy, nước mạch đấy, mùa hè mát, mùa đông ấm. Lò sưởi? Không cần thiết, quần áo ấm là đủ. Điện thoại? Có. Điện? Có. Internet? Nào, nghe mà ngạc nhiên đi nhé, hỡi Cộng hòa Liên bang Đức: giữa vùng núi Việt Nam hẻo lánh này cũng có internet! (Khác hẳn với bang Brandenburg, nơi mà người ta vẫn truy cập internet qua modem điện thoại và phải đợi cả tiếng đồng hồ để tải một file PDF nào đó. Nguyên nhân là ở Đức người ta đầu tư cơ sở hạ tầng cho một “khu vực kinh tế” thay vì cho nhu cầu người sử dụng). Một bưu điện để nhận bưu kiện của Amazon? Khả quan. Nhà trẻ, trường tiểu học, trường trung học? Có. Cảm giác ấm áp tình người? Rõ ràng. Câu trả lời là 10 trên 10: Tôi hoàn toàn có thể sống ở đây. Và có lẽ tôi sẽ là người duy nhất ở thung lũng này sở hữu một món đồ gỗ: cái bàn viết.
Có những con bướm to như cáiđĩa, phát ra thứ ánh sáng màu xanh lấp lánh. Ngoài ra, thật lạ là ở đây không hề có loại động vật hay côn trùng nguy hiểm nào: Tôi chỉ nhìn thấy một con rắn mòng ở trong một hố nước, một con thạch sùng mắc kẹt trong một ổ đèn đường, mấy con ruồi vàng và mấy con muỗi – thế thôi. Không có con hoẵng nào, không cò, không vạc, không thỏ, không ong; và bên vệ đường cũng không có con cáo nào chạy qua, không chồn, không nhím như người ta thường thấy ở Đức. Cũng không hề có một con nhện nào (may cho tôi). “Chất độc da cam”, D. nói - đơn giản là anh đã xem quá nhiều phim về chiến tranh Việt Nam. Những con vật đâu cả rồi? Di cư? Bị làm thịt? Hay bị tuyệt chủng như loài hổ (chúng là lý do khiến người ta phải xây nhà sàn)? Ngay cả những chòi canh nhỏ xíu dựng trên các ao cá cũng luôn phải có một người trong gia đình ở để canh, nhưng không phải để canh động vật (cò), mà để canh người (kẻ trộm).
... Thay vào đó là đám trẻ con lóc nhóc, và đây quả là một hiện tượng: Trong khi ở Đức, trẻ con thường được nhìn như những quảng cáo bao cao su thuần túy, bởi vì ở chốn công cộng, người ta thường thấy chúng cau có, càu nhàu, khó chịu, thì ở đây (không chỉ ở Mai Châu, mà ở Hà Nội cũng thế), đâu đâu người ta cũng thấy những em bé ẵm ngửa mỉm cười, những cô bé, cậu bé vui vẻ, hăm hở với những trò chơi đầy bí ẩn của chúng; những đứa bé như những chú khỉ con ngồi ngay ngắn giữa bố và mẹ trên yên xe - một sự ngoan ngoãn kỳ diệu đáng khen ngợi. Phải chăng vì ở đây không có những chiếc nôi đẩy, hay những xe nôi bọc thép như xe quân sự dành cho các em bé? Phải chăng trẻ em không bị buộc phải đi ngủ lúc 8 giờ? Trẻ em ở đây không bị coi là nguyên nhân của khủng hoảng hiện tại, hay giải pháp tương lai, mà đơn giản, trẻ em là một phần của cuộc sống. Điều này nghe giống như một kiểu kitsch trở-về-thiên-nhiên hay sống-đời-đơn-giản. Vâng, nhưng sự thật vẫn là sự thật, tôi rất tiếc phải nói như vậy. Còn cảm nhận thế nào thì tùy khẩu vị từng người.
Sau một đêm ngủ dưới mùng chắn muỗi, cái mùng đã để lọt những con muỗi to nhất (tôi không sợ bệnh sốt rét, tôi KHÔNG sợ bệnh sốt rét), tôi ngồi nhìn mưa rơi: những ngọn núi nổi sấm chớp, bầu trời trở nên nhẹ hơn, điện bị ngắt. Buổi tối tôi nằm mơ về chuyện gia đình chủ nhà cho chúng tôi ở trọ đã phải xoay sở với cái phòng ngủ bé xíu của họ như thế nào cho lọt hết chừng đó người, họ nói cười, họ trò chuyện với chúng tôi, và rồi họ ngồi xuống và chuẩn bị bữa sáng ngay cạnh giường ngủ. Có lẽ đây là nơi có thừa sự lãng mạng tập thể với những ngôi nhà gần như để cửa mở cả ngày, nơi người này có thể nhìn người kia làm mọi việc. Đêm đó D. đã nằm mơ bằng tiếng Việt và không hiểu một từ nào cả.
