Chẳng có gì. Đã có rất nhiều năng lượng, rất nhiều lời ngợi khen, nhưng giờ đây - chẳng có gì. Đó là tháng 7 năm 1890, gần sáu tháng kể từ khi Quốc hội phê chuẩn cho Chicago tổ chức triển lãm hội chợ Thế giới Hoa Kỳ, nhưng bốn mươi lăm người thuộc ban giám đốc hội chợ vẫn chưa quyết định được địa điểm xây dựng. Tại thời điểm bỏ phiếu, khi niềm tự hào của thành phố bị đe dọa, cả Chicago đã cùng chung tiếng nói. Các đại diện của thành phố đã khoe khoang với Quốc hội rằng, thành phố có thể cung cấp một khung cảnh lớn hơn và thích hợp hơn bất cứ điều gì mà New York, Washington hay bất kỳ thành phố nào khác có thể đề xuất. Tuy nhiên, giờ đây, mỗi khu vực của Chicago lại yêu cầu hội chợ được tổ chức bên trong địa phận của mình và việc cãi tranh liên miên đã cản trở ban giám đốc.
Ủy ban Nhà đất đã lặng lẽ yêu cầu Burnham đánh giá một số địa điểm trong thành phố. Cũng với sự lặng lẽ tương tự, ủy ban trấn an Burnham và Root rằng cuối cùng họ sẽ chỉ đạo việc thiết kế và xây dựng hội chợ. Đối với Burnham, mỗi giây qua đi là một giây phút bị trộm từ quỹ thời gian xây dựng hội chợ vốn đã ít ỏi. Dự luật hội chợ được Tổng thống Benjamin Harrison kí vào tháng 4 đã định ngày 12 tháng 10 năm 1892 là Ngày Cống hiến, nhằm tôn vinh khoảnh khắc Columbus lần đầu tiên nhìn thấy Tân Thế giới bốn trăm năm trước. Tuy nhiên, hội chợ chỉ chính thức mở cửa từ ngày 1 tháng 5 năm 1893, nhằm giúp Chicago có nhiều thời gian chuẩn bị. Mặc dù vậy, Burnham biết, phần lớn hội chợ sẽ phải sẵn sàng vào Ngày Cống hiến. Chỉ còn hai mươi sáu tháng.
James Ellsworth, một người bạn của Burnham, là một trong những thành viên của ban giám đốc. Ông cũng thất vọng trước sự bế tắc, đến mức ông đã đưa ra sáng kiến riêng của mình. Trong một chuyến công tác đến Maine vào giữa tháng 7, ông đến thăm văn phòng của Frederick Law Olmsted21 tại Brookline, Massachusetts, cố gắng thuyết phục ông này đến Chicago đánh giá địa điểm đang được xem xét và đảm nhận nhiệm vụ thiết kế cảnh quan của hội chợ. Ellsworth hi vọng rằng ý kiến của Olmsted, nổi tiếng với tư cách phù thủy của công viên Trung tâm New York, sẽ đẩy nhanh tiến trình đưa ra quyết định.
21 Frederick Law Olmsted (26/04/1822 - 28/08/1903) là kiến trúc sư cảnh quan, nhà báo, nhà phê bình xã hội và hành chính công người Mỹ. Ông được coi là cha đẻ của kiến trúc cảnh quan của Mỹ. Olmsted nổi tiếng vì đồng thiết kế nhiều công viên đô thị nổi tiếng bao gồm công viên Trung tâm ở thành phố New York và Elm Park ở Worcester, Massachusetts, công viên được nhiều người cho là công viên thành phố đầu tiên ở Mỹ.
Việc Ellsworth tham gia là một điều có ý nghĩa quan trọng. Ban đầu, ông không có lập trường rõ ràng trong việc liệu Chicago có nên đăng cai tổ chức hội chợ Thế giới hay không. Ông đồng ý nhận chức thành viên ban giám đốc chỉ vì lo ngại rằng hội chợ có nguy cơ chỉ đáp ứng được những kỳ vọng sơ sài của phía Đông và trở thành “một hội chợ theo đúng nghĩa đen của từ này.” Ông tin rằng việc thành phố bảo vệ danh dự công dân của mình bằng cách tổ chức một sự kiện lớn nhất trong lịch sử thế giới - mục tiêu dường như đang tuột khỏi tay của Chicago với mỗi giây trôi qua - là điều tối quan trọng.
Ông đề nghị một khoản phí tư vấn một ngàn đô-la (tương đương khoảng ba mươi ngàn đô-la ngày nay) với Olmsted. Việc khoản tiền là tiền túi của ông và việc ông không đủ thẩm quyền để chính thức thuê Olmsted, là hai điểm Ellsworth không tiết lộ.
Olmsted từ chối. Ông nói với Ellsworth mình không thiết kế hội chợ. Hơn nữa, ông nghi ngờ rằng không có đủ thời gian để làm được một hội chợ ra hồn. Việc sản xuất các hiệu ứng cảnh quan mà Olmsted hướng tới cần không chỉ vài tháng mà là vài năm, thậm chí vài thập kỷ. “Trong suốt cuộc đời, tôi luôn cân nhắc các tác động dài hạn và luôn hi sinh thành công trước mắt để gặt hái những thành quả rực rỡ trong tương lai,” ông viết. “Trong quá trình thiết kế công viên Trung tâm, chúng tôi xác định không có mục tiêu nào phải hoàn thành trước bốn mươi năm.”
