Vào chiều thứ Hai ngày 24 tháng 2 năm 1890, hai ngàn người tụ tập trên các vỉa hè và đường phố bên ngoài văn phòng của tờ Chicago Tribune. Các đám đông tương tự cũng tụ tập tại hai mươi tám tòa soạn báo khác của thành phố và trong hành lang khách sạn, trong quán bar, tại các văn phòng của Western Union và Công ty Điện báo Bưu chính. Đám đông ngoài văn phòng tờ Tribune bao gồm doanh nhân, nhân viên văn phòng, đại lí du lịch, tốc kí viên, cảnh sát và ít nhất một thợ cắt tóc. Các cậu bé giao báo chờ đợi trong tư thế sẵn sàng lao đi ngay sau khi các tin tức giá trị xuất hiện. Không khí lạnh lẽo. Khói phủ kín khoảng không giữa các tòa nhà và làm giảm tầm nhìn xuống còn vài dãy nhà. Thỉnh thoảng, cảnh sát phải dẹp đường cho một xe điện - hay còn gọi là xe cáp treo do chúng được gắn vào một đường dây cáp chạy dọc theo các con phố - màu vàng tươi của thành phố chạy qua. Những chiếc xe ngựa chất đầy hàng hóa bán buôn, dẫn đầu là những con ngựa to lớn phà hơi vào đám khói sẵn có, chạy lóc cóc trên các vỉa hè.
Đám đông hào hứng chờ đợi, vì Chicago là một thành phố kiêu ngạo. Tại mỗi góc thành phố, người ta nhìn mặt những người bán hàng, tài xế taxi, bồi bàn và trực tầng khách sạn để xem tin tức đã đến chưa và liệu đó là tin tốt hay tin xấu. Cho đến lúc này, năm 1890 vẫn là một năm tuyệt vời. Dân số Chicago lần đầu tiên đạt mốc một triệu, biến nó trở thành đô thị đông dân thứ hai trong cả nước sau New York, mặc dù những người dân bất mãn của Philadelphia, thành phố từng ở vị trí thứ hai, nhanh chóng chỉ ra rằng Chicago đã ăn gian bằng việc sáp nhập các vùng rộng lớn trước khi cuộc điều tra dân số thập niên 1890 diễn ra. Người Chicago không để tâm đến điều này. Hoành tráng là được. Thành công ngày hôm nay sẽ đập tan suy nghĩ của đám dân bờ Đông cho rằng Chicago không gì hơn một lò giết mổ súc vật tham lam và kém phát triển; thất bại sẽ mang đến sự ê chề không dễ dàng vượt qua, nhất là khi những người đứng đầu của thành phố đã vỗ ngực tự hào rằng Chicago thắng thế. Chính những lời huênh hoang này, thay vì làn gió Tây Nam dai dẳng - mới là điều khiến biên tập viên Charles Anderson Dana tại New York đặt cho Chicago biệt danh “Thành Phố Gió”.
Trong văn phòng ở tầng trên cùng của tòa nhà Rookery, Daniel Burnham, bốn mươi ba tuổi, cùng đối tác, John Root, bốn mươi tuổi, cảm nhận được sự phấn khích hơn cả. Họ đã tham gia vào các cuộc đàm luận bí mật, nhận được sự đảm bảo nhất định, thậm chí còn đi xa đến mức thám thính cả những khu vực xa trung tâm thành phố. Họ là những kiến trúc sư hàng đầu của Chicago: Họ tiên phong trong việc xây dựng các công trình lớn và thiết kế những tòa nhà chọc trời đầu tiên của Mỹ. Dường như cứ sau một năm, tòa nhà mới của họ lại trở thành tòa nhà cao nhất thế giới. Khi họ chuyển sang tòa Rookery tại phố La Salle và Adams, một tòa nhà tuyệt đẹp tràn ngập ánh sáng tự nhiên theo thiết kế của Root, họ nhận thấy quang cảnh nhìn từ đây là thứ mà chưa ai, ngoại trừ những công nhân xây dựng lên tòa nhà, từng thấy. Họ cũng biết rằng sự kiện ngày hôm nay có khả năng biến những thành công của họ từ trước đến nay trở nên bé nhỏ.
Các tin tức sẽ đến bằng điện tín từ Washington. Tờ Tribune sẽ nhận được nó từ một trong những phóng viên riêng của mình.
Các biên tập viên và những người dàn trang của tờ báo sẽ soạn các phiên bản “thêm” khác nhau trong khi lính cứu hỏa dùng xẻng xúc than vào cái máy in chạy bằng hơi nước của tòa soạn. Một nhân viên sẽ dán từng thông báo lên cửa sổ tòa soạn để người đi bộ có thể đọc.
Hơn bốn giờ chiều, giờ tiêu chuẩn đường sắt Chicago, tờ Tribune đã nhận được bức điện tín đầu tiên.
***
Ngay cả Burnham cũng không thể chắc chắn rằng ai là người đầu tiên đề xuất ra ý tưởng này. Có vẻ như nó đã xuất hiện trong suy nghĩ của nhiều người cùng một lúc, ý định sơ khởi chỉ đơn giản là tổ chức một hội chợ thế giới để kỷ niệm bốn trăm năm Columbus khám phá ra Tân Thế Giới. Ban đầu, ý tưởng này nhận được ít sự ủng hộ. Bị nuốt chửng trong khát khao hướng tới thịnh vượng và quyền lực sau khi cuộc nội chiến kết thúc, Mỹ dường như ít quan tâm đến việc kỷ niệm quá khứ xa xôi của mình. Tuy nhiên vào năm 1889, người Pháp đã khiến tất cả mọi người phải kinh ngạc.
Tại công viên Champ de Mars tại Paris, Pháp đã mở Triển lãm Toàn cầu, một hội chợ thế giới khổng lồ, hào nhoáng và kỳ thú đến nỗi khách thăm quan tin rằng không hội chợ nào có thể vượt qua nó. Tại trung tâm triển lãm, sừng sững một tòa tháp sắt cao hơn ba trăm mét, cao hơn bất kỳ công trình nhân tạo nào trên trái đất. Tòa tháp không chỉ đảm bảo sự nổi tiếng mãi mãi cho nhà thiết kế, Alexandre Gustave Eiffel, mà còn cho thấy rõ ràng rằng nước Pháp đã vượt qua Mỹ để trở thành quốc gia thống trị trong lĩnh vực công trình xây dựng bằng sắt thép, bất chấp cầu Brooklyn, đường ray Vó Ngựa9 và các thành tựu không thể phủ nhận khác của các kĩ sư người Mỹ.
9 Đường ray Vó Ngựa là một hệ thống ba đường sắt tàu hỏa hình vó ngựa tại hạt Blair, Pennsylvania. Đường cong chính dài khoảng 724 m và có đường kính 400 m. Hệ thống được hoàn thành vào năm 1854.
Trước thực tế này, Mỹ chỉ có thể tự trách mình. Tại Paris, Mỹ cho thấy một nỗ lực phô trương khả năng nghệ thuật, công nghiệp và khoa học nửa vời. Vào ngày 13 tháng 5 năm 1889 tại Paris, phóng viên tờ Chicago Tribune đã viết, “Chúng ta nằm trong số các quốc gia tuềnh toàng khi xuất hiện trước công chúng.” Theo ông, các quốc gia khác tham gia triển lãm với lòng tự trọng và phong cách, trong khi Mỹ dựng lên một mớ hỗn tạp các gian hàng và ki-ốt thiếu tính nghệ thuật và một kế hoạch thống nhất. “Kết quả là một mớ bòng bong buồn thảm của các cửa hàng, quầy hàng và gian hàng, nghịch mắt khi đứng riêng lẻ và không tương thích khi đứng cạnh nhau.” Ngược lại, Pháp đã làm tất cả mọi thứ có thể để đảm bảo rằng vinh quang của mình lấn át tất cả các nước khác. “Các quốc gia khác không phải là đối thủ,” ông viết, “họ chỉ làm nền cho Pháp và sự nghèo nàn trong màn trình diễn của họ càng tôn lên, như một nhiệm vụ hiển nhiên, sự viên mãn của Pháp, sự giàu có cũng như sự lộng lẫy.”
Ngay cả tháp Eiffel, công trình mà Mỹ dự báo một cách hoang đường rằng sẽ trở thành một con quái vật gớm ghiếc vĩnh viễn phá hỏng vẻ đẹp của Paris, hóa ra lại đầy phong cách với đáy rộng và đỉnh nhọn khiến người ta liên tưởng đến hình ảnh tên lửa. Người Mỹ không cho phép sự mất mặt này tiếp tục kéo dài. Lòng kiêu hãnh của Mỹ trong việc gia tăng sức mạnh và vị thế trên trường quốc tế đã khiến chủ nghĩa yêu nước bùng nổ mạnh mẽ. Mỹ cần một cơ hội để vượt qua Pháp, nhất là để “vượt qua tháp Eiffel của Eiffel.” Đột nhiên, ý tưởng tổ chức một hội chợ lớn để kỷ niệm Columbus khám phá ra Tân Thế giới đã trở thành một sự kiện có sức hấp dẫn không thể cưỡng lại.