Tại sao tất cả các loại nước sạch nếu không là Nestlé thì là Pepsi? Ngày trước ở đây người ta chỉ uống nước chè thôi hay sao? Hay chủ nghĩa tư bản đã đánh thuốc độc tất cả các nguồn nước máy rồi gom nước sạch đóng chai để bán?
Trên thực tế, lòng mến khách của người Việt Nam thường được ca ngợi trong các cuốn cẩm nang du lịch chẳng thể hiện ra chút nào (nhưng người ta cứ tin cẩm nang du lịch, thì nước nào mà chẳng mến khách, trừ nước Đức). Chắc chắn cái công thức: du lịch = con bò sữa có lẽ cũng cổ xưa như lịch sử loài người vậy, ngay cả khi bạn tới một nhà khách ở Đức đi nữa thì chuyện chủ nhà ra mời khách một tách trà hay hỏi han dăm ba câu “How do you do?” cũng là chuyện bình thường. Nhưng ở đây, người ta chỉ nói chuyện với chúng tôi khi họ muốn chỉ dẫn một điều gì đó (chốt cửa sổ và khóa cửa nhà vào buổi tối, có lẽ là để chống bọn trộm cá) hoặc khi họ muốn bán một món đồ nào đó (“Sssopping”, “Daughter Dancing, five hundred thousand”, “Bia”, “Coca”). Đồ ăn thì rất ngon, nhưng tính toán chi li đâu ra đấy, và khi đi chúng tôi mới ngớ ra rằng nước uống mà chúng tôi dùng khi ăn cũng phải trả tiền riêng. Một tách cà phê sáng được miễn phí. Thôi thì như thế ít ra người ta cũng hiểu rằng, những nhà khách cho thuê bóng loáng này trước kia từng là nhà sàn truyền thống, thơ mộng như thế nào.
Ý thức khai sáng và ý thức phê phán đong đưa. Đã là ngày thứ sáu tôi có vấn đề về tiêu hóa, như thể dạ dày của tôi đã biến thành một nhà máy sản xuất nước bẩn vậy. Tôi cảm thấy giận giữ với cơ thể mình: ba ngày nôn nao để thích nghi thì còn được, nhưng đến mức này thì cơ thể tôi đúng là một tên nội gián phản bội mất rồi, và nó cần bị trừng trị đích đáng. Và bởi vì người ta không thể dừng việc tiêu hóa của bản thân lại, tôi đã trừng phạt sự bất tuân của cơ thể bằng hai cốc chè xanh (nấu từ lá chè tươi, rất đậm đà) ở một quán ven đường, ông chủ quán nói “mình đều là anh em” và chạm cốc với tôi. Từ 22 giờ, tôi bị đánh trả: bắt đầu sốt cao. Từ 23 giờ, co giật, từ 24 giờ, loạn nhịp tim và mồ hôi vã đầm đìa như tắm khắp người. Tôi nằm hàng giờ trên giường lạnh, không có đệm để thay, không có chăn khô để đắp ấm và tôi không biết mình sẽ thế nào nữa.
Cứ nửa giờ lại cặp nhiệt độ, nếu sốt trên 39 độ, tôi sẽ gọi cấp cứu. Tôi đã nghe kể về điều kiện ở những bệnh viện Việt Nam: Người ta phải bỏ nhiều tiền hối lộ để được một chỗ nằm trên nền đất bên cạnh hàng chục bệnh nhân khác; người ta cần bà con để chăm sóc ăn uống; phải hối lộ y tá để được đưa đi chụp X-quang; còn bác sĩ thì đằng nào cũng ăn hối lộ rồi nói rằng ông ta không có đủ điều kiện máy móc cũng như trình độ kiến thức để chữa trị. Các nhà thuốc ở thành phố có bán các loại thuốc viên như ở Tây Âu; các hiệu thuốc truyền thống thì bán thảo dược, người ta có thể tự chữa đủ loại bệnh từ răng lợi cho tới thận; ở phòng trong, bác sĩ đông y có thể bắt mạch, quan sát sắc diện và nhìn lưỡi để kê đơn. Khi hình dung ra những cảnh đó, tôi không biết mình bị loạn nhịp tim là do sốt hay do hoảng sợ nữa. Chẳng có gì lạ khi mỗi lần chia tay, người Việt Nam thường chúc nhau sức khỏe cho cả gia đình. Tôi trìu mến nhớ về hệ thống y tế già cỗi của nước Đức, nghĩ tới cái thẻ bảo hiểm BARMER, và nghĩ về cái bệnh viện nhỏ sạch sẽ ở Brandenburg của mình. Một mẹo cũ: Hãy ra nước ngoài, nếu bạn muốn học yêu chính đất nước bình.
