Khi dân số Englewood ngày càng tăng lên, doanh thu từ thuốc bổ và kem dưỡng da của Holmes cũng tăng theo.
Đến cuối năm 1886, nhà thuốc đã vận hành ổn định và có lãi. Suy nghĩ của y giờ đây hướng tới Myrta Z. Belknap - một người phụ nữ y đã gặp trước đó trong quãng thời gian ngắn ngủi tại Minneapolis. Cô còn trẻ, tóc vàng, mắt xanh, cơ thể đẫy đà, nhưng điều khiến cô vượt lên trên vẻ đẹp phàm tục là ánh hào quang của sự yếu đuối và nhu cầu bao quanh cô. Cô ngay lập tức ám ảnh y, hình ảnh và các đòi hỏi vòi vĩnh của cô in đậm trong tâm trí y. Y đến Minneapolis, mục đích bên ngoài là để kinh doanh. Y tin rằng mình sẽ thành công. Y cảm thấy thích thú khi nghĩ rằng phụ nữ là những kẻ dễ bị tổn thương, như thể họ tin rằng các quy tắc ứng xử được áp dụng ở vùng thôn quê an toàn của họ, Alva, Clinton và Percy, vẫn có thể được áp dụng một khi họ đã bỏ lại phía sau tiệm tạp hóa bụi bặm và đầy mùi dầu hỏa để đi tìm một con đường của riêng mình.
Tuy nhiên, thành phố này nhanh chóng khiến họ trở nên cứng cáp. Tốt nhất nên tóm lấy họ khi họ bắt đầu hành trình đi tìm tự do, trong giai đoạn chuyển tiếp khi họ bỏ lại vùng quê nhỏ bé của mình, khi họ còn vô danh, lạc lối, sự hiện diện của họ không được ghi lại.
Mỗi ngày y nhìn thấy họ bước ra từ xe lửa, xe cáp treo và xe ngựa, nhíu mày nhìn một mảnh giấy có thể sẽ nói cho họ biết họ thuộc về đâu. Các tú bà thành thị hiểu được điều này và thường hứa hẹn với những người phụ nữ mới bước xuống tàu sự ấm áp và tình bạn, để dành thông báo quan trọng nhất cho lúc sau. Holmes yêu mến Chicago, đặc biệt yêu mến cái cách mà khói và tiếng ồn có thể cuốn lấy một người phụ nữ và phi tang mọi dấu vết cho thấy cô từng tồn tại, có lẽ ngoại trừ mùi nước hoa mỏng tang giữa mùi hôi thối của phân, than đá và xác chết thối rữa.
Với Myrta, Holmes dường như đến từ một thế giới thú vị hơn hẳn thế giới của cô. Cô sống cùng với cha mẹ và chạy việc trong một cửa hàng âm nhạc. Minneapolis là một nơi nhỏ bé, mơ màng với những nông dân người Thụy Điển và Na Uy duyên dáng như thân cây ngô. Holmes đẹp trai, ấm áp, rõ ràng là giàu có và anh ta đã sống ở Chicago, thành phố đáng sợ nhất và hấp dẫn nhất. Thậm chí trong buổi gặp mặt đầu tiên, y đã chạm vào cô; ánh mắt y gợi lên trong cô một niềm hi vọng tươi sáng. Khi y rời cửa hàng vào ngày đầu tiên đó, khi những hạt bụi khỏa lấp chỗ trống y để lại, cuộc sống của cô có vẻ buồn tẻ quá sức chịu đựng. Một chiếc đồng hồ kêu tích tắc. Điều gì đó cần phải thay đổi.
Khi lá thư đầu tiên của y đến, ngọt ngào hỏi rằng liệu y có thể tán tỉnh cô được không, cô cảm thấy như một tấm vải thô đã được dỡ bỏ khỏi cuộc sống của mình. Cứ vài tuần, y quay lại Minneapolis. Y kể với cô về Chicago. Y mô tả các tòa nhà chọc trời và giải thích làm sao mà mỗi năm các tòa nhà lại ngày càng cao hơn. Y nói với cô những câu chuyện vui vẻ gây sốc về các trại gia súc, làm thế nào các con heo leo lên Cầu Than Thở đến một cái nền được nâng lên, nơi dây xích được quàng vào chân sau của chúng và chúng đã bị kéo lê, trong tiếng thét, suốt quãng đường đến khu trung tâm đẫm máu của các lò mổ. Và cả những câu chuyện lãng mạn: làm thế nào Potter
Palmer lại yêu vợ ông, Bertha, đến mức ông đã tặng bà khách sạn Palmer, sang trọng như một món quà cưới.