Ellsworth nhấn mạnh rằng những gì Chicago đang hướng đến vượt xa hội chợ tại Paris. Ông miêu tả cho Olmsted viễn cảnh một thành phố trong mơ được kiến trúc sư vĩ đại nhất thiết kế và có diễn tích rộng hơn ít nhất một phần ba so với hội chợ Paris. Ellsworth trấn an Olmsted rằng chỉ cần đồng ý giúp đỡ, Olmsted sẽ điền tên mình vào một trong những kế hoạch nghệ thuật vĩ đại nhất của thế kỷ này.
Với một chút mủi lòng, Olmsted cho biết ông sẽ suy nghĩ về đề nghị này và đồng ý gặp Ellsworth hai ngày sau đó, khi Ellsworth trên đường trở về từ Maine.
***
Olmsted đã suy nghĩ về đề xuất và bắt đầu coi hội chợ như một cơ hội để đạt được điều mà ông đã chiến đấu miệt mài và khó khăn, nhưng hầu như luôn luôn chỉ thu lại kết quả đáng thất vọng. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông đã phải vật lộn, với rất ít thành công, để xóa bỏ quan niệm rằng kiến trúc cảnh quan chỉ đơn giản là một loại hình làm vườn đầy tham vọng và thay vào đó giúp lĩnh vực của mình được công nhận là một nhánh riêng biệt của nghệ thuật, có họ hàng với hội họa, điêu khắc và kiến trúc. Olmsted coi trọng giá trị của thực vật, cây và hoa không vì các đặc điểm riêng lẻ của chúng mà vì màu và sắc của chúng trong bảng màu. Những khu vườn thẳng hàng ngay lối khiến ông cảm thấy bị xúc phạm. Hoa hồng không phải là hoa hồng, mà trở thành “các đốm trắng hoặc đỏ trên nền màu xanh lục.” Việc ít người hiểu được những hiệu ứng mà ông đã tạo ra một cách miệt mài và khó khăn khiến ông cảm thấy khó chịu. “Tôi thiết kế với viễn cảnh về một con đường nhẹ nhàng, mềm mại, với sự trầm ngâm dịu mát, định hình lối đi, lọc bỏ các yếu tố nghịch mắt và giúp thảm thực vật phù hợp phát triển.” Tuy nhiên, ông “trở lại sau một năm và nhận ra chúng bị hủy hoại: Tại sao?”; “Vợ tôi rất thích hoa hồng”; “Tôi lấy cây vân sam Na Uy này về làm quà.”; “Tôi thích cây bạch dương trắng - từng có một cây trong vườn nhà cha tôi khi tôi còn là một cậu bé.”
Điều tương tự cũng xảy ra với các khách hàng dân sự lớn. Ông và Calvert Vaux đã xây dựng và trau chuốt công viên Trung Tâm từ năm 1858 đến năm 1876, nhưng rất lâu sau đó Olmsted vẫn phải bảo vệ công viên khỏi các nỗ lực thay đổi cảnh quan theo một cách chắp vá - thứ ông coi tương đương với việc phá hoại. Không chỉ có công viên Trung tâm. Mọi công viên dường như phải chịu những sự lạm dụng như vậy.
“Giả sử,” ông viết cho kiến trúc sư Henry Van Brunt, “anh đã được giao nhiệm vụ xây dựng một nhà hát lớn; sau khi các công trình đã gần hoàn thành và đề án trang trí của anh được thiết kế đầy đủ, anh nhận được hướng dẫn rằng tòa nhà sẽ được sử dụng vào ngày chủ nhật cho một buổi lễ của nhà thờ và nó phải chứa được một cây đàn đại phong cầm khổng lồ, một bục giảng và một hồ ngâm. Và trong những khoảng thời gian sau đó, anh được hướng dẫn rằng nó phải được tái trang bị và trang trí để có thể được sử dụng như là một phòng xử án, một nhà tù, một phòng hòa nhạc, khách sạn, sân trượt băng, cơ sở phẫu thuật, một rạp xiếc, phòng duyệt binh, phòng dạ hội, ga đường sắt và tháp canh?” Điều đó, ông viết, “là những gì gần như luôn luôn xảy ra với các công viên công cộng. Hãy thứ lỗi cho tôi nếu tôi làm anh ngộp thở; đây là một vấn đề khiến tôi luôn cảm thấy giận dữ.”
