• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Ác quỷ thành phố trắng
  3. Trang 12

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 72
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • More pages
  • 72
  • Sau

Nguồn cung thiết yếu

Vào một buổi sáng tháng 8 năm 1886, khi trên đường phố nhiệt độ tăng cao như cơn sốt của trẻ con, một người đàn ông tự xưng là H. H. Holmes bước xuống một trạm xe lửa ở Chicago. Không khí mòn mỏi và tĩnh lặng, tràn ngập mùi đào thối, phân ngựa và mùi than gầy Illinois cháy dở. Nửa tá đầu máy xe lửa đứng ở sân ga, phả hơi nước vào bầu trời vốn đã vàng ố.

Holmes đã mua vé đến một ngôi làng tên Englewood tại thị trấn Lake, một đô thị với hai trăm ngàn cư dân tiếp giáp với ranh giới phía Nam Chicago. Thị trấn bao gồm Hiệp hội Chăn nuôi và hai công viên lớn: công viên Washington - với những bãi cỏ, vườn hoa và một đường đua nổi tiếng và công viên Jackson, một bãi chất thải chưa phát triển hoang vắng bên bờ hồ.

Mặc dù nhiệt độ ngoài trời tăng cao, Holmes trông vẫn sảng khoái và tươi tắn. Khi y đi trong nhà ga, ánh mắt của những cô gái trẻ rơi xung quanh y như cánh hoa bị gió thổi.

Holmes bước đi đầy tự tin, ăn mặc chải chuốt, gợi lên ấn tượng về sự giàu sang và thành tựu. Y hai mươi sáu tuổi, cao một mét bảy mươi hai, nặng bảy mươi cân. Y có mái tóc đen và đôi mắt màu xanh nổi bật, giống đôi mắt của một nhà thôi miên.

“Đôi mắt của Holmes rất lớn và luôn mở to,” một bác sĩ tên John L. Capen sau này quan sát. “Chúng có màu xanh. Những tên sát nhân khét tiếng, cũng như những người đàn ông vĩ đại trong các lĩnh vực khác, đều có đôi mắt màu xanh.” Capen cũng nhắc đến đôi môi mỏng, bên dưới bộ ria mép đen rậm rạp. Tuy nhiên, điều khiến ông ngạc nhiên nhất là đôi tai của Holmes. “Đó là đôi tai nhỏ lạ thường và phần đỉnh giống như tai các bức tượng điêu khắc những kẻ phản diện độc ác.” Nhìn chung, Capen nói, “y trông như được đúc từ một cái khuôn rất tinh tế.”

Đối với những phụ nữ chưa nhận thức được nỗi ám ảnh thầm kín của y, Holmes rất hấp dẫn. Y phá vỡ các phép xã giao thông thường: Y đứng quá gần, nhìn quá chằm chằm, đụng chạm quá nhiều và lâu. Và phụ nữ yêu mến y vì điều đó.

Y bước ra khỏi tàu vào trung tâm Englewood và mất một lúc để kiểm tra khu vực xung quanh. Y đứng ở giao lộ giữa đường 63 và Wallace. Một cột điện ở góc phố chứa hộp báo cháy số 2475. Ở phía xa là giàn giáo của các tòa nhà ba tầng đang được xây dựng. Y nghe thấy tiếng búa đập. Những hàng cây mới trồng trông như những hàng lính, nhưng trong cái nóng và sương mù, chúng trông giống như một đội quân sa mạc khát nước. Không khí vẫn còn ẩm và tràn ngập mùi cam thảo cháy của nhựa đường mới trải. Ở một góc phố khác là cửa hàng thuốc mang tên Dược phẩm Holton.

Y rảo bước. Y đến đường Wentworth, con đường chạy dọc Bắc, Nam và là con phố thương mại chính của Englewood. Vỉa hè chen chúc ngựa, xe ngựa kéo và xe ngựa hai chỗ. Gần góc đường 63 và Wentworth, y đi qua một trạm cứu hỏa là trụ sở của Công ty Động cơ số 51. Kế bên là một đồn cảnh sát. Nhiều năm sau, một người dân làng không biết những điều rùng rợn diễn ra ở đây sẽ viết: “Mặc dù đôi lúc nhu cầu về lực lượng cảnh sát ở quận Stock Yards tăng lên đáng kể, Englewood vẫn theo đuổi nhịp sống thường nhật của mình mà ít khi cần đến sự xuất hiện của họ, ngoại trừ nhằm mục đích trang trí cảnh quan và đảm bảo những con bò không bị quấy rầy trong đồng cỏ yên bình của chúng.”