Có những quy tắc trong việc tán tỉnh. Mặc dù không được viết ra giấy, những người phụ nữ trẻ đều biết chúng và biết khi nào chúng bị phá vỡ. Holmes đã phá vỡ tất cả các quy tắc này - và phá chúng với sự vô liêm sỉ thẳng thắn đến nỗi Myrta cho rằng các quy tắc ở Chicago khác với các quy tắc cô biết. Lúc đầu cô cảm thấy sợ hãi, nhưng rồi cô nhanh chóng yêu thích sự nóng bỏng và liều lĩnh mà nó mang lại. Khi Holmes cầu hôn, cô chấp nhận ngay lập tức. Họ kết hôn vào ngày 28 tháng 1 năm 1887.
Holmes quên nói với Myrta rằng y đã có một người vợ, Clara Lovering - bà Herman Webster Mudgett chính thức. Hai tuần sau khi kết hôn với Myrta, y nộp đơn li dị Lovering tại Tòa án tối cao tại Cook County, Illinois. Đây không phải là cử chỉ lịch sử nhằm xóa sạch quá khứ: Y cáo buộc Lovering đã không chung thủy, một lời buộc tội nặng nề. Tuy nhiên, y đã để cho lời buộc tội của mình mất hiệu lực và cuối cùng tòa án bác bỏ nó với lí do “không thể truy tố.”
Tại Chicago, Myrta thấy ngay rằng những câu chuyện Holmes kể với cô chỉ miêu tả được một phần sự quyến rũ và năng lượng nguy hiểm của thành phố này. Nó giống như một cái vạc sắt bốc khói, với xe lửa ở khắp mọi nơi - chói tai, nhưng cũng là lời nhắc nhở rằng cuộc sống cuối cùng đã mở ra với cô. Minneapolis chỉ có sự lặng im và những lời tán tỉnh vụng về không thể tránh khỏi của những người đàn ông có ngón tay tròn như củ khoai đang tìm kiếm ai đó, bất kỳ ai, để chia sẻ nỗi nhọc nhằn ngày qua ngày của họ. Việc Holmes sống tại Englewood, thay vì trung tâm của Chicago, là một sự thất vọng ban đầu, nhưng ngay cả nơi đây cô cũng cảm nhận được một sức sống vượt xa những gì cô đã trải qua ở quê nhà. Cô và Holmes sống tại căn hộ tầng hai trước đây bà Holton từng cư trú. Đến mùa xuân năm 1888, Myrta đã mang thai.
Lúc đầu, cô giúp y vận hành nhà thuốc. Cô thích làm việc với chồng mình và thường nhìn y khi y nói chuyện với một khách hàng. Cô thưởng thức vẻ đẹp và sự bình tĩnh màu xanh lam trong mắt của y và khao khát những khoảnh khắc khi trong quá trình làm việc thường ngày, cơ thể của họ chạm vào nhau. Cô cũng ngưỡng mộ sự quyến rũ trong cách y thực hiện từng giao dịch và cách y giành được thiện cảm của cả các đối tác vốn trung thành với bà Holton hiện đang vắng mặt. Và cô mỉm cười, ít nhất vào thời điểm ban đầu, khi hàng dài vô tận các phụ nữ trẻ bước vào cửa hàng, khăng khăng rằng chỉ có tư vấn trực tiếp của bác sĩ Holmes mới làm mình thỏa mãn.
Myrta dần nhận ra đằng sau vẻ ngoài ấm áp và quyến rũ của chồng mình là một dòng thác tham vọng sâu hoắm. Y dường như chỉ là một người bán thuốc trên danh nghĩa; y sẽ phù hợp hơn với cái định nghĩa đang thịnh hành về người đàn ông thành đạt nhờ chăm chỉ và sáng tạo đã dần nâng mình lên tầng lớp trên của xã hội. “Tham vọng là một lời nguyền trong cuộc sống của chồng tôi,” sau này Myrta cho biết. “Anh ấy muốn có một vị trí mà mình sẽ được vinh danh và tôn trọng. Anh ấy muốn sự giàu có.”