Olmsted tin những gì kiến trúc cảnh quan cần là một tầm nhìn lớn hơn, điều sẽ mang lại uy tín cao hơn. Ông nhận ra hội chợ có thể đem lại điều này, với điều kiện nó thỏa mãn được viễn cảnh Ellsworth đã vẽ ra. Tuy nhiên, ông phải cân nhắc lợi ích này với cái giá phải trả là thời gian quá ngắn ngủi. Công ty của ông đã có một danh sách dài các công việc, nhiều đến mức khiến “mỗi chúng tôi luôn phải chịu một tấn áp lực và ôm một bồ lo lắng,” ông viết. Bên cạnh đó, Olmsted ngày càng yếu. Ông đã sáu mươi tám tuổi và bị tập tễnh sau một tai nạn xe ngựa nhiều thập niên trước, tai nạn đã khiến một chân của ông ngắn hơn hai phân rưỡi so với chân còn lại. Ông dễ bị trầm cảm trong nhiều ngày. Răng ông bị đau. Ông bị mất ngủ mãn tính và bị đau dây thần kinh mặt. Một tiếng kêu ầm ầm bí ẩn trong tai của ông khiến việc trò chuyện trở nên khó khăn. Ông vẫn còn đầy sức sáng tạo, vẫn liên tục di chuyển, nhưng các chuyến tàu đêm lúc nào cũng khiến ông mệt mỏi. Ngay cả trên giường của mình, giấc ngủ của ông thường trở thành nỗi kinh hoàng của mất ngủ và đau răng.
Nhưng viễn cảnh Ellsworth đưa ra rất hấp dẫn. Olmsted đã nói điều này với con trai của mình và với thành viên mới nhất của công ty, Henry Sargent Codman - “Harry” - một tài năng kiến trúc sư cảnh quan trẻ, người đã nhanh chóng trở thành một cố vấn tin cậy và thân tín.
Khi Ellsworth quay lại, Olmsted sẽ nói rằng ông đã thay đổi quyết định. Ông sẽ tham gia vào quá trình xây dựng hội chợ.
***
Khi quay trở về Chicago, Ellsworth bảo đảm thẩm quyền chính thức của mình để thuê Olmsted và sắp xếp để ông báo cáo trực tiếp với Burnham.
Trong một bức thư gửi Olmsted, Ellsworth đã viết: “Lập trường của tôi là: Trong vấn đề này, danh tiếng của Mỹ đang bị đe dọa và danh tiếng của Chicago cũng đang bị đe dọa. Là một công dân Mỹ, ngài cũng có trách nhiệm trong việc nối tiếp thành công của kế hoạch vĩ đại và hoành tráng này và qua những cuộc nói chuyện với ngài, tôi tin tưởng rằng ngài sẽ nắm bắt được toàn bộ tình hình và sẽ không bị ngăn cản vì bất kỳ giới hạn chật hẹp nào.”
Đó có vẻ là điều đã xảy ra khi trong quá trình đàm phán hợp đồng sau này, Olmsted, dưới sự thúc giục của Codman, đã yêu cầu một khoản phí lên tới hai mươi hai ngàn năm trăm đô-la (khoảng sáu trăm bảy mươi lăm ngàn đô-la ngày nay) và được chấp thuận.
Vào thứ Tư ngày 6 tháng 8 năm 1890, ba tuần sau chuyến thăm Brookline của Ellsworth, công ty tổ chức hội chợ gửi điện cho Olmsted: “Khi nào ông có thể có mặt tại đây?”
***
Ba ngày sau vào sáng thứ Bảy, Olmsted và Codman đến Chicago và nhận thấy thành phố đang reo mừng trước tin tức về cuộc điều tra dân số đã chính thức khẳng định theo xếp hạng sơ bộ, Chicago là thành phố lớn thứ hai của Mỹ, mặc dù kết quả cuối cùng cho thấy Chicago chỉ nhỉnh hơn Philadelphia 52.324 sinh linh. Tin tức tốt lành này đã xoa dịu một mùa hè gian khó. Trước đó, một đợt nóng đã vùi dập thành phố, giết chết mười bảy người (trong đó có một người tên là Christ) và tước mất của Chicago lời khoe khoang với Quốc hội rằng thành phố có khí hậu mùa hè quyến rũ của một khu nghỉ dưỡng - “mát mẻ và sảng khoái”, như tờ Tribune đã nói. Và chỉ ngay trước khi đợt nóng diễn ra, một nhà văn trẻ đang lên của Anh đã công bố một tác phẩm thiêu đốt thành phố. “Một khi nhìn thấy nơi này,” Rudyard Kipling viết, “Tôi không bao giờ muốn nhìn thấy nó một lần nữa. Đó là nơi sinh sống của lũ mọi rợ.”
Với Burnham, Codman trẻ một cách đáng ngạc nhiên, nhiều nhất chỉ gần ba mươi tuổi. Chắc chắn Codman phải thực sự sáng dạ để có thể nhận được sự tin tưởng của kiến trúc sư cảnh quan vĩ đại nhất Mỹ ở độ tuổi trẻ như vậy. Anh sở hữu đôi mắt màu đá vỏ chai22 trông như có thể khoan thủng sắt thép. Còn với Olmsted, Burnham ấn tượng trước dáng vóc thanh mảnh của ông, một cấu trúc trông có vẻ như không đủ để hỗ trợ một hộp sọ lớn đến vậy. Đầu của ông - hói gần hết, với một bộ râu trắng rối được cắt tỉa ở cằm - trông giống như một trái bóng trang trí dịp Giáng sinh màu trắng ngà nằm trên một thảm gỗ bào. Olmsted trông có vẻ mệt mỏi sau chuyến đi, nhưng đôi mắt của ông vẫn mở lớn, ấm áp và tươi sáng. Ông muốn bắt đầu làm việc ngay lập tức. Cuối cùng, Burnham cũng tìm thấy một người đàn ông hiểu được chi phí thực sự của mỗi phút bị mất đi.