Ban đầu, hầu hết người Mỹ tin rằng một hội chợ tôn vinh cội nguồn sâu xa nhất của dân tộc nên được tổ chức ở thủ đô Washington. Các biên tập viên ở Chicago thậm chí cũng đồng ý với đề xuất này. Tuy nhiên, khi ý tưởng dần thành hình, các thành phố khác bắt đầu coi đây là một chiến lợi phẩm cần phải giành lấy, chủ yếu vì tầm cỡ của hội chợ sẽ mang tới sức hấp dẫn mạnh mẽ cho thành phố đăng cai trong một thời đại mà niềm tự hào về nơi ăn chốn ở chỉ đứng thứ hai sau niềm tự hào về dòng dõi. Đột nhiên New York và St. Louis cũng muốn đăng cai tổ chức hội chợ. Washington lập luận rằng mình là trung tâm của chính phủ, New York thì cho rằng mình là trung tâm của tất cả mọi thứ. Không ai quan tâm đến St.Louis nghĩ gì, mặc dù thành phố này đã can đảm ghi tên mình vào danh sách.
Không ở đâu mà lòng tự hào trong lòng mỗi cư dân mạnh mẽ hơn ở Chicago - nơi những người đàn ông nói về “tinh thần Chicago” như thể nó là một lực lượng hữu hình, đồng thời hãnh diện khi nói về tốc độ tái kiến thiết thành phố sau đại hỏa hoạn năm 1871. Họ không chỉ đơn thuần khôi phục lại nó; họ đã biến nó thành thành phố đứng đầu trong thương mại, sản xuất và kiến trúc. Tuy nhiên, sự thịnh vượng của thành phố không giúp nó vượt qua được định kiến rằng Chicago chỉ là một đô thị hạng hai ưa sát sinh hơn Beethoven. New York là thủ đô của sự tinh tế trong văn hóa và hoạt động xã hội và các công dân cũng như các tờ báo hàng đầu của nó không bao giờ để Chicago quên điều này. Do đó, hội chợ, nếu được lên kế hoạch kĩ lưỡng và nếu nó vượt qua hội chợ tại Paris, sẽ đập tan định kiến đó một lần và mãi mãi. Các biên tập viên của các nhật báo ở Chicago, khi thấy New York tham gia cuộc chạy đua, bắt đầu đặt câu hỏi: Tại sao không phải là Chicago? Tờ Chicago Tribune đã cảnh báo rằng “lũ diều hâu, kền kền và những con súc sinh bẩn thỉu trườn, bò và bay khác của New York đang bành trướng để nắm lấy quyền kiểm soát hội chợ.”
Ngày 29 tháng 6 năm 1889, Thị trưởng thành phố Chicago DeWitt C. Cregier công bố việc bổ nhiệm một ủy ban dân sự gồm hai trăm năm mươi nhân vật nổi bật nhất của thành phố. Ủy ban đã gặp mặt và thông qua một nghị quyết trong đó đoạn kết viết: “Những người đàn ông đã giúp xây dựng Chicago muốn hội chợ được tổ chức tại đây và theo như yêu cầu chính đáng và kiên trì này, họ dự định phải đạt được điều đó.”
Tuy vậy, Quốc hội mới là cơ quan có tiếng nói cuối cùng. Và bây giờ, thời điểm bỏ phiếu quyết định đã đến.
***
Một nhân viên tờ Tribune bước đến cửa sổ và dán bản tin đầu tiên. Cuộc bỏ phiếu ban đầu giúp Chicago vượt xa các đối thủ, 115 phiếu so với 72 phiếu của New York. St. Louis đứng thứ ba, tiếp theo là Washington. Một nghị sĩ phản đối việc tổ chức hội chợ và trong lúc tức giận, đã bình chọn cho Cumberland Gap10. Khi đám đông bên ngoài tờ Tribune thấy Chicago dẫn trước New York 43 phiếu, họ liền nổ tung với tiếng huýt sáo, hò reo và vỗ tay. Tuy nhiên, mọi người đều biết Chicago vẫn còn thiếu 38 phiếu để đạt được đa số phiếu giành quyền đăng cai tổ chức hội chợ.
10 Cumberland Gap là một con đường hẹp thông qua các sườn núi dài của dãy núi Cumberland, gần đường giao nhau của các tiểu bang Kentucky, Virginia và Tennessee của Hoa Kỳ.
Các kết quả bỏ phiếu lần lượt xuất hiện. Trời tối dần. Các vỉa hè đầy đàn ông và phụ nữ bỏ bê công việc. Các nhân viên đánh chữ - những người phụ nữ vận hành những cỗ máy kinh doanh tân tiến nhất - như thường lệ mặc áo cánh trắng và váy đen dài dưới áo khoác làm gợi lên hình ảnh những nút bấm máy chữ Remingtons của họ, đổ về từ Rookery, Montauk và các tòa nhà chọc trời khác. Đám xà ích chửi thề và ghì cương ngựa. Một người đốt đèn đi bên lề đám đông, châm lửa cho những chiếc đèn đường nằm trên cột bằng gang. Màu sắc thấp thoáng khắp mọi nơi: xe điện vàng, xanh lam vụt qua, đám trẻ đưa điện báo đang lao đi với những chiếc túi đầy nỗi vui buồn; xà ích thắp sáng chiếc đèn chiếu đêm màu đỏ ở phía sau xe; một con sư tử mạ vàng lớn cúi mình trước các cửa hàng mũ trên đường phố. Trong các tòa nhà ở trên cao, đèn khí ga và đèn điện nở rộ trong bóng tối như hoa quỳnh.
Nhân viên tờ Tribune lại xuất hiện trên cửa sổ tòa soạn, lần này với kết quả của cuộc bỏ phiếu thứ năm. “Sự u ám lạnh lẽo đè nặng lên đám đông”, một phóng viên đưa tin. New York đã đạt được thêm mười lăm phiếu, Chicago mới chỉ có thêm sáu. Khoảng cách giữa hai thành phố đã thu hẹp. Một người thợ cắt tóc trong đám đông chỉ ra cho tất cả mọi người xung quanh rằng phiếu thêm của New York hẳn phải đến từ các nghị sĩ từng ủng hộ St. Louis. Phát hiện này đã khiến một trung úy quân đội, Alexander Ross, tuyên bố: “Các quý ông, tôi tin rằng bất kỳ kẻ nào đến từ St. Louis cũng là kẻ cướp nhà thờ.” Một người đàn ông khác hét lên: “Hoặc đầu độc chó của vợ.” Ý kiến này nhận được nhiều sự ủng hộ.
Tại Washington, lực lượng ủng hộ New York, bao gồm cả Chauncey Depew, Chủ tịch Công ty Đường sắt Trung tâm New York, một trong những nhà hùng biện nổi tiếng nhất vào thời điểm đó, cảm nhận được một làn sóng thay đổi đang ngầm diễn ra và yêu cầu tạm dừng cuộc bỏ phiếu cho đến ngày hôm sau. Khi biết được yêu cầu này, đám đông bên ngoài tòa soạn Tribune đã huýt sáo và la ó, chỉ ra một cách chính xác động thái này là một nỗ lực câu giờ để đi cửa sau.
Đề nghị của ông Depew bị bác bỏ, nhưng Quốc hội đồng ý giải lao ngắn. Đám đông khán giả vẫn không nhúc nhích.
Sau lượt bỏ phiếu lần thứ bảy, Chicago chỉ còn thiếu một phiếu là đạt được đa số. New York đã rớt đài. Sự tĩnh lặng bao trùm lên đường phố. Xe ngựa dừng chạy. Cảnh sát bỏ qua những chuỗi xe tắc xi trải dài cả hai bên đường. Hành khách xuống xe và xem tin tức dán trên cửa sổ tòa soạn tờ Tribune, chờ thông báo tiếp theo. Các dây cáp kêu ro ro đánh lên một hợp âm thứ đầy hồi hộp dưới vỉa hè.