Holmes trở lại đường Wallace, nơi y nhìn thấy biển hiệu Dược phẩm Holton. Các đường ray chạy cắt ngang giao lộ. Một nhân viên bảo vệ ngồi nheo mắt trước ánh nắng mặt trời dõi theo xe lửa và vài phút lại hạ cánh cổng xuống khi một đầu máy xe lửa khác chạy qua. Nhà thuốc nằm ở góc phía Tây Bắc của giao lộ giữa đường Wallace và 63. Trải dài trên đường Wallace là một lô đất trống lớn.

Holmes bước vào hiệu thuốc và thấy một bà già tên là Holton. Y cảm nhận được sự yếu đuối như cái cách một người đàn ông có thể ngửi thấy mùi nước hoa từ người phụ nữ. Y tự xưng là một bác sĩ và dược sĩ được cấp phép rồi hỏi bà già liệu bà có tuyển giúp việc cho cửa hàng hay không. Y nói nhỏ nhẹ, thường xuyên mỉm cười và nhìn thẳng vào bà với ánh mắt xanh thật thà.

Y nói chuyện có duyên và chẳng mấy chốc bà đã tiết lộ với y nỗi buồn sâu sắc nhất của mình. Chồng bà, trong căn hộ của họ ở trên lầu, đang hấp hối vì căn bệnh ung thư. Bà thú nhận việc vừa phải quản lí cửa hàng vừa phải chăm sóc chồng trở thành một gánh nặng rất lớn.

Holmes lắng nghe với đôi mắt rưng rưng. Y chạm vào tay bà. Y nói y có thể san sẻ gánh nặng của bà. Không chỉ vậy, y còn có thể biến nhà thuốc thành một cơ sở dược phẩm phát triển mạnh và chinh phục các đối thủ cạnh tranh.

Ánh mắt y trong veo và xanh thẳm. Bà bảo với y là bà sẽ phải nói chuyện với chồng trước.

***

Bà bước lên cầu thang. Hôm nay nóng nực. Ruồi đậu trên bệ cửa sổ. Bên ngoài, một chuyến tàu khác ầm ầm chạy qua giao lộ. Than xỉ và khói trôi dạt như gạc bẩn qua cửa sổ. Đúng là bà sẽ nói chuyện với chồng, nhưng ông sắp chết và bà là quản lí cửa hàng đồng thời chịu trách nhiệm về nó, thế nên bà đã đi đến quyết định.

Chỉ riêng việc nghĩ đến người bác sĩ trẻ ấy thôi đã đem lại cho bà một cảm giác mãn nguyện mà bà đã không trải qua trong suốt một thời gian dài.

***

Holmes đã từng đến Chicago trước đây, nhưng chúng chỉ là những chuyến thăm quan ngắn ngủi. Sau này, y nói thành phố làm y ấn tượng, một điều đáng ngạc nhiên bởi như một quy luật, không có gì có thể khiến y ấn tượng, không có gì có thể làm y cảm động. Các sự kiện và con người gây cho y sự chú ý, giống như cách động vật lưỡng cư chú ý đến sự di chuyển của con mồi: Đầu tiên là sự tính toán khoảng cách một cách thuần thục như một cái máy, tiếp đến là tính toán về giá trị thu được và cuối cùng là quyết định hành động hay đứng yên. Khi y cuối cùng quyết định chuyển đến Chicago, y vẫn sử dụng tên thật của mình, Herman Webster Mudgett.

Giống như hầu hết mọi người, cảm nhận ban đầu của y về Chicago là mùi hôi khủng khiếp luôn lẩn khuất trong các khu vực quanh Hiệp hội Chăn nuôi, thứ mùi của sự thối rữa và lông cháy, “một mùi cơ bản,” Upton Sinclair19 đã viết, “thô và ráp, nặng mùi, gần như ôi khét, gợi cảm và mạnh mẽ.” Hầu hết mọi người đều thấy nó ghê tởm. Một số ít người coi nó như tiếp thêm sinh lực thường là những người đã lội trong “dòng sông tử thần” của nó - cụm từ của Sinclair và thu hoạch từ nó những khối tài sản khổng lồ. Thật dễ tưởng tượng rằng tất cả những máu me chết chóc này khiến Mudgett cảm thấy được hoan nghênh, tuy nhiên sẽ thực tế hơn nếu cho rằng mùi hôi này khiến y cảm thấy cuối cùng y cũng tìm thấy một thành phố sẽ dung túng nhiều tệ nạn hơn Đại học Gilmanton, New Hampshire, thị trấn nơi y sinh ra và nơi y trải qua thời thơ ấu với tư cách một thằng bé nhỏ con, kỳ quặc và đặc biệt sáng dạ - cái thị trấn mà, trong trí tưởng tượng tàn ác của các bạn cùng lứa, y trở thành con mồi như một hệ quả tất yếu.