22 Đá vỏ chai là một dạng khoảng vật vô định hình, hình thành do sự nguội lạnh quá nhanh của dung nham tự nhiên, có màu đen huyền hoặc long lanh xám tùy theo chiều cắt.
Burnham tất nhiên cũng biết đến những thành tựu của Olmsted: Công viên Trung tâm ở Manhattan, công viên Prospect ở Brooklyn, các khu vui chơi ở Cornell và Yale, cùng các dự án khác. Ông cũng biết rằng trước khi tham gia vào lĩnh vực kiến trúc cảnh quan, Olmsted đã là một nhà văn và biên tập viên, người đã đi khắp miền Nam trước chiến tranh để khám phá các nền văn hóa và chế độ nô lệ. Olmsted không chỉ nổi tiếng vì sự tài hoa và sự cống hiến không mệt mỏi cho công việc mà còn vì sự thẳng thắn gay gắt trước những người không hiểu rằng những gì ông tạo ra không chỉ là các luống hoa và vườn cảnh mà là một cảnh quan chứa đầy bí ẩn, bóng râm và mặt đất được điểm xuyết ánh nắng mặt trời.
Olmsted, về phần mình, biết rằng Burnham là kiến trúc sư đi đầu trong việc đưa các tòa nhà lên những đám mây. Burnham được biết đến như là thiên tài kinh doanh, còn Root là nghệ sĩ. Olmsted cảm thấy thân thiết với Burnham nhất. Burnham kiên quyết, thẳng thắn và thân mật; Olmsted cảm thấy yên tâm khi nói chuyện với ánh mắt xanh phẳng lặng của ông. Trong các cuộc trò chuyện riêng, Olmsted và Codman đồng ý rằng Burnham là một người mà họ có thể làm việc cùng.
Chuyến khảo sát bắt đầu ngay lập tức, nhưng khó có thể coi đó là một chuyến đi khách quan. Burnham và Root cho thấy sự ủng hộ rõ ràng với một vị trí đặc biệt: Công viên Jackson thuộc vùng Nam Chicago, về phía Đông Englewood bên bờ hồ. Olmsted cũng biết đến công viên này. Hai mươi năm trước, theo yêu cầu của các ủy viên công viên Bắc Chicago, Olmsted đã nghiên cứu cả công viên Jackson lẫn công viên Washington ở phía Tây, cũng như đại lộ rộng lớn có tên Midway kết nối chúng. Trong kế hoạch trình lên các ủy viên, ông dự định chuyển đổi công viên Jackson từ một hoang mạc cát và hồ tù đọng thành một công viên không giống với bất kỳ công viên nào khác trên cả nước, tập trung vào các hồ nước và hoạt động du thuyền, với hệ thống kênh rạch, đầm phá và các vịnh nhỏ đầy bóng râm. Olmsted đã hoàn thành kế hoạch của mình chỉ một thời gian ngắn trước đại hỏa hoạn năm 1871. Trong cuộc chạy đua tái kiến thiết, Chicago chưa bao giờ có cơ hội hiện thực hóa tầm nhìn của ông. Công viên Jackson trở thành một phần của Chicago trong một vụ sáp nhập năm 1889, nhưng theo Olmsted thấy, gần như không có gì thay đổi. Ông biết các khiếm khuyết của nó, hàng tá khiếm khuyết của nó, nhưng tin rằng với nỗ lực nạo vét và điêu khắc khéo léo, công viên có thể trở thành một cảnh quan không giống với bất kỳ nơi nào từng được chọn để tổ chức hội chợ.
Đó là vì ông nhận thấy rằng công viên Jackson có một thứ không thành phố nào trên thế giới có thể đem lại: Một màu xanh trải dài của hồ Michigan - một phông nền nhã nhặn cho hội chợ, đủ sức đáp ứng kỳ vọng của bất cứ ai.
***
Vào thứ Ba, 12 tháng 8, chỉ bốn ngày sau khi ông và Codman đến Chicago, Olmsted đã nộp một báo cáo với ban giám đốc hội chợ, những người sau đó đã công bố nó trong sự thất vọng của ông. Olmsted chỉ có ý định đem bản báo cáo cho những người có chuyên môn đọc, những người hiểu được các nguyên tắc cơ bản đằng sau việc chọn công viên Jackson và sẽ coi bản báo cáo như một bản hướng dẫn không khoan nhượng đối với những thách thức phía trước. Ông ngạc nhiên khi thấy báo cáo của mình được sử dụng như một bằng chứng chống lại phe phản đối việc đặt hội chợ ở công viên Jackson.