Ngay sau đó, người đàn ông khác xuất hiện tại cửa sổ tờ Tribune. Anh ta trẻ, cao, gầy và có bộ râu đen. Anh nhìn vào đám đông mà không lộ cảm xúc. Một tay cầm hồ dán, tay kia cầm bàn chải và tờ kết quả. Anh ta làm việc một cách từ tốn. Anh trải tờ thông báo trên bàn, mặc dù không nhìn thấy nhưng tất cả mọi người trong đám đông đều có thể đoán được anh đang làm gì qua chuyển động của vai. Người thanh niên từ tốn mở nắp lọ hồ dán. Có cái gì đó u ám trong khuôn mặt của anh, như thể anh đang nhìn xuống một chiếc quan tài. Anh bôi hồ dán lên thông báo một cách tuần tự. Phải mất một lúc anh mới nâng nó lên ngang cửa sổ.
Biểu cảm của người thanh niên vẫn không thay đổi. Anh dán chặt bản tin vào cửa kính.
***
Burnham chờ đợi. Văn phòng của ông, cũng như của Root, nằm ở phía Nam tòa nhà để đáp ứng mong muốn nhận được nhiều ánh sáng tự nhiên, một mong ước phổ biến ở Chicago, nơi đèn đường, nguồn chiếu sáng nhân tạo chính, không giúp ích gì nhiều trong việc xuyên thủng hoàng hôn đầy than và khói của thành phố. Bóng đèn, thường kết hợp ga và điện, mới chỉ được dùng để chiếu sáng các tòa nhà mới xây, tuy nhiên chúng lại làm trầm trọng hơn vấn đề do chúng chạy bằng các nồi hơi đốt than ở dưới tầng hầm. Khi ánh sáng tự nhiên nhạt dần, ánh sáng từ đèn khí ga trên đường phố và trong các tòa nhà khiến làn khói tỏa ra màu vàng xỉn. Burnham chỉ nghe thấy tiếng xì xèo của khí từ những ngọn đèn trong văn phòng của ông.
Việc ông đang ở đây, một người đức cao vọng trọng trong một văn phòng cao hơn hẳn thành phố như này, là một ngạc nhiên lớn và đầy tự hào dành cho người cha quá cố của ông.
Daniel Burnham Hudson sinh ra ở Henderson, New York vào ngày 4 tháng 9 năm 1846, trong một gia đình theo giáo thuyết Swedenborg với các nguyên tắc tuân phục, tự lực và tham gia vào các hoạt động phục vụ cộng đồng. Năm 1855, khi ông chín tuổi, gia đình ông chuyển đến Chicago, nơi cha của ông thành lập một công ty dược phẩm có tiếng tăm. Burnham có lực học kém cỏi, tầm thường. Một phóng viên phát hiện ra “các hồ sơ của trường Old Central nơi ông theo học cho thấy thành tích học tập trung bình của ông chỉ đạt mức 55% và điểm cao nhất ông từng đạt được chỉ là 81.” Tuy nhiên, ông lại rất giỏi phác thảo và đồ họa. Khi Bunrham mười tám tuổi, cha cho ông học với gia sư riêng để chuẩn bị cho các kỳ thi tuyển sinh vào Đại học Harvard và Yale. Ông luôn lo lắng thái quá trước các kỳ thi. “Tôi đã đến Harvard để thi với hai người không chuẩn bị bài kĩ như tôi,” ông nói. “Cả hai đều qua một cách dễ dàng, còn tôi thì trượt hai hay ba lần bởi không thể viết nổi một từ.” Điều này cũng xảy ra tại Yale. Cả hai trường đều từ chối ông. Burnham không bao giờ quên điều đó.
Vào mùa thu năm 1867, ở tuổi hai mươi mốt, Burnham trở lại Chicago. Ông tìm việc trong lĩnh vực mà ông có thể thành công và nhận vị trí vẽ phác thảo tại công ty kiến trúc Loring & Jenney. Ông đã tìm thấy đam mê của mình, theo như những gì ông viết vào năm 1868 và nói với cha mẹ rằng mình muốn trở thành “kiến trúc sư vĩ đại nhất của thành phố hoặc của cả quốc gia.” Tuy nhiên, năm tiếp theo, ông hối hả đến Nevada cùng bạn bè để thử sức với công việc khai thác vàng. Ông đã thất bại. Ông nộp hồ sơ vào cơ quan lập pháp bang Nevada và thất bại một lần nữa. Ông trở lại Chicago với hai bàn tay trắng, trong một chiếc xe chở gia súc và gia nhập công ty của một kiến trúc sư tên là L. G. Laurean. Và rồi đến tháng 10 năm 1871: Một con bò, một chiếc đèn lồng, sự lộn xộn và gió. Đại hỏa hoạn Chicago lấy đi gần mười tám ngàn tòa nhà và để lại hơn một trăm ngàn người vô gia cư. Đống đổ nát sau thảm họa hứa hẹn công ăn việc làm bất tận cho các kiến trúc sư của thành phố. Nhưng Burnham bỏ việc. Ông bán kính tấm, lại thất bại. Ông trở thành người bán thuốc, rồi bỏ việc. Ông viết: “Gia đình tôi có xu hướng mệt mỏi khi phải làm mãi một công việc trong thời gian dài.”
Bực tức và lo lắng vào năm 1872, cha Burnham đã giới thiệu con trai của mình với một kiến trúc sư tên Peter Wight, người ngưỡng mộ khả năng vẽ của chàng trai trẻ và thuê anh làm người vẽ phác thảo. Lúc đó, Burnham hai mươi lăm tuổi. Ông yêu thích Wight và yêu thích công việc của mình; ông đặc biệt ưa thích một nhân viên phác thảo của Wight, một người miền Nam tên John Wellborn Root, trẻ hơn ông bốn tuổi. Sinh ra tại Lumpkin, Georgia vào ngày 10 tháng 1 năm 1850, Root là một thần đồng âm nhạc, biết hát trước khi biết nói. Trong cuộc nội chiến, trong lúc Atlanta cháy âm ỉ, cha Root đã lén đưa anh đến Liverpool, Anh, trên một chuyến tàu viện trợ cho miền Nam. Root giành được một suất vào Đại học Oxford, tuy nhiên trước khi được nhận, nội chiến kết thúc và cha của anh triệu hồi con trai trở về Mỹ, đến nhà mới của mình tại thành phố New York, nơi Root theo học ngành kĩ thuật xây dựng dân dụng tại Đại học New York và trở thành một người vẽ đồ án cho kiến trúc sư sau này thiết kế Đại giáo đường Thánh Patrick.
Burnham quý Root ngay lập tức. Ông ngưỡng mộ làn da trắng, cánh tay cơ bắp, cũng như lập trường trong công việc của Root. Họ trở thành bạn bè, sau đó thành đối tác. Họ nhận khoản thu nhập đầu tiên của mình ba tháng trước khi cuộc khủng hoảng năm 1873 làm sụp đổ nền kinh tế quốc gia11. Tuy nhiên, lần này Burnham quyết định bám trụ với công việc. Điều gì đó trong quan hệ đối tác với Root đã làm ông vững tin. Nó lấp đầy khoảng trống và kết hợp thế mạnh của cả hai. Họ vật lộn tìm kiếm hợp đồng của riêng mình và trong khi chờ đợi, đi làm thuê cho các công ty có tiếng tăm khác.
11 Cuộc khủng hoảng 1873, kéo dài từ năm 1873 cho đến năm 1879, là cuộc khủng hoảng tài chính gây ra suy thoái ở châu Âu, Bắc Mỹ và một số nước khác.
Một ngày vào năm 1874, một người đàn ông bước vào văn phòng và thay đổi cuộc sống của họ vĩnh viễn. Ông mặc bộ đồ màu đen và trông bình thường, tuy nhiên quá khứ của ông có cả máu, chết chóc và lợi nhuận không đếm xuể. Ông đến tìm Root, nhưng Root đang đi công tác. Ông tự giới thiệu bản thân với Burnham và cho biết tên mình là John B. Sherman.
Việc khuếch trương thanh thế là điều không cần thiết. Là giám đốc của Hiệp hội Chăn nuôi12, Sherman cai trị một đế chế đầy máu với hai mươi lăm ngàn đàn ông, phụ nữ, trẻ em và mỗi năm giết mười bốn triệu gia súc. Gần một phần năm dân số của Chicago phụ thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp vào các trại gia súc này để đảm bảo kế sinh nhai.
12 Hiệp hội Chăn nuôi là khu giết mổ đóng gói thịt ở Chicago trong hơn một thế kỷ, bắt đầu từ năm 1865. Hiệp hội được một nhóm điều hành gồm các công ty đường sắt đã mua các khu đầm lầy và biến nó thành một khu xử lí tập trung.