19 Upton Sinclair Beall, Jr (20/09/1878 - 25/11/1968) là tác giả người Mỹ đã viết gần một trăm cuốn sách và các công trình thuộc nhiều thể loại khác nhau. Các tác phẩm của Sinclair nổi tiếng và được phổ biến rộng rãi trong nửa đầu của thế kỷ XX và ông đã giành được giải thưởng Pulitzer dành cho tiểu thuyết năm 1943.

Một kí ức tuổi thơ đeo bám y trong suốt cuộc đời. Lúc y năm tuổi, trong bộ vest đầu tiên của mình, cha mẹ gửi y đi học tại ngôi trường làng. Trong một cuốn hồi kí sau này, y viết: “Hàng ngày tôi đi qua văn phòng của một bác sĩ làng, một văn phòng mà cánh cửa của nó là hiếm khi, nếu không muốn nói là không bao giờ, khép. Nơi này trở thành một trong những điều đặc biệt gớm ghiếc đối với tôi, một phần vì nó là nguồn gốc của thứ hỗn hợp buồn nôn đã khủng bố tuổi thơ của tôi (trong giai đoạn này thuốc cho trẻ em chưa ra đời) và một phần bởi vì những tin đồn không rõ ràng mà tôi chỉ nghe được thoáng qua.”

Trong những ngày đó, văn phòng của bác sĩ có thể là một nơi đáng sợ thực sự. Tất cả các bác sĩ, theo một nghĩa nào đó, đều không chuyên. Những người giỏi nhất trong số họ đã mua tử thi để nghiên cứu. Họ trả tiền mặt, không hỏi han và bảo quản các phần nội tạng mà họ quan tâm trong một chai lớn. Khung xương được treo trong văn phòng để dễ dàng tham khảo giải phẫu; một số khung xương trở thành các tác phẩm nghệ thuật chi tiết và được lắp với nhau một cách chính xác - các mảnh xương được tẩy trắng và được gắn với mảnh xương bên cạnh bằng đồng thau, dưới một hộp sọ cười toe toét và cái xương vai bóng loáng - trông chúng có vẻ như đã sẵn sàng chạy ào xuống phố để bắt chuyến xe cáp tiếp theo.

Hai đứa trẻ lớn tuổi hơn phát hiện ra nỗi sợ của Mudgett, tóm y và kéo lê y đang “vật lộn và gào thét” vào văn phòng của bác sĩ. “Chúng không dừng lại,” Mudgett đã viết, “cho đến khi tôi mặt đối mặt với một trong những bộ xương cười toe toét, với cánh tay dang ra, dường như đã sẵn sàng để tóm lấy tôi.”

“Đó là một việc làm xấu xa và nguy hiểm,” y viết, “nhưng nó đã trở thành một phương pháp trị liệu hữu hiệu, giúp tôi không còn sợ hãi và đầu tiên, khắc sâu trong tôi một sự tò mò mạnh mẽ, rồi sau đó là ham muốn học hỏi - điều này đã khiến tôi chọn nghề y nhiều năm sau đó.”

Sự việc này có lẽ đã xảy ra, nhưng với một kịch bản khác. Những đứa bé kia phát hiện ra rằng nạn nhân năm tuổi của chúng không mảy may bận tâm về chuyến tham quan; và thay vì vật lộn và gào thét, y chỉ nhìn chằm chằm vào bộ xương với sự thưởng thức lạnh lùng.

Khi đôi mắt y quay lại nhìn những kẻ bắt cóc mình, chúng mới là những kẻ bỏ chạy.

***

Gilmanton là một làng nông nghiệp nhỏ nằm trong khu vực hồ của New Hampshire, đủ hẻo lánh để cư dân của nó không được tiếp cận với nhật báo và hiếm khi nghe thấy tiếng thét của còi tàu. Mudgett có hai anh em, một người anh trai và em gái. Cha của y, Levi, là một nông dân, như ông nội y trước đó. Cha mẹ Mudgett là những người theo dòng Giám lí mộ đạo, phản ứng lại với ngay cả các hành vi sai trái nhỏ nhặt của con cái bằng đòn roi và những lời cầu nguyện, kéo theo sau là hình phạt cấm túc trên gác mái và một ngày không được ăn và nói. Mẹ y thường yêu cầu y cầu nguyện với bà trong phòng và lấp đầy không khí xung quanh y với niềm đam mê mạnh mẽ.