Sau một đêm mất ngủ tôi cảm thấy bợt bạt cả người và tự hứa với cơ thể mình: tôi sẽ không bao giờ gọi nó là tên phản bội nữa, mà tôi sẽ kính trọng và chăm sóc nó, nếu nó không bắt tôi bỏ dở chuyến đi này trước khi kịp bắt đầu. Người hướng dẫn du lịch tốt nhất thế giới đã kiếm cho tôi một liều thuốc giúp giảm sốt trong vòng 30 phút. (Chú ý, chúng tôi tạm dừng chương trình này cho một quảng cáo ngắn: Christian Oster – ai tới đây mà không liên hệ với anh thì là lỗi của người ấy.) Và một lời khen gấp ba dành cho ngành công nghiệp dược phẩm, với điều kiện người ta có thể đủ tiền mua thuốc của nó.
Chúng tôi có lẽ đã quá lạc quan khi nghĩ rằng, ngay ngày kia mình đã có thể đi Vịnh Hạ Long. Chiếc xe bus lắc lư chở chúng tôi cùng 12 khách du lịch khác (chúng tôi đã đặt xe này trước khi biết Christian Oster) dừng lại cho khách nghỉ đi tiểu tại một cửa hàng lưu niệm, như thể ở một nơi chốn siêu thực nào đó: cửa hàng rộng mênh mông như một ngôi chợ bán đồ xây dựng, sân trước đặt toàn tượng: một bức tượng Phật bằng đá có lẽ cao tới 3 mét, nặng tới cả 10 tấn – đây là đồ lưu niệm mua cho người thân chăng? Phía trong, ngay sau cửa ra vào: 50 đứa trẻ tàn tật ngồi thành hàng trên ghế, với những cánh tay run rẩy, đang làm một bức tranh thêu rao bán rộng tới 3 mét đặt trong một cái khung hoành tráng: phía trước những đứa trẻ tàn tật đặt một thùng kính lớn để khách bỏ tiền từ thiện: Có phải tôi đang nhìn tận mắt cảnh tượng này hay không, hay tôi đang ở trong một bệnh viện tâm thần? Phải chăng ở đây, lao động trẻ em đang núp dưới mác từ thiện, khoác áo các dự án cứu trợ? Tôi đi tiếp mươi bước nữa, rồi tay tôi trở nên cứng đơ như nó muốn buông xuôi vậy; đầu tôi căng cứng, mắt tôi hoa lên: tôi phải biến ngay khỏi đây thôi. Tôi ngồi lên một chiếc ghế đá lạnh, thở sâu. May mà tôi còn chưa đến mức phát sốt, nhưng cảm giác thì quá lợm giọng. Và tôi lại chui tọt trở vào cái xe bus tròng trành.
Cứ 30 phút tôi lại bị tụt huyết áp, nhưng dù sao thì bây giờ chúng tôi cũng đến Hạ Long rồi: ít nhất tôi cũng sẽ đi một tour bốn tiếng không qua đêm trên thuyền. Một ngọn núi dựng đứng trên mặt nước:
Mắt tôi nhìn và đầu tôi hiểu: đây hẳn là một nơi chốn tinh thần với một sức mạnh thần linh, và nếu chỉ có một mình tôi, chỉ mình tôi giữa trời nước và mây núi – có lẽ tôi sẽ sụp xuống mà rưng rưng cảm ơn tạo hóa đã cho tôi được có mặt ở đây.
Nhưng thật trớ trêu là ngoài tôi, còn có vài người khác cũng muốn chiêm ngưỡng di tích thiên nhiên được UNESCO công nhận này…
… khu di tích thậm chí còn đang muốn được bầu chọn là kỳ quan thứ bảy của thế giới trên internet.
Tôi biết: ta không có quyền ghét người khác chỉ vì họ thích những điều mà chính ta cũng thích. Cái đẹp là cái không thể tư hữu hóa được (và tôi nghe như văng vẳng giọng hát buồn của Marlene Dietrich: Cái đẹp chỉ dành cho một người chiêm ngưỡng thôi sao? Mặt trời và những ngôi sao là của chung tất cả mọi người…) Nhưng hỡi ôi, cái đẹp thần thánh này đâu có dành cho những chuồng trại, cho đám du khách xếp hàng như những con bò đi lên những chiếc thuyền du lịch – bởi vì những con bò, như tôi nhận thấy, khi mà giờ đây chính tôi cũng là một con trong số đó, không có cảm nhận tinh thần. Trước kỳ quan thiên nhiên này, nó chỉ biết ngồi đần ra đấy và nghĩ tới việc tiêu hóa của nó mà thôi.
Thuyền du lịch tắc nghẽn trước cửa động: dù sao đây cũng là thuyền hai tầng bằng gỗ chứ không phải bằng nhựa. D. và tôi không đồng quan điểm: thuyền làm bằng gỗ là dấu hiệu của cái nghèo hay của gu thẩm mỹ tốt? Ồ, nhưng chúng lại bấm còi: tất nhiên rồi, tại sao người ta phải làm một việc ngoại lệ, chỉ vì thuyền không có bánh như xe máy?