Các thành viên ban giám đốc yêu cầu một bản báo cáo thứ hai. Olmsted giao nó vào ngày thứ Hai, 18 tháng 8, sáu ngày sau bản báo cáo đầu tiên. Burnham nhận thấy, trong niềm hân hoan, Olmsted đã đem lại cho ban giám đốc nhiều hơn những gì họ từng mong đợi.
***
Olmsted không phải là một nhà văn bóng bẩy. Câu cú của ông trải dài qua các trang báo cáo như ánh nắng chiếu qua các cọc hàng rào. Tuy nhiên, bản cáo cáo của ông cho thấy chiều sâu và sự tinh tế trong những suy nghĩ về cách một cảnh quan có thể được sửa đổi để tạo ra hiệu ứng khắc sâu trong tâm trí người xem.
Đầu tiên, ông đặt ra một số nguyên tắc và thực hiện một vài chỉ trích.
Thay vì cãi nhau về địa điểm tổ chức hội chợ, ông nói, các phe phái khác nhau cần nhận ra rằng để hội chợ thành công, mọi người phải làm việc cùng nhau, bất kể ban giám đốc chọn khu vực nào. “Sẽ tốt hơn nếu chúng ta nhìn xa hơn tầm nhìn của một số công dân Chicago hiện nay, rằng hội chợ không phải là một hội chợ của Chicago. Nó là hội chợ Thế giới và Chicago sẽ đứng trước thế giới với tư cách là người gánh vác việc tổ chức hội chợ của Mỹ. Chicago không thể chấp nhận những địa điểm không phải những địa điểm tốt nhất để tổ chức hội chợ, bất kể sự quan tâm của công chúng tại các vùng khác có lớn thế nào đi chăng nữa.”
Ông cũng lập luận rằng mỗi yếu tố cảnh quan của hội chợ đều phải hướng đến một “mục đích tối cao”, hay nói cách khác, là sự thống nhất: Sự thống nhất của tất cả các yếu tố có thể được xem như là một phần khiêm tốn đóng góp vào tính toàn thể; trong đó các yếu tố chủ đạo sẽ nằm ở dãy các công trình kiến trúc cao chót vót của triển lãm chính. Nói cách khác, mặt đất và tất cả những gì trên, trước, giữa và sau các tòa nhà, dù có phủ đầy cỏ, hoặc được trang hoàng bằng hoa, bụi rậm hay cây cối, đài phun nước, tượng điêu khắc, vật trang trí hay các vật thể có tính nghệ thuật khác, phải là một thể thống nhất về mặt thiết kế với các tòa nhà; phải làm nổi bật và tôn lên các tòa nhà, dưới ánh sáng, bóng tối và màu sắc.”
Rõ ràng một số địa điểm nhất định đã được trời phú cho các đặc điểm đa dạng hơn những nơi khác. Hội chợ sẽ tạo được hiệu ứng tốt hơn nếu được kết hợp với một số cảnh quan tự nhiên nổi bật “thay vì những đồ trang trí nhân tạo công phu và tốn kém dưới dạng vườn hoa, bậc thang, đài phun nước và những bức tượng, thay vì những gì con người có thể tưởng tượng ra hoặc do bàn tay của chúng ta tạo nên.” Điều mà dường như các phe phái đã bỏ qua trong cuộc tranh luận đó là Chicago sở hữu “một cảnh quan đặc trưng của địa phương đẹp đẽ, hùng vĩ và được công chúng rất yêu thích. Đó là hồ Michigan.”
Hồ Michigan đẹp và liên tục thay đổi sắc thái cũng như bề mặt và như Olmsted lập luận, nó cũng là một địa điểm mới lạ có khả năng khuếch trương hiệu ứng của hội chợ. Các du khách từ trung tâm đất nước “cho tới khi đặt chân đến đây, chưa bao giờ nhìn thấy một khu vực hồ nước nào rộng lớn kéo dài đến đường chân trời đến vậy; chưa bao giờ thấy một con thuyền đang chạy trên mặt nước, hay một tàu hơi nước có kích thước bằng một nửa các con tàu hàng giờ vẫn ra vào bến cảng Chicago; và cũng chưa bao giờ nhìn thấy hiệu ứng từ ánh sáng phản chiếu hoặc từ các đám mây chồng lên nhau từ đường chân trời, điều mà chúng ta được thưởng thức gần như hàng ngày tại các vùng xung quanh hồ của thành phố.”
Tiếp đến, Olmsted xem xét bốn ứng viên cụ thể: Một khu vực tại bờ hồ phía trên Loop; hai vùng đất nằm trong thành phố, một trong số đó là công viên Garfield ở rìa phía Tây Chicago; và tất nhiên, công viên Jackson.
Mặc dù bản thân Olmsted thích các địa điểm ở cực Bắc thành phố hơn, ông cho rằng công viên Jackson có thể sẽ là một nơi thích hợp và sẽ “tạo ra các hiệu ứng mĩ mãn, từ trước đến nay chưa bao giờ xuất hiện tại các hội chợ thế giới.”