Bằng đánh giá của riêng mình, y là “con cưng của mẹ.” Y thường dành thời gian một mình trong phòng đọc Jules Verne, Edgar Allan Poe và chế tạo các thứ. Y xây dựng nên một động cơ chạy bằng sức gió tạo ra tiếng ồn để xua đuổi chim chóc khỏi các cánh đồng của gia đình và quyết tâm chế tạo ra một động cơ vĩnh cửu. Y giấu kho báu được ưa thích nhất của mình, trong đó bao gồm chiếc răng sữa đầu tiên và một bức ảnh “người tình mười hai tuổi”, trong các hộp nhỏ, mặc dù các nhà quan sát sau này suy đoán những hộp đó có thể cũng chứa những báu vật rùng rợn hơn, chẳng hạn như hộp sọ của các loài động vật nhỏ bị y mổ sống trong khu rừng xung quanh Gilmanton. Suy đoán của họ dựa trên những bài học khó khăn về hành vi của các trẻ em có tính cách tương tự trong thế kỷ XX. Bạn thân duy nhất của Mudgett là một đứa trẻ lớn tuổi hơn tên là Tom, cậu bé đã bị ngã và chết khi hai đứa đang chơi trong một căn nhà bỏ hoang.

Mudgett khắc các chữ cái đầu của tên mình lên một cây du ở trang trại của ông nội, nơi gia đình đánh dấu sự phát triển của y bằng các vạch trên rầm cửa. Vạch đầu tiên cao chín mươi mốt xen-ti-mét. Một trong những thú tiêu khiển yêu thích của y là leo lên một tảng đá cao và hét lên để tạo ra tiếng vang. Y chạy việc vặt cho một “nhiếp ảnh gia lưu động” từng cư trú ở Gilmanton. Người đàn ông này bị khập khiễng và vui mừng trước sự giúp đỡ của y. Một buổi sáng, nhiếp ảnh gia đưa Mudgett một khối gỗ vỡ và nhờ y đem đến xưởng sản xuất xe kéo để thay thế. Khi Mudgett trở lại với một khối gỗ mới, y thấy ông đang ngồi bên cạnh cửa, chỉ mặc vài món quần áo. Chẳng nói chẳng rằng, ông tháo một chân của mình ra.

Mudgett sững sờ. Y chưa bao giờ thấy chân giả trước đây và nhìn chằm chằm khi nhiếp ảnh gia lắp khối gỗ mới thay vào một phần của chân. “Nếu sau đó ông ta tháo đầu của mình theo cách bí ẩn tương tự, tôi cũng không thể ngạc nhiên hơn nữa,” Mudgett viết.

Một điều gì đó trong nét mặt của Mudgett đã được nhiếp ảnh gia nhìn thấy. Đứng trên một chân, ông di chuyển đến máy ảnh của mình và chuẩn bị chụp Mudgett. Ngay trước khi mở màn trập, ông giơ chân giả lên và vẫy nó trước mặt thằng bé. Vài ngày sau đó, ông đưa Mudgett bức ảnh hoàn chỉnh.

“Tôi giữ nó trong nhiều năm qua,” Mudgett viết, “cùng với hình ảnh một cậu bé phóng như bay về nhà trên đôi chân trần với một bộ mặt khiếp đảm.”

Vào thời điểm Mudgett mô tả cuộc gặp gỡ này trong hồi kí của mình, y đang ngồi trong một nhà tù, hi vọng làm dấy lên sự cảm thông của công chúng. Mặc dù việc tưởng tượng ra cảnh đó rất hấp dẫn, trên thực tế loại máy ảnh tồn tại trong suốt thời thơ ấu của Mudgett không có khả năng nắm bắt những khoảnh khắc vô tình, đặc biệt là khi chủ thể là một đứa trẻ. Nếu nhiếp ảnh gia nhìn thấy bất kỳ điều gì trong mắt Mudgett, thì đó là sự trống rỗng màu xanh nhạt mà y buồn rầu hiểu rằng không máy ảnh nào có thể ghi lại.

***

Năm mười sáu tuổi, Mudgett tốt nghiệp trung học và bất chấp độ tuổi của mình, trở thành giáo viên, đầu tiên ở Gilmanton rồi đến Alton, New Hampshire, nơi y gặp một phụ nữ trẻ tên là Clara A. Lovering. Cô chưa bao giờ gặp bất cứ ai giống như Mudgett. Y còn trẻ nhưng điềm đạm và có sở trường làm cho cô cảm thấy dễ chịu ngay cả khi cô cảm thấy ngược lại. Y nói chuyện có duyên và ấm áp, luôn luôn chạm vào cô một cách trìu mến, thậm chí ở nơi công cộng. Khuyết điểm lớn của y là việc y kiên trì đòi hỏi cô cho phép y làm tình với cô, không phải theo cách những người yêu nhau tán tỉnh nhau, mà theo cách lẽ ra chỉ xuất hiện sau khi kết hôn. Cô khước từ y nhưng không thể phủ nhận rằng Mudgett đã làm dấy lên trong cô một khát khao mãnh liệt, đã tô màu cho những giấc mơ của cô. Năm Mudgett mười tám tuổi, y yêu cầu cô bỏ trốn. Cô đã đồng ý. Họ kết hôn vào ngày 4 tháng 7 năm 1878, trước sự chứng kiến của một thẩm phán hòa giải.