Sherman quý Burnham. Ông thích sức mạnh, ánh mắt xanh kiên định và sự tự tin khi đối thoại của Burnham. Sherman ủy thác công ty của Burnham xây dựng cho ông ta một biệt thự trên đại lộ Prairie giao với đường 21, giữa những ngôi nhà thuộc sở hữu của các ông trùm Chicago khác, nơi mà thỉnh thoảng Marshall Field, George Pullman và Philip Armour có thể được nhìn thấy đang đi bộ cùng nhau13. Root đã phác thảo một ngôi nhà ba tầng với đầu hồi và mái nhọn, gạch đỏ, sa thạch màu da bò, đá hoa cương màu xanh và đá phiến màu đen; Burnham hoàn thiện bản vẽ và giám sát việc xây dựng. Burnham đang đứng ở lối vào nhà, xem xét tiến độ công việc, thì một người đàn ông trẻ với phong thái kiêu căng và dáng đi khệnh khạng - không phải do cái tôi mà là do dị tật bẩm sinh - đi đến và tự giới thiệu mình là Louis Sullivan. Cái tên này chả có ý nghĩa gì với Burnham. Ít nhất vào thời điểm này thì chưa. Sullivan và Burnham trò chuyện. Sullivan mới mười tám, Burnham hai mươi tám. Ông nói với Sullivan, một cách tự tin, rằng ông sẽ không hài lòng với việc chỉ xây nhà ở. “Ý tưởng của tôi,” ông nói, “là tạo nên một doanh nghiệp lớn, để xử lí những công việc lớn, làm ăn với những doanh nhân lớn và để xây dựng một tổ chức lớn, vì người ta không thể làm việc lớn trừ khi có một tổ chức. “Con gái của John Sherman, Margaret, cũng đến thăm công trường xây dựng. Cô còn trẻ, xinh đẹp với mái tóc vàng và thường viện cớ bạn cô Della Otis sống bên kia đường để thường xuyên ghé qua. Margaret cho rằng ngôi nhà rất tuyệt vời, nhưng điều cô ngưỡng mộ nhất là anh chàng kiến trúc sư, có vẻ rất thoải mái bên cạnh những ụ đất cát và gỗ. Phải mất một thời gian, nhưng cuối cùng Burnham đã thành công. Ông cầu hôn cô. Margaret đồng ý; các thủ tục diễn ra suôn sẻ. Và rồi bê bối nổ ra. Anh trai của Burnham đã giả mạo ngân phiếu và gây tổn hại đến công việc kinh doanh dược phẩm của người cha. Burnham ngay lập tức đến gặp cha của Margaret để hủy hôn, cho rằng mối quan hệ này không thể tiếp tục do vụ bê bối. Sherman nói với Burnham, ông tôn trọng danh dự của Burnham nhưng từ chối yêu cầu của anh. Ông lặng lẽ nói, “Luôn có một con chiên ghẻ trong mỗi gia đình.”
13 Marshall Field, George Pullman và Philip Armour là các doanh nhân thành đạt thời bấy giờ.
Trớ trêu thay, sau đó, Sherman - một người đàn ông đã lập gia đình - lại chạy sang châu Âu với con gái của một người bạn.
Burnham và Margaret kết hôn vào ngày 20 tháng 1 năm 1876. Sherman đã mua cho họ một ngôi nhà ở đường 43 giao với đại lộ Michigan, gần hồ, nhưng quan trọng hơn là ở gần trại gia súc. Ông muốn được gần con gái. Ông quý Burnham và chấp thuận cuộc hôn nhân, nhưng ông không hoàn toàn tin tưởng vào chàng kiến trúc sư trẻ. Ông cho rằng Burnham uống quá nhiều.
Việc Sherman nghi ngờ tính cách của Burnham không làm giảm đi sự tôn trọng của ông đối với tài năng của chàng kiến trúc sư trẻ. Ông đã ủy nhiệm Burnham xây dựng các công trình khác. Khi sự tự tin đạt đến đỉnh điểm, Sherman đã ủy nhiệm Công ty Burnham & Root xây dựng cổng vào Hiệp hội Chăn nuôi, một công trình phản ánh tầm quan trọng ngày càng tăng của lò mổ. Kết quả là Cổng Đá được xây dựng với ba mái vòm bằng đá vôi Lemont và đồng, với tượng đầu trâu yêu thích của John Sherman được tạc tại mái vòm trung tâm - một nét chấm phá của Root. Cổng Đá trở thành một công trình địa phương trọng điểm còn tồn tại đến ngày nay, rất lâu sau khi con heo cuối cùng đi qua đoạn đường bằng gỗ lớn có tên gọi Cầu Than Thở để vào cõi vĩnh hằng.
Root cũng kết hôn với con gái của một chủ trại gia súc, nhưng chuyện tình của ông trắc trở hơn. Ông thiết kế một căn nhà cho John Walker, chủ tịch của các nông trại và gặp Mary, con gái của Walker. Trong thời gian yêu nhau, Mary mắc bệnh lao phổi. Bệnh tình ngày càng xấu đi, nhưng Root vẫn cương quyết giữ hôn ước, mặc dù rõ ràng ông kết hôn với một người phụ nữ sắp lìa đời. Hôn lễ được tổ chức tại một ngôi nhà do Root thiết kế. Nữ thi sĩ Harriet Monroe, một người bạn của ông, chờ đợi cô dâu xuất hiện cùng các vị khách khác. Dora, em gái của Monroe, là phù dâu duy nhất. “Chờ đợi lâu như vậy khiến chúng tôi lo sợ,” Harriet Monroe nói, “nhưng cuối cùng cô dâu, khoác cánh tay của cha mình, xuất hiện như một bóng ma trắng ở sảnh đường, chậm rãi và chần chừ kéo lê chiếc váy sa-tanh nặng nề, bước xuống cầu thang và đi tới bên cửa sổ được trang trí hoa và dây nho. Cảnh ấy buồn lạ lùng.” Cô dâu của Root gầy yếu và nhợt nhạt, chỉ có thể thì thầm lời thề của mình. “Sự hoan hỉ của cô,” Harriet Monroe viết, “giống như món trang sức trên cái đầu lâu.”
Chỉ sáu tuần sau lễ cưới, Mary Walker Root qua đời. Hai năm sau, Root cưới phù dâu Dora Monroe và rất có thể đã làm tan vỡ trái tim Harriet. Việc Harriet Monroe cũng yêu Root là điều không cần phải bàn cãi. Bà sống gần đó và thường xuyên thăm cặp vợ chồng tại ngôi nhà của họ ở Astor Place. Năm 1896, bà cho xuất bản cuốn tiểu sử của Root, một tác phẩm có thể khiến cả thiên thần cũng phải đỏ mặt. Sau này, trong hồi kí “Cuộc đời một nhà thơ” của mình, bà đã miêu tả cuộc hôn nhân của Root với em gái mình là “hoàn toàn hạnh phúc, đến nỗi quan niệm hạnh phúc của tôi cũng theo đó mà đòi hỏi sự viên mãn như vậy và không chấp nhận điều gì kém hơn.” Tuy nhiên, Harriet không bao giờ tìm thấy tình yêu nào như thế và cống hiến cuộc đời mình cho thơ ca, sáng lập tạp chí Thơ Ca, tờ tạp chí đã trở thành bệ phóng đưa Ezra Pound trở thành một hiện tượng quốc gia14.
14 Ezra Pound Weston Loomis (30/10/1885 - 01/11/1972) là nhà thơ và nhà phê bình người Mỹ. Ông là một nhân vật quan trọng trong chủ nghĩa hiện đại.
Root và Burnham trở nên giàu có. Hàng tá hợp đồng chảy vào công ty của họ, một phần do Root đã giải quyết được bài toán khiến các công ty xây dựng ở Chicago đau đầu kể từ khi thành phố ra đời. Với thành quả này, ông đã giúp thành phố trở thành cái nôi của các tòa nhà chọc trời mặc dù không thiếu những nơi có địa chất phù hợp để xây dựng cao ốc.
Trong những năm 1880, Chicago trải qua sự bùng nổ tăng trưởng, khiến giá đất cao ngất ngưởng, đặc biệt tại trung tâm của thành phố - Loop, khu vực được đặt tên theo các đường vòng nơi xe điện quay đầu. Do giá đất tăng, các chủ đất tìm cách cải thiện lợi tức đầu tư của họ. Uớc muốn vươn lên bầu trời xuất hiện.