Olmsted bác bỏ các địa điểm trong thành phố vì chúng bằng phẳng, đơn điệu và quá xa hồ. Khi chỉ trích công viên Garfield, một lần nữa ông bày tỏ sự bực mình vì Chicago không thể lựa chọn được một địa điểm thích hợp, một thất bại khiến ông cảm thấy ngày càng bực bội, nhất là sau khi phải nghe những lời khoe khoang của các vĩ nhân của thành phố khi vận động hành lang tại Quốc hội:
“Tuy nhiên, sau khi xem xét những điều được sử dụng như một nỗ lực hăng hái để thuyết phục sự chú ý của cả quốc gia liên quan đến số lượng và sự xuất sắc của các địa điểm mà Chicago có thể cung cấp; xem xét những điểm thuận lợi mà hội chợ Centennial ở Philadelphia sở hữu với cảnh quan xung quanh; xem xét những ưu điểm tương tự nếu hội chợ được tổ chức tại một địa điểm trong thung lũng Rock Creek xinh đẹp ở Washington, nơi vừa được sử dụng làm một công viên; xem xét quang cảnh tuyệt vời tại địa điểm tổ chức hội chợ của New York với một bên là Palisades và thung lũng Hudson, bên kia là các vùng nước và rất nhiều bãi biển của Long Island Sound; sau khi xem xét tất cả điều này, chúng ta không thể không lo sợ rằng việc lựa chọn một địa điểm ở rìa thành phố và hoàn toàn không có cảnh quan thiên nhiên thu hút sẽ là một nỗi thất vọng cho cả quốc gia, khiến tuyên bố trước Quốc hội vào mùa đông năm ngoái về số lượng vô tận những địa điểm hoàn hảo trở thành cái cớ cho những kẻ thích đâm thọc.”
Olmsted đã nhấn mạnh vào điểm này.
Burnham hi vọng báo cáo thứ hai này cuối cùng sẽ buộc ban giám đốc phải đi đến một quyết định. Sự chậm trễ đang trở nên điên rồ và vô lí khi đồng hồ cát đã đếm giờ từ lâu. Ban giám đốc dường như không biết rằng Chicago hiện có nguy cơ trở thành nỗi tủi hổ của cả nước, thậm chí của cả thế giới.
***
Nhiều tuần trôi qua.
Vào cuối tháng 10 năm 1890, vấn đề địa điểm tổ chức vẫn chưa được giải quyết. Burnham và Root phải chăm sóc cho các dự án khác đang phát triển ngày càng mạnh mẽ của họ. Các nhà thầu đã bắt đầu khởi công hai dự án mới nhất của công ty, hai tòa nhà chọc trời cao nhất Chicago, trụ sở Hội phụ nữ Dòng Ki-tô Ôn hòa và Trụ sở Hội Tam Điểm, tòa nhà cao nhất thế giới với hai mươi mốt tầng. Nền móng của cả hai gần như đã hoàn thành và đang chờ việc lắp cột kèo. Do kiến trúc và xây dựng là một niềm đam mê ở Chicago, việc dựng cột kèo là một sự kiện hoành tráng.
Lễ kỷ niệm dòng tu Ôn hòa đã diễn ra tại góc đường La Salle và Monroe, bên cạnh một tảng đá granite New Hampshire tối màu nặng mười tấn, rộng hơn hai mét vuông và dày chín mươi mốt xen- ti-mét. Tại đây Burnham và Root, cùng các vị chức sắc khác, bao gồm cả chủ tịch của Hội Frances E. Willard và Carter Henry Harrison, một cựu thị trưởng đang vận động tranh cử, mặc dù đã giữ chức bốn nhiệm kỳ liên tục. Khi Harrison xuất hiện, với chiếc mũ nặng nề màu đen thường thấy, túi cộm lên vì những điếu xì gà, đám đông, nhất là những người đàn ông Ailen và thành viên liên đoàn - những người coi Harrison là một người bạn của tầng lớp hạ lưu - hò reo chào mừng. Sự hiện diện của Burnham, Root và Harrison bên cạnh tảng đá Ôn hòa là một điều mỉa mai. Khi còn làm thị trưởng, Harrison từng cất vài thùng rượu whiskey bourbon hảo hạng trong văn phòng của ông tại hội trường thành phố. Tầng lớp thượng lưu nghiêm nghị theo đạo Tin lành của thành phố coi ông như một quan chức phóng đãng mà sự dung túng nạn mại dâm, cờ bạc và rượu chè của ông đã khiến các quận vốn nhiều tệ nạn trong thành phố, nhất là quận Levee - nơi ở của tên cướp khét tiếng Mickey Finn - vươn lên một tầm cao mới của sự đồi bại. Root thì nổi tiếng là một người có lối sống xa hoa, mà theo miêu tả của Louis Sullivan là “một người đàn ông của thế giới trần tục, của xác thịt và có thể là của cả quỷ dữ.” Và Burnham, bên cạnh việc theo dõi chuyến đi vòng quanh thế giới của các chai rượu Madeira, mỗi năm đóng bốn trăm lít rượu do một người bạn gửi đến và tự tay lựa chọn các loại rượu vang cho hầm rượu của Câu lạc bộ Union League.