Ban đầu, niềm đam mê cháy bỏng khác xa những gì Clara mong đợi sau khi nghe những lời gièm pha khắc nghiệt của các bà già. Tuy nhiên, mối quan hệ của họ nhanh chóng nguội lạnh. Mudgett không về nhà trong thời gian dài. Chẳng bao lâu sau, y bỏ nhà đi nhiều ngày liền. Cuối cùng y không về nữa. Theo như giấy đăng kí kết hôn ở Alton, New Hampshire, họ vẫn là vợ chồng. Một tờ giấy khô như ngói nhưng vẫn còn hiệu lực.

***

Năm mười chín tuổi, Mudgett đi học đại học. Ban đầu y để mắt đến Đại học Dartmouth nhưng rồi thay đổi ý định và vào trường Y. Y ghi danh trong chương trình y khoa tại trường đại học Vermont ở Burlington, nhưng thấy trường quá nhỏ và chuyển đến trường đại học Michigan tại Ann Arbor chỉ sau một năm. Đó là một trong các trường y khoa hàng đầu của phương Tây, nổi tiếng với việc tập trung vào nghệ thuật mổ xẻ gây tranh cãi. Y ghi danh vào ngày 21 tháng 9 năm 1882. Trong suốt mùa hè năm thứ ba, y thực hiện những gì y coi, trong hồi kí của mình, là “những hành động không thực sự trung thực đầu tiên trong cuộc đời.” Y nhận làm công việc bán sách dạo cho một nhà xuất bản Sách, được phân công bán một cuốn sách duy nhất dọc vùng Tây Bắc Illinois. Thay vì nộp lại số tiền thu được, y đã giữ nó. Vào cuối mùa hè, y trở về Michigan. “Khó có thể coi chuyến đi miền Tây của tôi là một thất bại,” y viết, “vì tôi đã nhìn thấy Chicago.”

Y tốt nghiệp vào tháng 6 năm 1884 với một thành tích nhạt nhòa và quyết tâm đi tìm “vài vị trí thuận lợi” để bắt đầu thực hành nghề y. Để làm như vậy, y nhận một công việc bán dạo khác, lần này với một công ty ươm giống cây trồng tại Portland, Maine. Tuyến đường của y đã đưa y qua những thị trấn có lẽ y sẽ không bao giờ đặt chân tới. Cuối cùng, y đến Mooers Forks, New York, theo tờ Chicago Tribune, các ủy viên của một trường tiểu học ở đây “ấn tượng với cách cư xử lịch lãm của Mudgett,” đã thuê y làm hiệu trưởng, một vị trí y nắm giữ cho tới khi y mở một cơ sở y dược. “Tôi đã ở lại đây một năm, làm những công việc lương thiện, những việc mà tôi đã nhận được rất nhiều tình nghĩa nhưng ít tiền.”

Rắc rối dường như xảy ra ở bất cứ nơi nào y đặt chân đến. Các giáo viên của y ở Michigan không có gì nhiều để nói về khả năng học thuật của y, tuy nhiên lại nhớ y nổi bật theo một cách khác. “Một số giáo sư ở đây cho rằng hắn là một kẻ vô lại,” trường đại học cho biết.

“Hắn đã có một hành vi bội tín với một góa phụ, một cô thợ làm tóc đã lặn lội từ St. Louis, bang Michigan đến Ann Arbor.”

Tại Mooers Forks, có tin đồn rằng một cậu bé đi cùng y đã biến mất. Mudgett tuyên bố cậu ta đã trở về nhà mình ở Massachusetts. Không có cuộc điều tra nào diễn ra. Không ai có thể tưởng tượng được rằng bác sĩ Mudgett quyến rũ lại làm hại bất kỳ ai, nói gì đến một đứa trẻ.

Rất nhiều đêm, Mudgett lang thang trên các con phố gần chỗ ở của mình đến tận nửa đêm.

***

Mudgett cần tiền. Dạy học chỉ đem lại một mức lương còm cõi; trong khi thu nhập từ nghề y cũng chỉ nhỉnh hơn chút đỉnh. “Vào mùa thu năm 1885,” y viết, “tôi đã phải đối diện với cái đói.”