Tuy nhiên, cô nhấn mạnh tham vọng của y không bao giờ làm tính cách y thay đổi và không bao giờ khiến y bị phân tâm trong vai trò người chồng và sau đó là người cha. Holmes, cô thề, có một trái tim dịu dàng. Y yêu mến trẻ em và động vật. “Anh ấy là một người yêu động vật và luôn luôn có một con chó, con mèo hoặc thường là một con ngựa. Anh ấy sẽ chơi với chúng cả tiếng, dạy chúng một vài thủ thuật nhỏ hay nô đùa với chúng.” Y không uống rượu, không hút thuốc và không đánh bạc. Y trìu mến và không bao giờ nổi giận. “Trong cuộc sống gia đình, tôi không nghĩ sẽ tìm được một người đàn ông tốt hơn chồng tôi,” Myrta nói. “Anh ấy không bao giờ nói những lời không tử tế với tôi hay con gái nhỏ của chúng tôi, hoặc mẹ của tôi. Anh ấy không bao giờ làm phật lòng hoặc cáu kỉnh mà luôn hạnh phúc và vô tư.”
Tuy nhiên, ngay từ ban đầu, sự căng thẳng đã tràn ngập cuộc hôn nhân của họ. Holmes không cho thấy sự thù địch; điều đó đến từ Myrta, người nhanh chóng trở nên mệt mỏi với tất cả những khách hàng nữ trẻ đẹp cũng như cách Holmes mỉm cười với họ, chạm vào họ và hướng ánh mắt xanh của mình vào mắt họ. Ban đầu, cô thấy điều đó thật hấp dẫn; sau đó nó làm cô khó chịu; cuối cùng nó làm cô trở nên ghen tuông và cảnh giác.
Tính sở hữu ngày càng tăng của cô không làm Holmes tức giận. Thay vào đó y bắt đầu coi cô là một trở ngại, giống cách một thuyền trưởng nhìn một tảng băng trôi – một thứ cần phải theo dõi và né tránh. Việc kinh doanh rất thuận lợi, y nói với Myrta và y cần cô giúp đỡ việc tài chính của cửa hàng. Cô phải dành nhiều thời gian hơn trong văn phòng trên lầu, viết thư từ và chuẩn bị hóa đơn cho nhà thuốc. Cô viết thư cho cha mẹ về nỗi buồn của cô. Vào mùa hè năm 1888, cha mẹ cô chuyển đến Wilmette, bang Illinois, họ ở trong một ngôi nhà hai tầng xinh xắn tại đường John, đối diện nhà thờ. Cô đơn, buồn lại đang mang thai, Myrta đến ở với cha mẹ và sau đó hạ sinh một bé gái, Lucy.
Đột nhiên Holmes bắt đầu hành động như một người chồng có trách nhiệm. Cha mẹ Myrta lúc đầu còn lạnh lùng, nhưng y đã ve vuốt họ bằng ánh mắt hối hận và cho họ thấy tình yêu của y dành cho vợ và con. Y đã thành công. “Sự hiện diện của anh ấy,” Myrta nói, “giống như trận mưa rào sau cơn hạn hán, như cách mẹ thường nói với anh ấy. Anh ấy tốt bụng, nhẹ nhàng và chu đáo đến mức chúng tôi quên đi những bận tâm và lo lắng của mình.”
Y cầu xin họ tha thứ vì sự vắng mặt dài ngày của mình khỏi căn nhà ở Wilmette. Có rất nhiều việc phải làm ở Chicago. Từ cách y ăn mặc và số tiền y cho Myrta, y trông giống như một người đàn ông đang đi lên trong xã hội và nhận thức này đã thành công trong việc làm giảm đi những mối quan ngại của cha mẹ Myrta. Họ và Myrta bằng lòng với một cuộc sống đánh dấu bằng những lần viếng thăm ngày càng thưa thớt của bác sĩ Holmes, nhưng khi y xuất hiện, y mang hơi ấm, quà tặng, y ôm ấp Lucy trong vòng tay mình.