Trở ngại cơ bản nhất ngăn cản con người thực hiện ước mơ này là khả năng leo cầu thang, nhất là sau khi ăn những bữa người ta thường ăn ở thế kỷ XIX. Tuy nhiên trở ngại này đã bị loại bỏ bởi sự ra đời của thang máy và quan trọng không kém, cơ chế an toàn trong trường hợp thang máy rơi tự do của Elisha Graves Otis. Mặc dù vậy, các rào cản khác vẫn còn, trong đó rào cản cơ bản nhất là nền đất không ổn định của Chicago, điều khiến một kĩ sư coi những thách thức trong việc làm móng ở Chicago là “không giống với bất cứ nơi nào trên thế giới.” Nền đá cứng nằm cách mặt đất ba mươi tám mét, quá sâu để có thể tiếp cận một cách tiết kiệm và an toàn bằng các phương pháp xây dựng của những năm 1880. Giữa nền đá này và bề mặt là một hỗn hợp nhão nhoét của cát, đất sét và nước mà các kĩ sư gọi là gumbo. Hỗn hợp này bị nén dưới sức nặng của cả những công trình khiêm tốn nhất và khiến các kiến trúc sư thường xuyên phải thiết kế các tòa nhà với vỉa hè cắt tầng đầu tiên ở mức mười xen-ti-mét trên nền đất, với hi vọng rằng sau khi công trình hoàn thiện, gumbo sẽ được nén xuống và vỉa hè sẽ được kéo xuống ngang bằng với mặt đất.
Chỉ có hai cách để giải quyết vấn đề nền đất: Xây dựng các công trình thấp nhằm tránh vấn đề, hoặc đưa các thùng khí nén xuống nền đá. Kỹ thuật thứ hai đòi hỏi công nhân phải đào hầm sâu, gia cố các bờ tường và bơm đầy không khí đến mức áp lực tạo ra sẽ giữ cho hỗn hợp gumbo không bị trôi, một phương pháp tai tiếng vì đã tạo nên các cột móng cong vênh chết người và chủ yếu được sử dụng bởi các kiến trúc sư cầu đường - những người không có lựa chọn nào khác. John Augustus Roebling đã dùng các thùng khí nén trong việc xây dựng cây cầu Brooklyn nổi tiếng, nhưng phương pháp này đã được áp dụng ở Mỹ từ trước đó, trong giai đoạn từ năm 1869 đến năm 1874, khi James B. Eads xây dựng một cây cầu bắc qua sông Mississippi ở St. Louis. Eads phát hiện ra rằng công trình bị uốn cong ở mức mười tám mét dưới mặt đất, khoảng bằng một nửa độ sâu mà một thùng khí nén tại Chicago được lắp đặt. Trong số 352 người đàn ông làm việc với thùng khí nén khét tiếng tại phía Đông của cầu, các tai nạn do áp lực gây ra đã giết chết mười hai người, khiến hai người tàn tật và làm bị thương sáu mươi sáu người khác, một tỷ lệ thương vong lên đến hơn 20 phần trăm.
Tuy nhiên, các chủ đất Chicago muốn lợi nhuận và ở trung tâm thành phố, lợi nhuận đồng nghĩa với độ cao. Năm 1881, Peter Chardon Brooks III, một nhà đầu tư ở Massachusetts, ủy nhiệm Burnham & Root xây dựng tòa nhà văn phòng cao nhất từng được xây ở Chicago, với cái tên ban đầu là Montauk. Trước đây, ông cũng là người đem đến cho hai kiến trúc sư hợp đồng xây dựng lớn đầu tiên của họ tại trung tâm thành phố với tòa nhà bảy tầng Grannis Block. Trong công trình đó, Burnham cho biết, “sự độc đáo của chúng tôi bắt đầu được thể hiện… Đó là một kỳ quan. Mọi người kéo đến chỉ để chiêm ngưỡng nó và thành phố tự hào về nó.” Họ di chuyển văn phòng của mình lên tầng trên cùng (một việc làm chết người, nhưng không ai biết vào thời điểm đó). Brooks muốn công trình chuẩn bị khởi công cao hơn 50 phần trăm, ông nói, “nếu nền đất cho phép.”
Các đối tác khác nhanh chóng thất vọng với Brooks. Ông kén cá chọn canh, thực dụng và dường như không quan tâm đến vẻ ngoài của tòa nhà chừng nào nó hoạt động được. Các hướng dẫn xây dựng do ông ban hành đã đi trước rất nhiều năm so với lời khuyên nổi tiếng của kiến trúc sư Louis Sullivan15 về việc vẻ ngoài của một tòa nhà phải tuân theo chức năng của nó. “Tòa nhà phải được sử dụng xuyên suốt thay vì trở thành vật trang trí,” Brooks viết. “Vẻ đẹp của nó sẽ nằm ở khả năng thích ứng với mọi điều kiện sử dụng.” Không có gì trang trí cho vẻ ngoài của chúng, không tượng đầu thú, không trán tường để tránh bám bụi. Ông muốn tất cả các đường ống lộ thiên. “Việc giấu tất cả các đường ống là một sai lầm, chúng cần phải được đem ra bên ngoài và được sơn một cách đẹp đẽ và khoa trương nếu cần.” Sự thực dụng của ông còn tiến đến các phòng tắm trong tòa nhà. Root đã thiết kế tủ đựng đồ nằm dưới bồn rửa. Brooks phản đối: Một cái tủ như vậy sẽ trở thành “ổ đầy chuột và bụi bặm.”
15 Louis Henry Sullivan (03/09/1856 - 14/04/1924) là kiến trúc sư người Mỹ, người được gọi là “cha đẻ của các tòa nhà chọc trời” và “cha đẻ của chủ nghĩa kiến trúc hiện đại.”
Phần khó khăn nhất của tòa nhà Montauk là nền móng. Ban đầu Root lên kế hoạch áp dụng kĩ thuật mà các kiến trúc sư ở Chicago đã thực hiện từ năm 1873 để hỗ trợ các tòa nhà bình thường. Các công nhân sẽ dựng lên các kim tự tháp bằng đá trên các sàn tầng hầm. Đáy rộng của mỗi kim tự tháp sẽ giúp phân tán lực và giảm lún; đầu nhọn sẽ hỗ trợ các cột chịu lực. Tuy nhiên, để duy trì một tòa nhà mười tầng bằng đá và gạch, các kim tự tháp sẽ phải rất lớn và tầng hầm sẽ biến thành một Kim tự tháp Giza bằng đá. Brooks phản đối ý tưởng này. Ông muốn các tầng hầm là nơi dành cho các nồi hơi và máy phát điện.
Giải pháp do Root đưa ra sau đó có vẻ quá đơn giản để có thể tin là nó sẽ hiệu quả. Theo đó, các công nhân sẽ đào xuống lớp đất sét chắc chắn đầu tiên, còn được gọi là đất cát và trải một bệ bê tông dày sáu mươi xen-ti-mét. Trên đó, các công nhân sẽ lắp đặt một lớp đường ray thép kéo dài từ đầu này đến đầu kia của bệ và trên đó đặt tiếp một lớp thứ hai ở bên phải. Các lớp bê tông tiếp theo cũng sẽ được sắp xếp như vậy. Sau khi hoàn thành, hành lang dầm từ thép này sẽ được lấp đầy và che phủ bằng xi măng Portland để tạo nên một chiếc bè cứng và rộng mà Root gọi là một cái móng nổi. Những gì ông đề xuất là một tầng đá nhân tạo có tác dụng trở thành sàn của tầng hầm. Brooks thích ý tưởng này.
Sau khi hoàn thành, tòa nhà Montauk cao lớn và mới lạ đến mức nó thách thức các định nghĩa thông thường. Không ai biết ai là người đặt ra thuật ngữ này, nhưng nó rất phù hợp và Montauk trở thành tòa nhà đầu tiên được gọi là một tòa nhà chọc trời. “Nếu như Chartres là một dấu mốc trong kiến trúc nhà thờ Gothic,” Thomas Talmadge, một kiến trúc sư và nhà phê bình ở Chicago đã viết, “thì Montauk là một dấu mốc trong việc xây dựng các tòa nhà thương mại cao tầng.”
Đây là thời kỳ hoàng kim của các phát minh kiến trúc. Thang máy trở nên nhanh hơn và an toàn hơn. Những công nhân làm kính trở nên lão luyện trong việc xoay các tấm kính lớn. Kiến trúc sư William Jenney của công ty Loring & Jenney - nơi Burnham bắt đầu sự nghiệp kiến trúc của mình - đã thiết kế tòa nhà đầu tiên sử dụng khung kim loại chịu lực, trong đó gánh nặng truyền tải trọng được chuyển từ các bức tường bên ngoài sang một bộ khung làm từ sắt và thép. Burnham và Root nhận ra rằng phát minh của Jenney giải phóng các công nhân khỏi những hạn chế vật lý cuối cùng về độ cao. Họ sử dụng nó để xây dựng những tòa nhà ngày càng cao, các thành phố trên bầu trời trở thành nơi sinh sống của các doanh nhân, những người có biệt danh “cư dân vách đá.” Theo phóng viên Lincoln Steffens, đó là những người đàn ông “sẽ không làm việc trong một văn phòng nếu nó không ở trên cao, nơi có không khí mát mẻ và trong lành, tầm nhìn rộng lớn và đẹp đẽ và là nơi có sự yên tĩnh trong trung tâm của doanh nghiệp.”