Khi còn ở trường y, Mudgett và một sinh viên người Canada đã nói chuyện về cách kiếm tiền dễ dàng khi để một trong hai người mua bảo hiểm nhân thọ, cho người còn lại làm người thụ hưởng, sau đó sử dụng một tử thi để giả mạo cái chết của người được bảo hiểm. Tại Mooers Forks, ý tưởng này trở lại với y. Y đã đến thăm người bạn học cũ của mình và thấy rằng tình trạng tài chính của hắn cũng chẳng khá khẩm hơn. Hai người đã cùng nhau vạch lên một kế hoạch gian lận bảo hiểm nhân thọ công phu, được Mudgett mô tả trong hồi kí của mình. Đó là một kế hoạch phức tạp và khủng khiếp đến mức không tưởng, nhiều khả năng không ai có thể thực hiện được. Tuy nhiên, các miêu tả của y đáng chú ý vì chúng vô tình cho thấy tâm hồn điên rồ của Mudgett.

Nói một cách khái quát, kế hoạch của Mudgett và bạn y cần thêm một vài đồng bọn, những người sẽ cùng nhau làm giả cái chết của một gia đình ba người, mỗi tử thi tương ứng với một người.

Các xác chết này sẽ xuất hiện trong trạng thái bị phân hủy nặng và y cùng đồng bọn sẽ chia chác bốn mươi nghìn đô-la tiền bảo hiểm (tương đương với hơn một triệu đô-la ngày nay).

“Kế hoạch này đòi hỏi một số lượng nguyên liệu đáng kể,” Mudgett viết, “ít nhất là ba tử thi.” Điều này có nghĩa là y và những tòng phạm của mình bằng cách nào đó phải có được ba cái xác trông tương tự một gia đình gồm chồng, vợ và con.

Mudgett không gặp khó khăn trong việc tìm được các tử thi, mặc dù trên thực tế, tình trạng thiếu xác chết cho giáo dục y tế trên toàn quốc lúc bấy giờ khiến các bác sĩ phải đào cả tử thi mới chôn từ nghĩa địa lên. Biết rằng ngay cả một bác sĩ không thể sở hữu cùng lúc ba xác chết mà không làm dấy lên nghi vấn, Mudgett và đồng lõa của y thống nhất rằng mỗi người đóng góp một phần vào “nguồn cung thiết yếu”.

Mudgett khẳng định mình đã đến Chicago vào tháng 11 năm 1885 và đã kiếm được “phần” của mình. Không thể tìm được việc làm, y giấu phần của mình đi và đến Minneapolis, tại đây y tìm được việc làm tại một hiệu thuốc. Y ở Minneapolis cho đến tháng 5 năm 1886, rồi y đến New York và lên kế hoạch đem “một phần xác chết đến đây” và để chỗ còn lại ở Chicago. “Việc này,” y nói, “đòi hỏi hành lí đóng gói phải không thay đổi.”

Y khẳng định mình đã giấu gói chứa tử thi bị chặt chân tay trong kho lưu trữ Fidelity ở Chicago. Phần còn lại cùng y đến New York, nơi y giấu nó “ở một nơi an toàn.” Tuy nhiên, trên chuyến tàu đến New York, y đọc được hai bài báo về tội gian lận bảo hiểm và “lần đầu tiên tôi nhận ra các công ty bảo hiểm hàng đầu được tổ chức và chuẩn bị tốt như thế nào trong việc phát hiện và trừng phạt gian lận.” Những bài viết này đã khiến y phải từ bỏ kế hoạch và vứt bỏ tất cả hi vọng thành công của một kế hoạch tương tự trong tương lai.

Y đã nói dối. Trên thực tế, Mudgett đã bị thuyết phục rằng phương pháp này về cơ bản hoàn toàn khả thi - bằng cách giả mạo cái chết của những người khác, y thực sự có thể lừa các công ty bảo hiểm nhân thọ. Là một bác sĩ, y biết rõ rằng không có cách nào để nhận dạng các xác chết bị đốt cháy, bị chặt chân tay, hoặc biến dạng. Và y không ngại làm việc với tử thi. Chúng là “nguyên liệu”, không khác gì củi, mặc dù xử lí khó khăn hơn.

Y cũng đã nói dối về việc túng tiền. D. S. Hays, chủ sở hữu của ngôi nhà tại Mooers Forks nơi y cư trú, nhận thấy Mudgett luôn đem theo những khoản tiền mặt lớn trong người. Hays bắt đầu nghi ngờ y và theo dõi Mudgett cẩn thận hơn - mặc dù sự cẩn thận đó vẫn không đủ.