“Người ta nói rằng trẻ con đánh giá con người giỏi hơn người lớn,” Myrta nói, “và tôi chưa bao giờ nhìn thấy một đứa trẻ nào không đến với Holmes mà không vui vẻ ở cùng với anh ấy. Chúng sẽ đến bên anh ấy dù chúng không đến với tôi. Anh ấy đặc biệt thích trẻ con. Nếu chúng tôi đi du lịch và có một em bé ở trong xe, anh ấy sẽ nói, “Hãy hỏi xem họ có cho mình mượn em bé đó một lát hay không,” và khi tôi trao đứa bé cho anh ấy, anh ấy sẽ chơi với nó và quên đi mọi thứ khác, cho đến khi mẹ đứa bé gọi nó hoặc tôi nhận thấy cô ấy đang muốn con của mình. Anh ấy thường xuyên bế những đứa trẻ đang khóc trên tay mẹ chúng và chẳng mấy chốc chúng ngủ ngoan hoặc chơi đùa một cách hạnh phúc nhất có thể.”
***
Khi Englewood bùng nổ dân số, Holmes đã nhìn thấy một cơ hội. Kể từ khi mua lại nhà thuốc Holton, y đã để mắt đến khu đất hoang bên đường. Sau một vài câu hỏi dò la, y biết được rằng nó thuộc sở hữu của một người phụ nữ ở New York. Vào mùa hè năm 1888, y đã mua mảnh đất và do lo xa, đã kí kết khế ước dưới một cái tên giả, H. S. Campbell. Ngay sau đó, y bắt đầu viết ra các ghi chú và phác thảo các đặc điểm của một tòa nhà y dự định sẽ dựng trên lô đất này. Y không tham khảo ý kiến của kiến trúc sư người Scotland tên là A. A. Frazier, một kiến trúc sư giỏi có văn phòng nằm trong cùng tòa nhà với hiệu thuốc của Holton. Thuê một kiến trúc sư cũng đồng nghĩa với việc tiết lộ mục đích thật sự của công trình đã khắc sâu trong trí tưởng tượng của y.
Thiết kế chính và chức năng của tòa nhà đến với y cùng một lúc, như một kế hoạch chi tiết lấy ra từ trong ngăn kéo. Y muốn đặt các quầy bán lẻ ở tầng một, để tạo ra thu nhập và cho phép y thuê nhiều phụ nữ nhất có thể; các căn hộ sẽ đặt trên tầng hai và tầng ba. Căn hộ của cá nhân y và một văn phòng lớn sẽ chiếm một góc tầng hai và nhìn ra ngã tư đường 63 và Wallace. Đây là những điều cơ bản. Các chi tiết của tòa nhà mới là điều đem đến cho y nhiều khoái lạc hơn cả. Y phác thảo ra một máng gỗ sẽ hạ từ một địa điểm bí mật trên tầng hai xuống tận tầng hầm. Y dự định tra dầu lên cái máng. Y phác thảo nên một căn phòng bên cạnh văn phòng của mình được gắn với một hầm bí mật, kín gió và những bức tường sắt được tráng amiăng. Một chiếc đèn khí gắn vào trong một bức tường, cũng giống như các đèn khí khác được lắp đặt trong các căn hộ của cả tòa nhà, những được điều khiển từ tủ quần áo của y. Sẽ có một tầng hầm lớn với các căn phòng bí mật và một tầng hầm phụ dùng để lưu trữ vĩnh viễn các tài liệu nhạy cảm.
Khi Holmes tiếp tục mơ mộng và phác thảo, các đặc điểm của tòa nhà dần trở nên phức tạp và đem lại sự thỏa mãn lớn hơn cho y. Nhưng đây mới chỉ là giai đoạn mơ mộng. Y khó có thể tưởng tượng được những niềm hân hoan của mình khi tòa nhà được hoàn thành và những người phụ nữ bằng xương bằng thịt di chuyển trong đó. Như mọi khi, ý nghĩ đó khiến y cảm thấy hứng tình.
Y biết việc xây dựng tòa nhà sẽ là một thách thức không nhỏ. Y nghĩ ra một kế hoạch mà y tin sẽ không chỉ làm giảm bớt sự nghi ngờ mà còn làm giảm chi phí xây dựng.