Một ngôi làng nhỏ bập bềnh: người ta ghép những chiếc thùng rỗng lại và dựng nhà lên trên. Những chiếc thuyền du lịch dừng lại bên làng để thuê xuồng máy hoặc mua đồ lưu niệm, quả là một bức tranh xúc động theo một nghĩa nào đấy.
Bên cạnh, những người đánh cá đang gỡ lưới (không phải cho khách du lịch xem, mà đơn giản là họ đang làm việc), cũng giống như ở Mai Châu, giữa nơi hoàn toàn không có khí thải này, những người đàn bà vẫn đeo khẩu trang. Liệu đây có phải là một mốt thời trang đô thị giữa môi trường độc hại không, hay chỉ là một cách chống nắng (nắng giữa biển vẫn không kém phần độc hại?).
Vì tôi chỉ có thể ngồi nên tôi có thời gian nghĩ ngợi, và tôi nhận ra rằng, nhóm du lịch của chúng tôi là một nhóm tứ xứ như thế nào: vậy cũng đáng để lập ra một danh sách với nhan đề: “Những cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên trên một chiếc thuyền ở miền Bắc Việt Nam”:
- Một gã trẻ Hàn Quốc du lịch một mình, miệng luôn cười cười, trong khi mắt thì đảo như lạc rang tìm kiếm một ả gái Âu nào đó phù hợp;
- Một gia đình Hồng Kông: người đàn ông đẹp trai độ tuổi 40 với ông bố, bà mẹ già và một ông cậu với bộ tóc tay chơi kiểu Jimi Hendrix, tất cả đều có dáng vẻ lọc lõi của dân du lịch đẳng cấp quốc tế: xăng-đan Trekking, áo khoác Jack-Wolfskin;
- Hai gã Canada với những cái bụng phệ và những hình xăm rẻ tiền, quần đùi áo cộc lăng xăng đi lại, và cứ đúng trưa 12 giờ lại mở lon bia đầu tiên trong ngày;
- Một cặp vợ chồng Hà Lan: cũng giống như tôi, anh chồng chỉ ăn bữa trưa với cơm và đậu phụ và khổ sở nhìn phong cảnh: ngộ độc thực phẩm;
- Ba cô nàng New Zealand, mấy cô ả đã làm tôi gần phát rồ khi vừa bước lên xe bus đã oang oang nào là “You know, it’s like…” và “And he goes: What? And then she’s like: Oh my God!”;
- Một cô nhà văn người Đức với chứng rối loạn tiêu hóa và huyết áp, ngồi lỳ trong bóng râm và hý hoáy ghi chép vào cuốn sổ màu đen của mình, trong khi anh chồng thì cứ lát lát lại chụp ảnh và đưa chai nước cho cô;
- Hai cô gái trẻ, một từ Nuernberg, một từ Dresden; hai cô du lịch Đông Nam Á một mình từ vài tháng nay, họ làm quen nhau qua Facebook khi đang trên đường và hẹn nhau ở Bangkok rằng sẽ cùng du lịch dọc Việt Nam: “Để xem chúng tôi sẽ làm gì trong những tuần tới”, cứ như thể việc ngao du quên ngày tháng ở tuổi hai mươi là chuyện bình thường nhất thế giới vậy;
- Một cặp vợ chồng Đan Mạch với hai đứa con nuôi Việt Nam: họ đã đến Việt Nam hai lần với khoảng cách 3 năm để đón hai đứa trẻ; bây giờ thì đứa con gái đã 8 tuổi, còn đứa con trai 5 tuổi. Đây là lần đầu tiên họ du lịch cùng nhau dọc quê hương những đứa con của họ. Tất nhiên cả hai đứa trẻ chỉ nói tiếng Đan Mạch: những vị khách du lịch tí hon trên chính quê hương mình.
“What’s her name?”, anh hướng dẫn du lịch người Việt Nam hỏi, ám chỉ cô bé Việt kiều Đan Mạch. “Cháu là Liên”, bà mẹ trả lời, và người hướng dẫn du lịch vui vẻ: “That means Lotus, what a beautiful name!”, Và tiếp: “What’s his name?”, anh ta chỉ cậu bé 5 tuổi. “Cháu là Hoa”, bà mẹ nói, và người hướng dẫn du lịch hỏi tiếp: “Hoa or Hòa?”. Tất cả đều lúng túng, và tất cả đều bật cười. Người hướng dẫn du lịch trao đổi bằng tiếng Việt với anh bạn đồng nghiệp; một lát sau, câu trả lời chung mà hai người cùng đưa ra là: “We think, his name can’t be ‘Hoa’, because ‘Hoa’ means ‘Flower’, and that’s only for girls. It must be ‘Hòa’, wich means Peace.” Bà mẹ chuyển tiếp thông tin cho cậu bé: “Fred, dit navn er Fred”, và cậu bé ôm chầm lấy chân mẹ, giấu đầu vào ống quần mẹ.