Burnham và Root đã trở thành những người đàn ông giàu có. Không giàu có như Pullman, không đủ giàu để được coi là các công dân hạng nhất, sánh ngang với Potter Palmer và Philip Armour, hoặc được đưa tin về váy áo của vợ trên báo chí thành phố, nhưng giàu hơn bất cứ điều gì hai người từng tưởng tượng, đủ để mỗi năm Burnham mua một thùng rượu vang Madeira hảo hạng và ủ bằng cách vận chuyển chúng hai vòng quanh thế giới trên tàu vận tải chậm.
Với việc công ty làm ăn khởi sắc, tính cách của từng người dần lộ ra. Burnham là một nghệ sĩ tài năng và một kiến trúc sư đáng được ghi nhận, nhưng điểm mạnh nhất của ông nằm ở khả năng thuyết phục khách hàng và hiện thực hóa các thiết kế thanh lịch của Root. Burnham đẹp trai, cao lớn và mạnh mẽ, với đôi mắt màu xanh lam sống động. Tất cả những đặc điểm này đã thu hút khách hàng và bạn bè của ông giống như cách một ống kính tập trung ánh sáng. “Daniel Burnham Hudson là một trong những người đàn ông đẹp trai nhất mà tôi từng thấy,” Paul Starrett - người sau đó là trưởng nhóm xây dựng của tòa nhà Empire State - cho biết. Ông tham gia Công ty Burnham & Root vào năm 1888 với tư cách là trợ lí. “Cách Burnham giành lấy hợp đồng thật dễ dàng. Phong thái và ngoại hình đã giúp ông chiến thắng một nửa trận chiến. Ông chỉ cần khẳng định những điều quen thuộc nhất và chúng nghe có vẻ quan trọng và có sức thuyết phục.” Starrett cho biết ông cảm thấy cảm động bởi những lời khuyên thường xuyên của Burnham: “Đừng lên những kế hoạch nhỏ bé; chúng không thể làm sục sôi tinh thần của chúng ta.”
Burnham hiểu rằng Root là cỗ máy sáng tạo nghệ thuật của công ty. Ông tin Root sở hữu một khả năng thiên tài trong việc hình dung toàn bộ công trình hoàn chỉnh một cách nhanh chóng. “Tôi chưa từng thấy ai như anh ấy trong lĩnh vực này,” Burnham cho biết. “Anh ấy sẽ trở nên im lặng và lơ đãng, đôi mắt nhìn xa xăm và các tòa nhà sẽ xuất hiện trước mặt anh ấy - rõ ràng đến từng viên đá.” Burnham cũng biết Root ít quan tâm đến các khía cạnh kinh doanh của kiến trúc, cũng như việc nuôi dưỡng các mối quan hệ tại các câu lạc bộ như Chicago Club hay Union League - một việc làm sẽ đem lại các hợp đồng.
Mỗi buổi sáng chủ nhật, Root chơi đàn đại phong cầm tại nhà thờ Giáo hội Trưởng lão Đệ nhất. Ông viết bài phê bình opera cho tờ Chicago Tribune. Ông đọc sách triết học, khoa học, nghệ thuật và tôn giáo và được giới tinh hoa của Chicago biết đến vì khả năng trò chuyện về hầu như bất kỳ chủ đề nào với một sự hiểu biết lỗi lạc. “Tài ăn nói của anh ấy thật phi thường,” một người bạn nói. “Có vẻ như không có chủ đề nào anh ấy không nghiên cứu và học hỏi một cách thấu đáo.” Ngoài ra, Root còn sở hữu một khiếu hài hước sắc sảo. Một buổi sáng chủ nhật, ông chơi đàn đại phong cầm với một vẻ nghiêm trang đặc biệt. Phải mất một lúc mới có người nhận ra ông đang chơi bài “Shoo, Fly16”. Một người phụ nữ cho biết, khi Burnham và Root ở cạnh nhau, “tôi luôn nghĩ đến hình ảnh một cái cây cổ thụ với sấm sét xung quanh.”
16 “Shoo, Fly” - tên đầy đủ là “Shoo, Fly, Don’t Bother Me!” (Biến đi, Ruồi, Đừng làm phiền ta!) là một bài hát nhiều khả năng được viết bởi Giám mục T. Brigham, lần đầu tiên được xuất bản vào năm 1869. Ngày nay, nó là bài hát yêu thích của trẻ em.
Hai người đều công nhận và tôn trọng các kĩ năng của người kia. Sự hài hòa này được phản ánh trong các hoạt động của văn phòng họ, một văn phòng mà theo một nhà sử học, hoạt động với độ chính xác cao của một “lò mổ”, một so sánh có cơ sở, nhất là khi Burnham có mối liên hệ chặt chẽ với các trại gia súc. Tuy nhiên, Burnham cũng tạo ra một nền văn hóa doanh nghiệp sẽ chỉ xuất hiện sau đó một thế kỷ. Ông lắp đặt một phòng tập thể dục. Trong giờ ăn trưa, nhân viên chơi bóng ném với nhau. Burnham dạy đấu kiếm. Root chơi các bản độc tấu ngẫu hứng trên một cây đàn dương cầm đi thuê. “Có thể cảm thấy không khí làm việc trong văn phòng,” Starrett nói, “nhưng tinh thần của nơi đây thú vị, thoải mái và nhân văn hơn các văn phòng khác mà tôi đã từng làm việc.”
Burnham biết rằng ông và Root đã đạt đến một mức độ thành công không thể có được nếu làm việc một mình. Sự đồng thuận trong cách họ làm việc cho phép họ thực hiện các dự án ngày càng thử thách và táo bạo hơn, tại thời điểm mà các kiến trúc sư luôn thử nghiệm những điều mới mẻ và khi sự gia tăng đáng kể của chiều cao và trọng lượng các tòa nhà cũng làm gia tăng nguy cơ thất bại thê thảm. Harriet Monroe đã viết, “Điểm mạnh của người này trở thành điều cần thiết với người kia.”
Cả công ty lẫn thành phố đều phát triển. Nó trở nên lớn hơn, cao hơn và giàu có hơn; nhưng nó cũng trở nên bẩn thỉu hơn, tối tăm hơn và nguy hiểm hơn. Làn khói than độc hại phủ đen các con đường trong thành phố và thỉnh thoảng còn giảm tầm nhìn xuống chỉ vài mét, đặc biệt là vào mùa đông, khi các lò than hoạt động hết công suất. Sự di chuyển liên tục không ngừng nghỉ của xe lửa, xe cáp, xe đẩy và các loại xe chở khách - xe ngựa bốn bánh, xe ngựa hai mui, xe ngựa mui xếp, xe ngựa hai chỗ và xe tang, tất cả với bánh xe bọc sắt đập vào vỉa hè như búa tạ - tạo ra một tiếng sấm liên tục không ngừng nghỉ cho đến nửa đêm và khiến việc mở cửa sổ đêm hè là điều không thể. Trong các khu phố nghèo, rác rưởi chất đống trong hẻm và các hộp rác khổng lồ đầy tràn đó đã trở thành phòng tiệc cho chuột và ruồi nhặng. Hàng tỷ con ruồi. Xác chết của chó, mèo, ngựa thường không được dọn dẹp. Đến tháng 1, chúng đóng băng đến rúm ró, đến tháng 8 chúng nở phồng và vỡ nát. Nhiều xác động vật bị ném xuống sông Chicago, động mạch thương mại chính của thành phố. Trong các cơn mưa lớn, nước sông chảy thành dòng nhầy nhụa vào hồ Michigan, đến những cái tháp đánh dấu các đường ống dẫn nước sạch của thành phố. Khi mưa xuống, bất kỳ con phố nào không được lát bằng đá đều bốc lên mùi phân ngựa; bùn và rác thải tràn ra giữa các khối đá granite như mủ từ vết thương. Chicago khiến các du khách kinh ngạc và khiếp đảm. Biên tập viên của Pháp Octave Uzanne gọi nó là “thành phố Gordian, quá dư thừa, quá độc địa.” Tác giả và nhà xuất bản Paul Lindau thì mô tả thành phố như là “một màn trình diễn thoát y khổng lồ, ghê rợn nhưng kiệt xuất.”