Y cho đăng tin tuyển thợ mộc và lao động chân tay trên báo và chẳng mấy chốc các công nhân với những đội ngựa của họ bắt đầu đào bới. Các hố đào trông giống như một ngôi mộ khổng lồ và toát ra sự lạnh lẽo ẩm mốc y như vậy, tuy nhiên việc này không phải là không được yêu thích vì nó đem đến bóng râm cho các công nhân vào những ngày hè nóng nực. Những người công nhân gặp khó khăn với nền đất. Vài mét đầu vẫn còn dễ dàng xử lí, nhưng khi đào xuống sâu hơn, đất trở thành cát và ẩm ướt. Các vách hố phải được chống đỡ bằng gỗ. Chúng rỉ nước. Báo cáo của một thanh tra chất lượng nhà ở tại Chicago nhận xét: “Nền đất bị lún một cách không đồng đều, có nơi lún đến mười xen-ti-mét trong một khoảng lên tới sáu mét.” Các thợ nề đổ móng và xây các bức tường bên ngoài, trong khi thợ mộc dựng khung nội thất bên trong. Đường phố vang tiếng cưa gỗ khò khè.
Holmes biến mình thành một nhà thầu với nhiều đòi hỏi khắt khe. Khi các công nhân đòi tiền lương của mình, y mắng họ làm kém chất lượng và không chịu trả tiền cho họ, ngay cả khi công việc đã được hoàn thành một cách hoàn hảo. Họ bỏ việc, hoặc y sa thải họ. Y tuyển những người khác thay thế và đối xử với họ theo cách tương tự. Việc xây dựng được tiến hành chậm chạp, nhưng với chi phí chỉ bằng một phần nhỏ chi phí thông thường. Tỷ lệ thôi việc cao đi kèm với hệ quả tất yếu là số lượng các cá nhân biết đến bí mật của tòa nhà được giữ ở mức tối thiểu. Một nhân công có thể được yêu cầu thực hiện một nhiệm vụ nhất định - ví dụ lắp đặt các vòi phun khí ga bên trong lối ra vào tầng hầm - nhưng với lượng thông tin quá ít ỏi để anh ta có thể tiến hành, việc sa thải anh ta có vẻ rất hợp lí, hoặc trong trường hợp xấu nhất, đó chỉ đơn thuần là một yêu cầu lập dị.
Mặc dù vậy, một thợ nề tên là George Bowman cảm thấy trải nghiệm làm việc cho Holmes hơi sởn gai ốc. “Tôi không biết phải định nghĩa Holmes như thế nào,” Bowman cho biết. “Tôi đã không làm việc cho anh ta, nhưng hai ngày trước anh ta đến và hỏi liệu tôi có thấy công việc lát gạch này vất vả không. Anh ta hỏi tôi liệu tôi có muốn kiếm tiền một cách dễ dàng hơn và tất nhiên tôi nói có. Một vài ngày sau, anh ta đến chỗ tôi và chỉ tay xuống tầng hầm, cho biết, “Anh có thấy người đàn ông dưới đó? Vâng, đó là anh rể của tôi và hắn chả yêu quý gì tôi, cũng như tôi chả yêu quý gì hắn. Bây giờ, sẽ thật đơn giản nếu anh tình cờ thả một hòn đá vào đầu hắn trong khi anh đang làm việc và tôi sẽ cho anh năm mươi đô la.”
Phong thái của Holmes khi đưa ra đề nghị mới là điều khiến nó trở nên đáng sợ - “giống như phong thái của một người bạn hỏi bạn những câu hỏi tầm phào nhất,” Bowman cho biết.
Không thể biết chắc liệu Holmes có thực sự muốn Bowman giết người hay không. Nếu trước đó Holmes có thuyết phục “anh rể” chuyển đổi bảo hiểm nhân thọ sang người thụ hưởng là Holmes thì điều đó cũng sẽ hoàn toàn phù hợp với tính cách của y. Cũng có thể Holmes chỉ đơn thuần kiểm tra Bowman để xem liệu anh có hữu ích trong tương lai hay không. Nếu vậy, đó là một bài kiểm tra mà Bowman đã thất bại. “Tôi sợ đến mức không biết phải nói gì hay làm gì,” Bowman nói, “nhưng tôi không thả đá và rời khỏi nơi này ngay sau đó.”
Ba người khác đạt đủ tiêu chuẩn về sự tin cậy của Holmes. Mỗi người làm việc cho y trong suốt thời gian xây nhà và tiếp tục đồng lõa với y sau khi tòa nhà được hoàn thành. Một là Charles Chappell, một thợ máy sống gần bệnh viện Cook County. Y làm việc cho Holmes với tư cách một công nhân thông thường, nhưng sau đó đã chứng minh mình sở hữu một tài năng mà Holmes thấy đặc biệt có giá trị. Tiếp theo là Patrick Quynlan, người đã sống ở góc đường 47 giao Morgan ở Englewood cho đến khi chuyển vào tòa nhà của Holmes và làm người trông coi nó. Hắn là một người đàn ông có dáng người nhỏ thó, cáu bẳn, gần bốn mươi tuổi, với mái tóc xoăn nhạt và một bộ ria mép màu cát.