Cảm giác như cưỡi xe máy với tốc độ 120 kilimet một giờ trên cánh đồng khoai tây băng giá: Chuyến đi về bằng xuồng máy gây cảm giác rờn rợn thú vị, vì vậy rốt cuộc tôi cũng có được vài giờ vui vẻ. Như ở trên một chiếc đĩa nhựa, chúng tôi nhảy cao hàng mét trên mặt sóng và đáp mạnh xuống nước, một tay buộc chặt vào thanh chắn còn tay kia giữ ba lô đựng đồ đạc, bị sóng đánh văng đi và bị quay cho ra trò, nhưng mà - hoan hô! - chúng tôi vẫn còn sống. Nếu không phải nghĩ tới những chuyện khó chịu sắp tới thì Việt Nam quả là đất nước đẹp nhất thế giới.
Giải phóng phụ nữ theo kiểu Việt Nam: đàn bà làm việc…
… còn đàn ông ngồi chơi bài và hút thuốc lào vặt. Dọc những con phố tối của Hà Nội, những người đàn bà chở rác và quét đường; đàn bà gánh gồng đồ đạc từ chợ về nhà, nhìn họ như những xe hàng biết chạy: Họ chất đồ đầy vào những cái thúng lớn và dùng đòn gánh gánh trên vai. Còn những người đàn ông chẳng mang vác gì ngoài những cái móng tay của họ, và những cái móng tay thì thôi rồi, đôi khi dài như móng tay của những cô ca sĩ điệu chảy nước. Để đáp lại truyền thống Khổng giáo một cách rõ ràng: ở Đức tôi cũng chẳng bao giờ động đậy một cái móng tay nào cho việc nhà.
Thêm một mộng tưởng đêm khuya nữa: Có lẽ chúng tôi nên mở một hộp đêm ở Hà Nội, một hộp đêm đẳng cấp ngang những hộp đêm ở New York, London, Warsaw hay Berlin. Cả bên trong lẫn bên ngoài, nhất là quầy bar và ghế bar, đều làm bằng bê-tông. Ngoài ra, sẽ có rất ít chỗ ngồi; thay vào đó, sẽ là một sàn nhảy sáng trưng, tất nhiên sẽ có sân khấu dành cho các tiết mục live. Tại cái hầm đêm này, chúng tôi sẽ chỉ cho đám con cháu của những người mới phất ở Hà Nội biết đời sống thật sự là thế nào, cái đời sống mà chúng đang tìm kiếm một cách tuyệt vọng khi rong ruổi xe máy vô mục đích quanh thành phố, ăn mặc như những con búp bê thời trang trong tạp chí mốt Otto: bởi vì làn sóng hậu hiện đại còn chưa xuất hiện ở đây để giải thích cho chúng hiểu rằng, mốt của thế kỉ 21 là những chiếc quần bò rách, những chiếc quần có giá trị gấp ba lần những cái túi xách hiệu Gucci. Đến nay vẫn còn chưa xuất hiện những tụ điểm chơi, những quán cool, đáp ứng được nhu cầu của những tay chơi tư bản vô gia cư này. Chúng tôi sẽ treo một cái biển khẳng định bản sắc của những tay chơi trong thế giới ngầm này, chẳng hạn “Bunker”, “Tunnel” hay “Underground”. Chúng tôi sẽ cắt đặt những tay lực lưỡng gác cửa, sẽ đuổi thẳng cổ bất kỳ kẻ thứ hai mươi nào dám bén mảng đến, vì y không xứng đáng với đẳng cấp của tụ điểm. Đứng ở quầy bar sẽ là những gã da đen mặt lạnh và những ả Latinh đẹp trễ nải, và bất kỳ kẻ nào dám thanh toán bằng tiền đồng, kẻ đó sẽ bị tiếp viên nhăn mũi đáp lại như thể họ chưa bao giờ nhìn thấy những tờ giấy đó. Một ly Gin Tonic sẽ có giá 12 đô, còn một ly bia 6 đô. Chúng tôi sẽ chỉ cho giới trẻ Hà Nội biết rằng, khi bố mẹ chúng đi ngủ lúc 10 giờ tối thì mới là lúc chúng bắt đầu trang điểm, bởi vì “Bunker”, “Tunnel” hay “Underground” không bao giờ mở cửa trước 23 giờ. Chúng tôi sẽ chỉ cho chúng thấy, hơn lúc nào hết, đây là lúc chúng phải vươn tới đẳng cấp Thượng Hải, Tokyo hay Bangkok, bằng cách hãy mang thật nhiều tiền của những ông bố bà mẹ giỏi kiếm tiền của chúng đến đây. Năm năm sau, chúng tôi sẽ bán lại cái tụ điểm làm ăn phát đạt đó với giá 40 triệu đôla. Và trong khi giới trẻ Hà Nội đêm đêm miên man nhảy nhót tưng bừng, chúng tôi sẽ lặng lẽ rút về nông thôn, sẽ nuôi gà nuôi lợn và sẽ tự trồng lúa để sống.