Trong đại lễ, Burnham trao một cái bay mạ bạc cho bà T. B. Carse, chủ tịch Hiệp hội Xây dựng Nhà thờ. Nụ cười của bà cho thấy bà không biết gì về những thói quen quái dị của những người đàn ông đang có mặt tại tảng đá, hoặc ít nhất là sẵn sàng phớt lờ chúng vào giây phút này. Bà xúc một đống vữa rồi trát nó, mà theo quan sát của một nhân chứng, “bà ta trát đống vữa như một người đàn ông vỗ nhẹ vào đầu của một cậu bé tóc xoăn.” Sau đó, bà trao cái bay cho bà Willard-sợ-sệt, “bà này đã trát vữa tận tâm hơn và để dây một ít vữa lên váy của mình.”
Root, theo một nhân chứng, nghiêng người về phía các bạn mình và đề nghị khe khẽ rằng tất cả hãy bỏ ngang buổi lễ để đi uống cocktail.
***
Gần đó, tại kho phân phối của tờ Chicago Inter Ocean, một tờ báo được nhiều người đọc và tôn trọng, một người nhập cư trẻ gốc Ireland kết thúc ngày làm việc của mình. Gã tên là Patrick Eugene Joseph Prendergast, người ủng hộ nhiệt tình của Carter Harrison. Gã điều hành một đội ngũ những đứa trẻ bán báo nghịch ngợm, những đứa trẻ mà gã căm ghét và ngược lại cũng ghét gã, thể hiện rõ ràng qua những lời trêu trọc và đùa giỡn của chúng. Việc Prendergast có thể định đoạt số phận của hội chợ Thế giới Hoa Kỳ là một việc hết sức vô lí đối với đám trẻ, vì đối với chúng, Prendergast là một người kém cỏi và đáng thương hại nhất mà chúng có thể tưởng tượng ra.
Gã hai mươi hai tuổi, sinh ra ở Ireland vào năm 1868; gia đình gã di cư sang Mỹ vào năm 1871 và vào tháng 8 năm đó chuyển đến Chicago, vừa kịp để trải nghiệm đại hỏa hoạn. Gã luôn luôn, như mẹ gã nói, là “một cậu bé nhút nhát và mệt mỏi.” Gã học tiểu học tại Viện De La Salle của Chicago. Cha xứ Adjutor, một trong các giáo viên của gã, cho biết, “Ở trường, cậu ta là một cậu bé đáng chú ý vì rất nhút nhát và không tham gia vào trò nghịch ngợm của các học sinh khác trong giờ nghỉ trưa. Cậu ta thường chỉ đứng xung quanh. Với ngoại hình của cậu ta, tôi đoán rằng cậu ta không được khỏe; rằng cậu ta bị ốm.” Cha Prendergast giao cho gã công việc giao thư điện tín tại Western Union, một công việc được gã làm trong một năm rưỡi. Khi Prendergast mới mười ba tuổi, cha gã qua đời và gã cũng mất người bạn duy nhất của mình. Trong một khoảng thời gian, gã rút lui khỏi thế giới. Gã dần trưởng thành. Gã bắt đầu đọc về luật pháp, chính trị và tham dự các buổi họp của Câu lạc bộ Đơn Thuế, ở đây họ thảo luận về niềm tin của Henry George rằng các chủ đất tư nhân nên nộp thuế, về bản chất là tiền thuê đất, để phản ánh một sự thật cơ bản là đất đai thuộc về tất cả mọi người. Tại các cuộc họp này, Prendergast khăng khăng đòi tham gia vào tất cả các cuộc thảo luận và có lần ra khỏi phòng họp trên cáng. Với mẹ gã, Prendergast dường như là một con người khác: đọc rộng, hoạt bát, tập trung. “Nó tự dưng thông minh,” bà nói.
Trên thực tế, sự điên rồ của gã trở nên ngày một sâu sắc. Khi không làm việc, gã viết thư, hàng chục, thậm chí hàng trăm bức, gửi những người đàn ông quyền lực nhất thành phố, với giọng văn bình đẳng về vị thế xã hội. Gã viết cho Harrison yêu quý của mình và cho các chính trị gia khác, trong đó bao gồm cả thống đốc bang Illinois. Rất có thể ngay cả Burnham, do ngày càng trở nên nổi bật, cũng đã nhận được thư của gã.
Việc Prendergast là một thanh niên có vấn đề là một điều rõ ràng; nhưng khó có thể coi gã là một người nguy hiểm. Với những ai đã gặp qua, gã dường như chỉ là một sinh linh đáng thương bị nghiền nát trong tiếng ồn và sự bẩn thỉu của Chicago. Nhưng Prendergast mang trong mình niềm hi vọng to lớn về tương lai, tất cả đều được đặt trên vai một người đàn ông: Carter Henry Harrison.
Gã hăm hở ném mình vào các chiến dịch tranh cử chức thị trưởng của Harrison, gửi hàng tá bức thư và nói với bất cứ ai lắng nghe rằng Harrison, người bạn trung thành của Ireland và một người cần mẫn, là ứng cử viên tốt nhất cho vị trí này, mặc dù Harrison không biết gã đã thay mặt ông làm những điều đó.