Burnham yêu Chicago vì cơ hội nó dành cho ông, nhưng ông đã trở nên cảnh giác với nó. Đến năm 1886, ông và Margaret đã có năm đứa con: hai con gái và ba con trai, cậu bé út tên là Daniel, sinh ra vào tháng 2. Năm đó Burnham đã mua một trang trại cũ cạnh hồ trong ngôi làng Evanston yên tĩnh, ngôi làng được một số người đặt cho biệt danh “Athens của vùng ngoại ô.” Ngôi nhà có hai tầng với mười sáu phòng, được bao quanh bởi những “cây cổ thụ tuyệt vời,” và nằm trên một mảnh đất hình chữ nhật trải dài đến hồ. Ông đã mua nó dù vợ và cha vợ ông ban đầu phản đối, đồng thời cũng không nói với mẹ ông về kế hoạch chuyển nhà của mình cho đến khi việc mua bán được hoàn tất. Sau đó, ông đã viết cho bà một lời xin lỗi. “Con làm điều này,” ông giải thích, “vì con không thể chịu đựng được cảnh các con mình trên đường phố của Chicago...”
Mặc dù thành công đến một cách dễ dàng với Burnham và Root, tuy nhiên quan hệ đối tác của họ cũng phải trải qua không ít thử thách. Năm 1885, một đám cháy phá hủy tòa nhà Grannis Block, công trình hàng đầu của họ. Một trong số họ đang ở trong văn phòng vào thời điểm đó và đã thoát ra bằng cách chạy xuống một cầu thang đang cháy. Họ chuyển đến tầng trên cùng của tòa nhà Rookery. Ba năm sau, một khách sạn họ thiết kế ở Kansas City sụp đổ trong quá trình xây dựng, làm bị thương vài người và cướp đi sinh mạng của một người. Burnham rất đau lòng. Thành phố đã mở một cuộc điều tra, trong đó tập trung sự chú ý vào thiết kế của tòa nhà. Lần đầu tiên trong sự nghiệp của mình, Burnham thấy mình phải đối mặt với một cuộc tấn công của dư luận. Ông viết cho vợ: “Bất kể báo chí nói gì, đừng lo lắng về vụ việc này. Chắc chắn sẽ có các chỉ trích gay gắt và nhiều rắc rối trước khi chúng ta vượt qua, nhưng chúng ta sẽ đối mặt với tất cả bằng một phong thái đơn giản, thẳng thắn và cứng cỏi, những thứ đó thì chúng ta có thừa.”
Vụ việc đã khiến ông bị tổn thương sâu sắc, nhất là khi năng lực của ông phải chịu sự đánh giá của một cơ quan ông không có ảnh hưởng. “Dự thẩm viên,” ông viết cho Margaret ba ngày sau khi sự việc xảy ra, “là một bác sĩ tầm thường nhỏ mọn, một kẻ thủ đoạn chính trị, không có não và hắn khiến anh phát mệt.” Burnham buồn bã, cô đơn và muốn về nhà. “Anh chỉ mong ngóng ngày quay về và được bình an một lần nữa, với em.”
Cú đấm thứ ba cũng đến trong khoảng thời gian này, nhưng theo một cách khác. Mặc dù Chicago đã nhanh chóng được công nhận là một đặc khu công nghiệp và thương mại, những nhà lãnh đạo thành phố cảm thấy tổn thương sâu sắc trước sự vu khống từ New York rằng Chicago là thành phố kém văn hóa. Để giải quyết sự thiếu hụt này, Ferdinand W. Peck, một danh nhân Chicago, đã đề xuất xây dựng một thính phòng to lớn và truyền âm hoàn hảo như một cách bịt miệng tất cả những lời dèm pha từ phía Đông, đồng thời tạo ra lợi nhuận để thúc đẩy vị thế thành phố. Peck hình dung bao quanh thính phòng khổng lồ này là một quần thể khách sạn, phòng tiệc và văn phòng. Các kiến trúc sư ăn tối tại nhà hàng Kinsley, một nhà hàng có danh tiếng ở Chicago sánh ngang với danh tiếng của nhà hàng Delmonico ở New York17, đồng ý rằng đây là công trình kiến trúc quan trọng nhất trong lịch sử thành phố và nhiều khả năng sẽ rơi vào tay Burnham & Root. Burnham cũng tin tưởng như vậy.
17 Vào thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, nhà hàng Delmonico ở New York được coi là nhà hàng sang trọng tốt nhất Mỹ.
Peck đã chọn kiến trúc sư Chicago Dankmar Adler. Peck biết rằng nếu khả năng truyền âm của thính phòng không hoàn hảo, công trình sẽ là một thất bại bất kể tổng quan có sang trọng thế nào đi chăng nữa. Chỉ có Adler trước đó đã chứng minh khả năng hiểu rõ các nguyên tắc thiết kế thính phòng. “Burnham không hài lòng,” Louis Sullivan - người đã trở thành đối tác của Adler - viết, “và John Root cũng không hứng thú gì.” Khi Root nhìn bản vẽ ban đầu của thính phòng, ông nói trông có vẻ như Sullivan chuẩn bị “bôi nhọ mặt tiền tòa nhà bằng các họa tiết trang trí.”
Ngay từ lúc bắt đầu đã có căng thẳng giữa hai công ty, mặc dù không ai có thể đoán được rằng căng thẳng sẽ bùng nổ suốt nhiều năm sau đó trong sự chỉ trích gay gắt của Sullivan với thành tựu lớn nhất của Burnham, sau khi sự nghiệp của Sullivan đã tan tành mây khói trong rượu chè và tiếc nuối. Vào thời điểm hiện tại, sự căng thẳng chỉ phảng phất như một sự rung động, hay như tiếng kêu không nghe thấy của thép bị quá tải. Nó phát sinh từ niềm tin trái ngược nhau về bản chất và mục đích của kiến trúc. Sullivan coi mình trước hết là một nghệ sĩ, một người theo trường phái lí tưởng. Trong cuốn tự truyện của mình, ông luôn gọi mình ở ngôi thứ ba và mô tả bản thân là “một người thuần khiết với trái tim được bao bọc trong nghệ thuật, trong triết học, trong tôn giáo, trong các vẻ đẹp tự nhiên, trong sự tìm kiếm thực tại loài người, trong đức tin sâu sắc về tính thiện của quyền lực.” Ông gọi Burnham là một “tên lái buôn kếch xù” chỉ chăm chăm xây dựng các tòa nhà lớn nhất, cao nhất, đắt đỏ nhất. “Ông ta là đồ con voi, thô lỗ và vô duyên.”
Công nhân bắt đầu xây dựng Tòa nhà Thính phòng vào ngày 1 tháng 6 năm 1887. Đây là một công trình xa hoa ra đời mà vào thời điểm đó, đây là tòa nhà tư nhân lớn nhất Mỹ. Nhà hát của nó có sức chứa hơn bốn ngàn chỗ ngồi, nhiều hơn nhà hát Opera Metropolitan ở New York hai trăm chỗ. Nó được trang bị điều hòa với một hệ thống thổi khí qua nước đá. Các tòa nhà xung quanh bao gồm các văn phòng thương mại, một phòng tiệc lớn và một khách sạn với bốn trăm phòng sang trọng. Một du khách Đức cho biết chỉ cần một cuộc gọi đơn giản từ điện thoại trên tường cạnh giường của mình, ông có thể yêu cầu khăn tắm, văn phòng phẩm, nước đá, báo, rượu whisky, hay đánh giày. Thính phòng đã trở thành tòa nhà nổi tiếng nhất tại Chicago. Tổng thống của Mỹ Benjamin Harrison đã tham dự lễ khai trương tòa nhà.
Nhưng những thất bại này chỉ là những trở ngại nhỏ đối với Burnham và Root. Điều tồi tệ hơn chẳng bao lâu nữa sẽ xảy ra, nhưng đến ngày 14 tháng 2 năm 1890, ngày diễn ra cuộc bỏ phiếu đăng cai hội chợ, cuộc đời hai người dường như vẫn là một chuỗi thành công không ngừng.
***
Bên ngoài tòa soạn Tribune, sự im lặng bao trùm. Đám đông khán giả đang cần một vài phút để xử lí thông tin. Một người đàn ông với bộ râu dài là một trong những người đầu tiên phản ứng lại. Anh ta đã thề không cạo râu cho đến khi Chicago giành quyền đăng cai hội chợ. Giờ đây anh bước lên bậc thềm liền kề ngân hàng Union Trust Company. Đến bậc cuối cùng anh ta thét lên một tiếng mà những người nghe thấy có thể so sánh với tiếng kêu của tên lửa.