Người thứ ba và cũng là người quan trọng nhất, là Benjamin Pitezel, một thợ mộc, người đã tham gia cùng Holmes vào tháng 11 năm 1889. Hắn thay thế một công nhân khác tên là Robert Latimer, người đã bỏ việc để làm gác cổng tại ngã tư đường sắt ở trước cửa nhà thuốc của Holmes. Latimer cho biết lúc đầu, Pitezel chăm sóc những con ngựa tham gia vào việc xây dựng tòa nhà của Holmes, nhưng sau đó hắn trở thành trợ lí của y. Holmes và Pitezel có vẻ khá thân mật, ít nhất đủ để khiến Holmes giúp Pitezel một chuyện khá tốn kém. Pitezel bị bắt ở bang Indiana khi cố gắng thanh toán bằng ngân phiếu giả mạo. Holmes đã nộp tiền bảo lãnh cho hắn được tại ngoại và chịu mất số tiền khi Pitezel, theo như kế hoạch, không quay lại chịu xét xử.
Pitezel có khuôn mặt nhẵn mịn và chiếc cằm sắc nét. Hắn có thể coi là đẹp trai nếu không có cái vẻ hốc hác đói kém và mí mắt sụp xuống che đi tròng đen. “Nhìn chung,” Holmes viết, “Tôi có thể mô tả anh ta là một người đàn ông cao gần một mét tám (ít nhất là một mét bảy mươi tám), gầy gò và nặng từ sáu mươi sáu đến bảy mươi ký, có mái tóc đen nhánh, hơi thô và rất dày, dường như không bị rụng. Ria mép của anh có màu sáng hơn nhiều và tôi nghĩ có pha một chút ánh đỏ, mặc dù tôi thấy anh ta thỉnh thoảng nhuộm đen nó, điều đem lại cho anh ta một vẻ ngoài tương đối khác.”
Pitezel bị nguyền rủa với nhiều chứng bệnh khác nhau: đau đầu gối do phải đổ nền quá nhiều tầng nhà, mụn cơm trên cổ khiến hắn không thể mặc một chiếc áo cổ cứng và răng đau đến mức đã có thời điểm y phải tạm dừng làm việc cho Holmes. Mặc dù là một người nghiện rượu mãn tính, hắn vẫn được bác sĩ khen là một người đàn ông “khỏe mạnh”.
Pitezel đã kết hôn với Carrie Canning sống tại Galva, bang Illinois và là cha của một bầy con ngày càng đông. Các bức ảnh cho thấy con hắn là một đám trẻ dễ thương, thậm chí là lanh lợi - chúng dường như luôn sẵn sàng bày ra các trò nghịch ngợm với chổi và khăn lau bát. Con gái đầu tiên của vợ chồng hắn, Dessie, được sinh ngoài giá thú, một sự kiện hoàn toàn nằm trong những gì cha mẹ Pitezel đã dự tính. Trong nỗ lực cuối cùng kêu gọi Pitezel đi theo con đường chân chính, cha hắn đã viết: “Hãy đến với ta và ta sẽ làm việc thiện theo lệnh của Đấng Cứu Rỗi. Con có sẵn sàng đi không? Ta sẽ thanh tẩy con khỏi bản chất xấu xa và ta sẽ gột rửa con khỏi mọi vết bẩn và ta sẽ là một người cha đối với con và con sẽ là một người con và một người thừa kế.” Nỗi đau trong lời nói của cha hắn có thể sờ thấy được. “Cha yêu con,” ông già viết, “mặc dù con đã lạc lối quá lâu.”
Alice, đứa con thứ hai, được sinh sau khi kết hôn. Tiếp theo là một bé gái và ba bé trai, nhưng một bé trai tử vong vì bệnh bạch hầu ngay sau khi sinh. Ba đứa trẻ trong số đó - Alice, Nellie và Howard - sẽ trở nên nổi tiếng khắp nước Mỹ, đến mức mà phóng viên viết tiêu đề sẽ chỉ giới thiệu chúng bằng tên mà không cần họ, tự tin rằng ngay cả những người đọc mơ hồ nhất cũng biết chúng là ai.