Không phải Hongkong mà là Hồng Sơn một ngôi làng nhỏ cách Hà Nội hai giờ đi xe máy. Chúng tôi được mời vào một ngôi nhà nhỏ có tường bao quanh: bên ngoài là đồng lúa, bên trong là vườn chuối, còn có 2 con lợn, 1 con trâu, 10 con gà và 5 con chó. Những con chó tạo thành một nhóm nhỏ vui nhộn, chúng vẫy đuôi mừng rỡ chạy quanh chúng tôi; chúng tôi chào đón chúng hậu hĩnh bằng cách xoa đầu, xoa tai: Xin chào, chúng mày đúng là một đám vui nhộn, lanh lẹn và dễ gần hơn phần đông đám chó khác ở đây đấy.
Bán thịt chó: Từ khi tôi biết đến từ “thịt chó” trong tiếng Việt, tôi cũng biết người ta có thể mua nó ở đâu: thực ra có thể mua ở bất kỳ đâu ngay khi bạn ra khỏi trung tâm Hà Nội (Phải chăng thịt chó bị cấm bán ở khu Phố Cổ vì người ta muốn tránh làm khách du lịch hoảng sợ? Hay người ta đã tìm ra một từ nào đó để thay thế cho từ “thịt chó”, như “thịt lợn mềm” chẳng hạn?). Thực ra điều này không làm tôi khó chịu: Tại sao ăn thịt chó hay thịt ngựa lại xấu hơn thịt gà hay thịt lợn? Điều quan trọng với tôi là người ta đối xử với con vật như thế nào trước khi giết chúng: những con vật bị hành hạ trong những lò mổ ở Đức cách đây 20 năm đã biến tôi thành một người ăn chay: tôi thấy mình không có lý do gì phải nuốt vào dạ dày cái kết quả của một sự hạ nhục quá đáng đến độ vô nhân đạo, cũng như phi thẩm mỹ đến vậy. Tôi thích những con gà ở Việt Nam hơn, chúng tụ tập ở bất cứ ngõ ngách bẩn thỉu nào: Ở những nước nghèo, chính việc thiếu phân bón công nghiệp đã tự động tạo ra rau xanh tự nhiên, và việc thiếu những chuồng trại công nghiệp lại sinh ra những con gà, con lợn, con bò sống hạnh phúc. Tôi nghĩ thế.
Năm cô cậu vui vẻ này chắc chắn không phải được nuôi để làm thịt, vì chúng được đối xử như thành viên gia đình: Cô con gái nhỏ của ông bà chủ thường chơi trốn tìm với đám chó con. Ông chủ (người Đức) vuốt ve con chó mẹ đáng kính với những núm vú dài vì bị đám con nhay bú. Khi chúng tôi ngồi ăn, cả đám cụp tai ngồi dưới bàn khấp khởi chờ nửa cái nem rán hay nửa cái đùi gà sẽ rơi xuống. Chúng tôi trò chuyện về sự ngớ ngẩn của những cái máng ăn có thể điều chỉnh độ cao dành cho chó ở Đức, và cùng đi đến thống nhất rằng, nuôi bằng cơm trộn thịt gà là tốt nhất cho sức khỏe của chó: Chúng tôi cũng là những nhà bảo vệ động vật có ý thức đấy chứ!
Ngồi ban công với tách cà phê trên tay sau bữa ăn trưa, mắt nhìn về phía xa, những ngọn núi mờ khói phía chân trời, những con chó thỏa thuê nằm tư lự quanh chân - thật dễ chịu. Người bà trong gia đình mỉm cười đi về phía chúng tôi, nhấc một con chó nhỡ cỡ một tuổi, kẹp tay dưới nách nó và giơ giơ lên không trung khiến con vật bắt đầu giãy lên như phải bỏng: “Lại giở chứng rồi”, D. cười, vì chúng tôi đã quá quen với màn kịch này ở nhà, mỗi khi chúng tôi đưa cô tiểu thư chó của mình vào bồn tắm. Đột nhiên hiện ra hai người đàn ông dắt xe đạp đứng đợi cách đó vài mét, cạnh cửa ra vào. Người bà giơ con chó lên cao: tôi nhìn thấy khuôn mặt nó: Mắt sợ hãi láo liên, tôi thấy nó sợ đái cả ra nền nhà, tôi nghe tiếng nó kêu tuyệt vọng, và tôi hiểu rằng nó biết đây không phải là chuyện tắm rửa. Người ta dùng dây buộc hai chân trước nó quặt ra sau, cột chặt lại, cuộn con vật đang kêu cứu thảm thiết thành một cục tròn, nhét vào cái túi nhựa lớn, rồi kéo chặt miệng túi lại. Cô con gái nhỏ của gia đình bịt chặt tai và lăn ra đất khóc ngằn ngặt. “Cái gì thế?”, chúng tôi - những người châu Âu, hét toáng lên, “Họ làm gì với con vật thế?”. Và ông chủ nhà người Đức được cô vợ người Việt giải thích: Đưa con chó cho nhà hàng xóm mượn để nó trông nhà cho bên đó vài tuần. Nó đâu có phải một con chó Đức được dạy trong trường dạy chó, nên nếu người ta buộc xích vào cổ, nó sẽ không đi theo đâu.