Đám đông hưởng ứng tiếng thét của anh ta và hai ngàn người lớn cùng vài đứa trẻ - chủ yếu là những thằng bé đưa điện báo và liên lạc - liền bùng lên với tiếng reo hò xé toạc bức tường bằng gạch, đá và thủy tinh như một cơn lũ quét. Những thằng bé liên lạc lao vút đi với tin tức mới nhận được và trên toàn thành phố những thằng bé đưa điện báo chạy hết tốc lực đến các văn phòng của Công ty Điện báo Bưu chính và Western Union hoặc nhảy lên xe đạp, hay có đứa phóng đến khách sạn Grand Pacific, đứa khác đến khách sạn Palmer House, những đứa còn lại đến Richelieu, Tòa nhà Thính phòng, Wellington, những ngôi nhà lộng lẫy trên đường Michigan và Prairie, các câu lạc bộ - Chicago, Century, Union League - và các nhà thổ đắt đỏ, nhất là nhà Carrie Watson với nhiều gái đẹp và những dòng thác sâm banh.
Một thằng bé đưa điện báo xuyên qua bóng tối đến một con hẻm không có ánh sáng, bốc lên mùi trái cây thối và vang lên những tiếng rít từ đèn ga trên những con phố sau lưng. Nó tiến đến gõ một cánh cửa và bước vào một căn phòng toàn đàn ông, cả trẻ lẫn già, tất cả dường như đang cùng nói chuyện, một vài người say mèm. Chiếc quan tài tại trung tâm của căn phòng trở thành một quầy bar. Ánh sáng lờ mờ từ đèn ga ẩn sau các hộp sọ được gắn trên các bức tường. Một vài hộp sọ khác nằm rải rác khắp phòng. Thòng lọng cũng như các loại vũ khí và những cái chăn bết máu treo lủng lẳng trên tường.
Những cổ vật này đánh dấu trụ sở của Câu lạc bộ Whitechapel, đặt tên theo khu ổ chuột ở London mà hai năm trước đó tên giết người hàng loạt Jack Đồ Tể đã thực hiện các vụ sát nhân liên hoàn của mình. Chủ tịch câu lạc bộ giữ chức danh chính thức là Đồ Tể; các thành viên chủ yếu là nhà báo, họ mang đến câu lạc bộ những câu chuyện về các vụ giết người thu thập được trên đường phố. Các loại vũ khí treo trên tường đã được sử dụng trong các vụ giết người có thực và được Sở cảnh sát Chicago cung cấp; các hộp sọ được một bác sĩ tâm lí ở bệnh viện tâm thần gần đó thu thập; cái chăn được một thành viên mua lại trong một cuộc giao tranh giữa quân đội và người Sioux.
Sau khi biết Chicago đã giành quyền đăng cai tổ chức hội chợ, những thành viên của Câu lạc bộ Whitechapel đã soạn một bức điện tín cho Chauncey Depew, người được coi là biểu tượng của New York và chiến dịch vận động đăng cai tổ chức hội chợ của thành phố này. Trước đây, Depew đã hứa với các thành viên của Câu lạc bộ Whitechapel rằng nếu Chicago thắng, ông sẽ trình diện tại cuộc họp tiếp theo của câu lạc bộ để Đồ Tể xâu xé mình - một cách ẩn dụ, ông nghĩ thế, mặc dù với câu lạc bộ Whitechapel thì không ai có thể chắc chắn được điều gì. Quan tài của câu lạc bộ đã từng được sử dụng để vận chuyển xác một thành viên tự tử. Sau khi nhận lấy xác của người này, câu lạc bộ đã kéo nó lên đồi cát Indiana trên hồ Michigan, rồi các thành viên đã dựng lên một giàn thiêu khổng lồ. Họ đặt cái xác lên giàn thiêu và châm lửa. Mang theo đuốc và mặc áo trùm đầu màu đen, họ đi vòng quanh ngọn lửa, hát thánh ca cho người quá cố giữa những ngụm rượu whisky. Câu lạc bộ cũng có thông lệ cử các thành viên mặc áo choàng đi bắt cóc các nhân vật nổi tiếng trong một chiếc xe màu đen với cửa sổ che kín, không một lời giải thích.
Tại Washington, Depew nhận được điện tín của câu lạc bộ hai mươi phút sau khi cuộc bỏ phiếu cuối cùng diễn ra, khi phái đoàn đại biểu của Chicago bắt đầu ăn mừng tại khách sạn Willard gần Nhà Trắng. Bức điện hỏi, “Khi nào chúng tôi có thể nhìn thấy anh trên bàn mổ của chúng tôi?”
Depew hồi âm ngay lập tức: “Tôi sẽ đến ngay khi có yêu cầu và hoàn toàn sẵn sàng hiến tặng cơ thể mình cho nền khoa học Chicago sau các sự kiện của ngày hôm nay.”
Mặc dù ông đã lịch thiệp thừa nhận thất bại, Depew nghi ngờ rằng Chicago không thực sự hiểu rõ các thách thức nằm ở phía trước. “Hội chợ tuyệt vời nhất từ trước đến nay vừa kết thúc thành công tại Paris,” ông nói với tờ Tribune. “Bất cứ điều gì chúng ta làm bây giờ đều sẽ được đem ra so sánh với nó. Nếu các anh làm được hơn thế thì các anh sẽ thành công. Nếu không, các anh sẽ phải chịu trách nhiệm với toàn thể nhân dân Mỹ vì đã nhận làm điều vượt quá khả năng.”
“Coi chừng,” ông cảnh báo. “Hãy bảo trọng!”
***
Chicago nhanh chóng thành lập một công ty chính thức mang tên Công ty hội chợ Thế giới Hoa Kỳ, nhằm cung cấp tài chính và xây dựng hội chợ. Một cách lặng lẽ, các quan chức đã khẳng định rõ ràng rằng Burnham và Root sẽ là nhà thiết kế chính. Gánh nặng của việc khôi phục niềm tự hào và sự nổi bật của quốc gia trước thành công của hội chợ tại Paris đè nặng lên vai Chicago và Chicago đã kiên quyết nhưng cẩn trọng trao lại gánh nặng này cho tầng cao nhất của tòa nhà Rookery.
Thất bại là điều không được phép. Burnham hiểu rõ nếu hội chợ thất bại, danh dự quốc gia sẽ bị tổn hại, Chicago sẽ bị sỉ nhục và công ty của ông sẽ bị nghiền nát. Tất cả những người Burnham gặp - một người bạn, một biên tập viên, một thành viên câu lạc bộ ông tham gia - đều nói với ông rằng, đất nước đang mong chờ một điều gì đó vĩ đại từ hội chợ. Và mong chờ nó trong một khoảng thời gian ngắn kỷ lục. Chỉ riêng việc xây dựng Tòa nhà Thính phòng đã mất gần ba năm và đẩy Louis Sullivan đến bờ vực phá sản. Giờ đây, Burnham và Root được yêu cầu phải xây dựng gần như cả một thành phố trong cùng một khoảng thời gian - không phải bất kỳ thành phố nào, mà là một thành phố sẽ phải vượt trên sự tuyệt vời của hội chợ Paris. Hội chợ cũng sẽ phải tạo ra lợi nhuận. Với những công dân hạng nhất của Chicago, lợi nhuận là vấn đề danh dự cá nhân và trách nhiệm công dân.
Theo các tiêu chuẩn kiến trúc truyền thống, vượt qua những thách thức này dường như là một điều không thể. Một kiến trúc sư không thể làm điều đó, nhưng nếu sát cánh cùng nhau, Burnham tin rằng mình và Root có ý chí và sức mạnh, cùng nhau tổ chức và thiết kế để thành công. Họ đã cùng nhau đánh bại trọng lực và chinh phục nền gumbo mềm của địa chất Chicago, thay đổi vĩnh viễn cảnh quan đô thị của thành phố. Giờ đây, họ sẽ cùng nhau xây dựng hội chợ và thay đổi lịch sử. Nó có thể thành công, vì nó phải thành công, nhưng các thách thức ở phía trước như con quái vật khổng lồ. Mặc dù những lời cảnh báo của mình nhanh chóng trở nên lỗi thời, Depew có khả năng nắm bắt bản chất tình hình với sự dí dỏm và súc tích. “Chicago giống như người đàn ông kết hôn với một người phụ nữ đã có mười hai đứa con,” ông nói. “Rắc rối chỉ mới bắt đầu.”
Tuy nhiên, ngay cả Depew cũng không thể lường trước được mức độ nghiêm trọng của gánh nặng đang đè lên vai Burnham và Root. Tại thời điểm này, ông và họ chỉ thấy thách thức ở hai vấn đề cơ bản, thời gian và tiền bạc và chỉ có chúng là hiện rõ mười mươi.
Chỉ Poe18 mới có khả năng tưởng tượng ra phần còn lại.
18 Edgar Allan Poe (19/01/1809 - 07/10/1849) là nhà văn, biên tập viên và nhà phê bình văn học Mỹ. Poe được biết đến nhiều nhất vì thơ và truyện ngắn, đặc biệt là những câu chuyện bí ẩn và rùng rợn của ông.