Gã tin rằng khi Harrison giành được nhiệm kỳ hai năm lần thứ năm của mình - lí tưởng nhất là tại cuộc bầu cử tháng 4 năm 1891 sắp tới, nhưng có lẽ phải đến cuộc bầu cử năm 1893 - ông sẽ thưởng cho Prendergast một công việc. Đó là cách nền chính trị Chicago vận hành. Gã tin tưởng rằng Harrison sẽ chiến thắng và giải cứu gã khỏi những buổi sáng lạnh cóng và đám trẻ bán báo độc địa, những thứ cho đến thời điểm này định hình cuộc sống của gã.
Trong giới bác sĩ tâm lí tiến bộ, niềm tin vô căn cứ này được coi là một ảo tưởng, gắn với một chứng rối loạn thần kinh mới có tên hoang tưởng. May mắn thay, hầu hết ảo tưởng đều vô hại.
***
Vào ngày 25 tháng 10 năm 1890, khi địa điểm tổ chức hội chợ vẫn chưa được chọn, các tin tức đáng lo ngại đã bắt đầu xuất hiện từ châu Âu - dấu hiệu đầu tiên của các thế lực đang tập hợp có thể gây ra thiệt hại lớn hơn rất nhiều so với tình trạng bế tắc của ban giám đốc. Tờ Chicago Tribune cho biết bất ổn ngày càng gia tăng trên các thị trường toàn cầu đã gây ra quan ngại ở London rằng một cuộc suy thoái, thậm chí là một cuộc “khủng hoảng” toàn diện, có thể sắp diễn ra. Ngay lập tức những lo ngại tấn công phố Wall. Giá cổ phiếu đường sắt đột ngột giảm. Giá trị cổ phần của Western Union giảm tới 5 phần trăm.
Vào thứ Bảy tuần sau đó, tin tức về một thất bại đáng kinh ngạc chập chờn truyền qua các tuyến cáp ngầm nối liền Anh và Mỹ.
Tại Chicago, trước khi tin tức đến, các nhà môi giới đã dành rất nhiều thời gian thảo luận về thời tiết kỳ lạ của buổi sáng. Một “tấm màn u ám” bất thường treo phía trên thành phố. Các nhà môi giới đùa rằng sự u ám này có thể là dấu hiệu cho thấy “ngày phán xét” đang đến gần.
Tiếng khúc khích chìm dần khi các bức điện tín đầu tiên từ London xuất hiện: Baring Brothers & Co., nhà đầu tư lớn ở London, đang trên bờ vực phá sản. “Tin tức,” một phóng viên của tờ Tribune cho biết, “gần như không thể tin được.” Ngân hàng Anh và hệ thống các tổ chức tài chính đang chạy đua để gây quỹ nhằm giúp Baring đảm bảo khả năng chi trả các nghĩa vụ nợ. “Cơn sốt bán cổ phiếu điên dại kéo theo sau là một điều khủng khiếp. Đó là một giờ hoảng loạn thực sự.”
Đối với Burnham và các thành viên ban giám đốc, làn sóng thiệt hại tài chính này gây ra không ít phiền hà. Nếu đúng là nó đánh dấu sự khởi đầu của một cơn khủng hoảng tài chính sâu và rộng, nó sẽ diễn ra vào thời điểm không thể tệ hơn. Để Chicago có thể xứng đáng với những lời khoe khoang về việc vượt qua hội chợ Paris cả về quy mô và lẫn lượng khách tham dự, thành phố sẽ phải chi tiêu hơn rất nhiều so với Pháp và phải thu hút được nhiều du khách hơn. hội chợ tại Paris đã thu hút nhiều người hơn bất kỳ sự kiện hòa bình nào khác trong lịch sử. Trong thời điểm thuận lợi nhất, việc thu hút một lượng khách thăm quan như vậy đã là một thách thức; trong thời điểm bất lợi nhất, điều này là không thể, nhất là khi vị trí của Chicago đảm bảo rằng hầu hết du khách sẽ phải mua một vé xe lửa qua đêm. Các công ty đường sắt đã sớm thông báo một cách rõ ràng rằng họ không có kế hoạch giảm giá vé đến Chicago vì hội chợ.
Sự sụp đổ của các công ty khác đã xảy ra ở cả châu Âu và ở Mỹ, nhưng ý nghĩa thật sự của chúng cho tới lúc này vẫn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, khi nhìn lại, đó là một việc tốt.
***
Trong bối cảnh bất ổn tài chính ngày càng gia tăng này vào ngày 30 tháng 10, ban giám đốc bổ nhiệm Burnham là giám đốc xây dựng, với mức lương tương đương ba trăm sáu mươi ngàn đô-la Mỹ; Burnham sau đó đưa Root trở thành kiến trúc sư giám sát của hội chợ và Olmsted trở thành kiến trúc sư giám sát cảnh quan.
Burnham giờ đã có trong tay thẩm quyền chính thức để bắt đầu xây dựng hội chợ, nhưng ông vẫn chưa có một địa điểm để đặt nó.