***

Mudgett rời khỏi Mooers Forks lúc nửa đêm mà không trả tiền trọ. Y tìm cách đến Philadelphia, hi vọng sẽ tìm được việc trong một nhà thuốc và dần dần trở thành một đối tác hoặc chủ sở hữu. Tuy nhiên, y không tìm thấy công việc nào phù hợp, thay vào đó y làm “điều dưỡng” ở Trại tâm thần Norristown. Y viết, “đó là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với những người mất trí và trải nghiệm đó khủng khiếp tới mức nhiều năm sau đó, thậm chí cả bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn thấy những khuôn mặt ấy trong mơ.” Y bỏ việc chỉ sau vài ngày.

Cuối cùng y cũng tìm thấy một công việc tại một trong những nhà thuốc ở Philadelphia. Ngay sau đó, xác chết của một đứa trẻ tử vong sau khi uống thuốc được cửa hàng mua lại. Mudgett ngay lập tức rời thành phố.

Y bắt một chuyến tàu đến Chicago nhưng nhanh chóng phát hiện ra mình không thể hành nghề dược sĩ ở Illinois cho đến khi y vượt qua bài kiểm tra cấp giấy phép tại một cơ quan nhà nước tại Springfield. Ở đó vào tháng 7 năm 1886, năm Sir Arthur Conan Doyle giới thiệu thám tử của mình với thế giới, Mudgett đã đăng kí thay đổi tên của mình thành Holmes.

***

Holmes hiểu rằng các nguồn lực mạnh mẽ mới mẻ đang xuất hiện tại Chicago, khiến thành phố mở rộng một cách gần như kỳ diệu. Thành phố phát triển ra tất cả các hướng và những nơi nó tiếp giáp hồ, nó phát triển lên trời, khiến giá trị của bất động sản tại khu Loop tăng vọt. Y nhìn thấy bằng chứng của sự thịnh vượng của thành phố ở bất cứ chỗ nào y để mắt đến. Ngay cả khói cũng chứng minh điều đó. Các tờ báo của thành phố rất thích ra rả về sự gia tăng đáng ngạc nhiên của số lượng lao động trong các ngành công nghiệp tại Chicago, đặc biệt trong ngành đóng gói thịt. Holmes biết - tất cả mọi người biết - khi các tòa nhà chọc trời vọt lên và trại gia súc mở rộng lò giết mổ của mình, nhu cầu lao động sẽ vẫn ở mức cao và những người lao động và cấp trên của họ sẽ tìm kiếm một căn nhà ở vùng ngoại ô thành phố, với lời hứa hẹn về đá dăm mịn, nước sạch, trường học đàng hoàng và trên tất cả, một bầu không khí không bị ô uế bởi mùi hôi thối của nội tạng rữa nát từ các trại gia súc.

Khi dân số thành phố tăng lên, nhu cầu tìm kiếm nhà ở biến thành “cơn sốt căn hộ”. Khi người ta không thể tìm thấy hoặc chi trả cho cả một căn hộ, họ chuyển sang tìm phòng trong các nhà riêng và nhà trọ tư nhân, nơi mà tiền thuê nhà thường bao gồm cả các bữa ăn. Các nhà đầu cơ nhanh chóng trở nên thịnh vượng và tạo ra một cảnh quan kỳ lạ cho thành phố. Tại khu vực Calumet, một ngàn ngọn đèn đường được trang trí công phu đứng trong một đầm lầy, chẳng có công dụng gì ngoài việc đốt cháy sương mù và thu hút muỗi. Theodore Dreiser20 đặt chân đến Chicago trong cùng khoảng thời gian với Holmes và đã bị sốc trước cảnh quan nơi đây. “Thành phố đã lắp đặt hàng cây số đường và cống thoát nước qua khu vực mà có lẽ chỉ có duy nhất một ngôi nhà đơn độc,” ông viết trong truyện Sơ Carrie. “Có những khu vực, mặc dù trống trải gió mưa, vẫn được thắp sáng suốt đêm với hàng đèn khí ga đang chập chờn trong gió.”