Vâng, đúng thế, chó được bán theo cân: Những người đàn ông giữ thanh đòn ngang treo một cái cân như ở thời trung cổ: Người bà móc cái túi đựng con chó vào móc cân, cả ba cùng xem kết quả và gật đầu. Sau đó con chó bị buộc vào yên xe – và biến mất. Mười lăm phút sau, ông chủ nhà vừa qua hàng xóm mượn chiếc xe máy trở lại ban công với chúng tôi, mặt mũi tái dại: Ông thấy con chó bị đập chết trên sân nhà hàng xóm, theo một cách hết sức cổ điển. Nó nằm giãy giụa trong vũng máu của chính nó.
Ừ thế đấy, là thế đấy, những hình ảnh cứ trở đi trở lại. Cả ngày tôi không sao quên được cảnh tượng đó. Cứ mỗi khi thử nghĩ tới một điều gì khác, đột nhiên trong tôi lại hiện ra hình ảnh cú đập đầu trên sân, tôi đứng đó mà chẳng làm gì, với tách cà phê trên tay, nhìn bà già giơ con chó lên, nhìn nó bắt đầu kêu thảm thiết như thế nào, nhìn nó vãi đái ra vì sợ, nhìn những người giết nó chùi tay vào ống quần, rồi nhìn nó bị nhét vào cái túi nhựa và treo lên cái cân như ở thời trung cổ, cái cân trông giống như một dụng cụ tra tấn. Trong các tác phẩm văn chương, người ta hay nói tới việc ai đó bị “ám ảnh bởi hình ảnh” – thế mà lâu nay tôi cứ tưởng đó chỉ là một cách nói văn vẻ mà thôi.
Lại nói về chủ đề “Thịt chó hay thịt lợn, thịt nào mà chẳng như nhau”. Nhưng lại không như nhau đâu, bởi chó là bạn của người, bởi nó nhìn chúng ta, cười với chúng ta và tin chúng ta. Bởi chúng ta ôm ấp, vuốt ve nó, chúng ta để nó ngồi cùng dưới bàn ăn và chia sẻ thức ăn với nó. Bởi khác với những loài vật khác, cách đây 10.000 năm, chó đã lựa chọn chỉ sống vì chúng ta và sống cùng chúng ta: Ôi, bao nhiêu ngây thơ, bao nhiêu tình bạn, và đổi lấy sự phản bội này - hành quyết một người bạn mà chỉ 5 phút trước đó ta còn ôm ấp vuốt ve - cảm giác chẳng khác gì ăn thịt người vậy. Trong trường hợp này, mọi lý lẽ đưa ra đều vớ vẩn cả (nó chỉ là một con vật thôi - vâng, nhưng thế nào là “chỉ”?). Trong khoảnh khắc, đột nhiên tôi thấy những khuôn mặt người tươi rói ở đây đều có gì giả tạo.
Ba tiếng đồng hồ trên xe máy qua các vùng phong cảnh làng quê: những ngọn núi xanh ngắt, gió mát rượi, những người nông dân trồng chè vui vẻ, những đứa trẻ chơi đùa và hai con lợn chết vắt trên yên một chiếc xe máy: Hình ảnh con chó kêu thảm thiết đã trở thành tấm kính che mắt khi tôi nhìn đất nước này. Những hình ảnh cứ quay cuồng trong đầu: 50 nghìn đồng một ký lô, một khoản tiền lớn ở đây (thịt chó nướng chắc chắn không phải món ăn thường nhật của những người nghèo), nhưng gia đình có ông chồng người Đức kia hẳn phải thuộc diện giàu so với các gia đình Việt Nam khác. Bạn chơi chung của cô con gái rượu bị giết thịt không phải vì tiền, mà đơn giản ở đây họ làm thế. Không ngạc nhiên lắm khi việc ăn thịt chó được che đậy kỹ lưỡng trước khách du lịch, bởi sau một trải nghiệm như vậy, thật khó để bạn có thể thấy đất nước này đẹp như trước.
Trở về Hà Nội muộn. Mỗi tối thành phố lại trông giống như vừa trải qua một Lễ hội Tháng Mười: Những cửa hàng và quán xá rút khỏi đường phố và vỉa hè để thu vào trong các ngôi nhà, bỏ lại cả đống đồ ăn thừa, giấy ăn, túi trà, chai nhựa và phế thải đủ loại. Nhưng tất cả mọi người đều chui tọt vào nhà mình và quay mặt lại: những người đàn bà (!) kéo lê những thùng nước và rửa vỉa hè trước cửa những ngôi nhà đó và dọn những đống rác khổng lồ mang đi, những đống rác này đêm đêm lại được những nữ (!) công nhân vệ sinh phân loại và xử lý. Nhờ họ mà thành phố này có thể hoạt động như một cái dạ dày tự tiêu hóa, để không bị chết ngạt trong đống rác thải của chính nó.