20 Theodore Dreiser Herman Albert (27/08/1871 - 28/12/1945) là một nhà văn và nhà báo người Mỹ.

Một trong những khu vực ngoại ô phát triển nhanh nhất là Englewood. Ngay cả một người mới đến như Holmes có thể nói rằng Englewood đang bùng nổ. Các quảng cáo bất động sản chứa đầy những lời chứng thực về vị trí và giá trị ngày càng tăng của nó. Trên thực tế, Englewood đã phát triển nhanh chóng kể từ sau đại hỏa hoạn năm 1871. Một người dân nhớ lại ngay sau đám cháy “đã có một cơn sốt nhà ở tại Englewood và dân số tăng nhanh đến mức không đếm xuể.” Các công nhân đường sắt già vẫn gọi nơi đây là giao lộ Chicago hoặc giao lộ Grove hoặc chỉ đơn giản là giao lộ do tám tuyến đường sắt hội tụ tại khu vực này. Tuy nhiên, sau nội chiến, các cư dân khu vực này trở nên mệt mỏi với cái tên mang âm hưởng công nghiệp đó. Năm 1868, một cư dân có tên H. B. Lewis đã đề nghị một tên mới cho thành phố, Englewood, tên của một thị trấn tại New Jersey nơi bà đã từng sống và lấy từ tên một khu rừng ở Carlisle, Anh - nơi trở thành huyền thoại vì đã che chở cho băng cướp Robin Hood. Tại nơi mà Chicago gọi là vùng ngoại ô của “xe cáp”, các nhân viên giám sát các trại gia súc, cũng như các nhân viên của các công ty có trụ sở tại các tòa nhà chọc trời của khu vực Loop, đã quyết định an cư. Họ mua những ngôi nhà lớn trên các con đường tên Harvard và Yale được lót bằng cây du, tro, sung và cây bồ đề với các biển báo cấm tất cả phương tiện giao thông ngoại trừ các xe ngựa thiết yếu. Họ gửi con mình đi học, đi nhà thờ và tham dự các cuộc họp của các thành viên Hội Tam Điểm và bốn mươi lăm hội bí mật khác có chi nhánh tại đây. Vào ngày chủ nhật, họ đi lang thang trong các bãi cỏ nhung của công viên Washington hoặc những rặng núi lồng lộng gió của Công viên Jackson ở cuối đường 63 về phía Đông, trên bờ hồ, nếu muốn ở một mình.

Họ đi làm bằng xe lửa hoặc xe cáp treo và tự chúc mừng bản thân vì được sống tại khu vực ngược chiều gió với các trại gia súc. Các nhân viên môi giới bất động sản tại Englewood bao gồm cả khía cạnh này trong cuốn ca-ta-lô mời chào bán đấu giá hai trăm khu nhà có tên Phân khu Bates: “Với các doanh nhân trong Hiệp hội Chăn nuôi, khu vực này đặc biệt thuận lợi và dễ di chuyển, đồng thời giải phóng họ khỏi thứ mùi đã được gió mang đến cả những khu vực thời thượng nhất của thành phố.”

***

Bác sĩ Holton cuối cùng cũng qua đời. Holmes đã đưa ra một đề nghị với bà góa phụ: Y sẽ mua cửa hàng thuốc và bà có thể tiếp tục sống trong căn hộ trên tầng hai. Y diễn đạt lời đề nghị của mình bằng giọng văn xuôi khiến người ta nhầm tưởng rằng y đề nghị mua cửa hàng không vì mục đích tư lợi mà chỉ để giải thoát bà Holton đau khổ khỏi gánh nặng công việc. Y chạm vào cánh tay bà khi y đưa ra đề nghị. Sau khi bà kí khế ước giao lại hiệu thuốc, y đứng dậy và cảm ơn bà, nước mắt lưng tròng.

Y chi trả cho việc mua cửa hàng chủ yếu bằng số tiền y kiếm được do thế chấp đồ đạc và thuốc dự trữ của cửa hàng, đồng ý trả nợ với lãi suất một trăm đô-la một tháng (khoảng ba ngàn đô-la tính theo giá hiện nay). “Vụ mua bán diễn ra thuận lợi,” y nói, “và lần đầu tiên trong đời tôi được hành nghề trong một nhà thuốc thỏa đáng với yêu cầu của mình.”

Y trưng lên biển hiệu mới: NHÀ THUỐC H. H. HOLMES. Khi các tin đồn về việc một bác sĩ trẻ, đẹp trai và dường như chưa kết hôn giờ đây đứng sau quầy, số lượng phụ nữ độc thân ở độ tuổi hai mươi dạo qua cửa hàng ngày càng tăng. Họ mặc những bộ quần áo xinh xắn và mua những toa thuốc họ không cần. Các khách hàng lâu năm cũng thích chủ sở hữu mới, mặc dù họ cũng nhớ phong thái dễ chịu của bà Holton. Gia đình Holton đã ở bên họ khi con họ bị bệnh; đã an ủi họ khi căn bệnh đó vô phương cứu chữa. Họ biết bà Holton đã bán hiệu thuốc. Nhưng sao họ không nhìn thấy bà ở thị trấn?

Holmes mỉm cười và giải thích rằng bà đã quyết định đến thăm người nhà ở California, điều từ lâu bà đã muốn làm nhưng không bao giờ có thời gian hay tiền bạc để thực hiện, nhất là khi bà phải chăm sóc người chồng đang hấp hối.

Khi thời gian trôi đi và các câu hỏi cũng ít dần, Holmes sửa đổi câu chuyện một chút. Bà Holton, y giải thích, rất thích California và đã quyết định định cư ở đó vĩnh viễn.