Đã năm lần chúng tôi đi qua cái ngách nhỏ phía sau những ngôi nhà nằm dọc con phố hẹp bên hồ Hoàn Kiếm, bây giờ tôi mới thực sự tin rằng có hẳn một gia đình đang sống ở đây (nghĩa là họ ăn, ngủ, tắm giặt, làm việc, yêu đương, cười nói và âu yếm) giữa cái công trường của một ngôi nhà tương lai.
Phía bên kia hồ, các đôi tình nhân ngồi trên ghế đá, còn tôi gấp vội một chiếc khẩu trang bằng khăn quàng cổ của mình, không thể hiểu nổi làm sao người ta có thể trao nhau một nụ hôn lãng mạn giữa mùi nước tiểu nồng nặc và mùi cá chết thối inh thế này.
“Hello, Heineken!”. Tối nào D. cũng mua bia ở cùng một cửa hàng nơi góc phố, gia đình chủ nhà có tới 7 người đủ lứa tuổi nên không còn chỗ nào cho khách đặt chân vào. Vì năng lui tới, dần dà D. luôn được chào bằng một tiếng to Hello. Anh đã gây xung đột giữa cô con gái trẻ biết nói tiếng Anh và bà mẹ già giữ cuộn tiền trong túi: Cô gái thấy anh dễ mến và muốn bán bia cho anh với giá cho người bản xứ, trong khi bà mẹ đòi giá cao hơn. Vậy là chỉ trong thời gian ngắn, người ta đã có thể cắm rễ ở đây: chúng tôi cảm thấy một nỗi da diết nhè nhẹ, vì ngày mai chúng tôi đã phải rời khỏi thành phố điên rồ này rồi.
Nhưng nỗi da diết này lại biến đi rất nhanh khi hình ảnh con chó kêu thảm thiết tái hiện. Khi thiếp đi, tôi nghĩ trong giấc ngủ chập chờn: Thôi, cứ coi đó như một bộ phim chứ không phải hiện thực, rồi tôi lại nghĩ: Hay đó chỉ là…?, rồi tôi ngủ sâu và chìm trong những cơn mộng mị nặng nề, và sáng mai đây tôi sẽ viết về nó, và khi đó nó sẽ là văn chương, là phim ảnh, là ký ức.
Huế đang bị nhấn chìm trong nước do trận bão đã cướp đi 40 mạng người, không có chuyến tàu nào chạy vào miền Nam. Chị giúp việc của chúng tôi (Chú ý, chúng tôi tạm dừng ở đoạn này để dành một lời khen: Chị Marina May, chị đã nuôi nấng chúng tôi, chị đã an ủi chúng tôi (“Đừng lo, lái xe sẽ đến đúng giờ, mọi chuyện sẽ ổn thôi”), chị đã chỉ dẫn chúng tôi và giảng giải cho chúng tôi về thế giới, chị lắng nghe những lời than vãn của chúng tôi (“Đau bụng quá!”), chị che mưa cho chúng tôi và giặt quần áo cho chúng tôi – một lời khen nhân ba lần dành cho chị, ôi nàng tiên dịu dàng với thần kinh thép!), Marina May đã nhanh chóng đặt một chuyến bay tới Đà Nẵng: Vậy là chúng tôi bỏ qua Huế và bay thẳng tới Hội An. Không gì linh hoạt hơn một người du hành mà chuyện đi đâu, giờ nào chẳng có gì là quan trọng (khi du hành, người ta luôn như vậy, khác với “đi nghỉ”, người ta luôn để ý tới thời gian).
Những lời chào từ giới ngồi lê đôi mách Hà Nội. Khi đang trên đường ra sân bay, chúng tôi nghe được rằng: Một người quen của một người quen của một người quen hôm nay khi đang làm việc tại tầng 17 của tòa nhà Hanoi Towers, nhìn ra cửa sổ, anh ta thấy cách đó vài kilômét, một khối nấm bụi trùm lên thành phố như vừa xảy ra một vụ nổ lớn. Cạnh Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, nơi quân đội đang gấp rút chuẩn bị diễu binh mừng Đại lễ Nghìn năm Thăng Long – Hà Nội. Sau đó những bức ảnh chụp bằng điện thoại di động đầu tiên xuất hiện trên internet: cháy nổ, người chết, người bị thương, hỗn loạn, cảnh sát, cứu hỏa. Chắc chắn không phải một vụ đánh bom, mà là hệ quả của một sự ngớ ngẩn tai hại: Chẳng hiểu sao người ta có thể vận chuyển cả container thuốc pháo đầy nén trong thành phố. Sau đó ít phút, có tin tất cả các bài viết bị gỡ, chờ tới khi có tin chính thức. Nhưng những tin đồn từ giới ngồi lê đôi mách thì còn lại trên internet và lan truyền nhanh như điện mà chẳng có chính quyền nào trên thế giới có thể ngăn được.