Pitezel cũng sẽ sớm trở nên nổi tiếng vì Holmes. “Pitezel là công cụ của y,” một luật sư quận cho biết, “sản phẩm của y.”
***
Việc xây dựng tòa nhà của Holmes diễn ra trong nhiều giai đoạn khó khăn và có khi phải tạm dừng mỗi mùa đông, khoảng thời gian mà các công nhân gọi là “mùa xây dựng” kết thúc, mặc dù Holmes đã đọc về cách các kiến trúc sư ở Loop sử dụng những kĩ thuật cho phép xây dựng quanh năm. Cuối cùng, việc Holmes dựng nên tòa nhà của mình trong cùng thời điểm Jack Đồ Tể bắt đầu giết chóc cách đó hàng ngàn dặm là một điều làm dấy lên nhiều cuộc tranh cãi.
Vụ giết người đầu tiên của Jack xảy ra vào ngày 31 tháng 8 năm 1888, vụ cuối cùng vào đêm ngày 9 tháng 11 năm 1888 khi hắn gặp một cô gái điếm tên là Mary Kelly và theo cô về phòng. Hắn cắt cổ cô bằng một đường dao như nét vẽ của Van Gogh khiến đầu cô gần lìa khỏi thi thể. Trong vài giờ sau đó, trong bốn bức tường kín, hắn đã hủy hoại nạn nhân và bằng những hành động tàn bạo. Kelly đã mang thai được ba tháng vào thời điểm đó.
Những vụ giết người dừng lại đột ngột, như thể cuộc hẹn với Mary Kelly cuối cùng đã làm thỏa mãn nhu cầu của kẻ giết người. Năm nạn nhân được xác định, chỉ năm người và Jack Đồ Tể mãi mãi trở thành hiện thân của cái ác thuần túy.
Mọi cư dân Chicago đều ngấu nghiến đọc các tin tức từ nước ngoài, nhưng không ai háo hức như bác sĩ H. H. Holmes.
***
Vào ngày 29 tháng 6 năm 1889, khi tòa nhà của Holmes đã hoàn thành được một nửa, Englewood sáp nhập với Chicago và ngay sau đó thành lập đội cảnh sát mới, đội Mười, thuộc Phân đội Hai, tại đường 63 giao với Wentworth, cách hiệu thuốc của Holmes bảy tòa nhà. Chẳng mấy chốc các tuần tra viên, dưới sự chỉ huy của đội trưởng Horace Elliott, bắt đầu tuần tra thường xuyên qua các cửa hàng, nơi mà theo thông lệ họ sẽ dừng lại để trò chuyện với những người chủ trẻ tuổi và duyên dáng. Theo định kỳ, các tuần tra viên đi thong thả trên đường phố để ngắm nhìn việc xây dựng các tòa nhà mới. Englewood đã sở hữu một số công trình đáng kể, bao gồm tòa nhà YMCA, Trường Sư phạm Cook County, nơi đào tạo các giáo viên và nhà hát opera Timmerman xa hoa sắp hoàn thành tại góc đường 63 và Stewart, nhưng ngôi làng vẫn còn có rất nhiều khu đất trống và tòa nhà nào sẽ được xây dựng tại các khu này là một chủ đề trò chuyện của các cư dân.
Quá trình xây dựng mất thêm một năm nữa vì đợt nghỉ đông. Đến tháng 5 năm 1890, tòa nhà về cơ bản đã hoàn thiện. Tầng hai có sáu hành lang, ba mươi lăm phòng và năm mươi mốt cửa, tầng ba có ba mươi sáu phòng. Tầng đầu tiên của tòa nhà có đủ không gian cho năm cửa hàng bán lẻ, cửa hàng tốt nhất trong số đó là một cửa hàng tiện lợi lớn và mời gọi trên góc giao lộ giữa đường 63 và Wallace.
Một tháng sau khi chuyển vào tòa nhà của mình, Holmes bán nhà thuốc Holton và đảm bảo với người mua rằng họ gần như sẽ không phải đối mặt với bất cứ sự cạnh tranh nào.
Sau đó, Holmes đã mở một nhà thuốc mới ngay bên đường, trong cửa hàng tiện lợi của mình, trước sự thất vọng của người mua.
Holmes mở một loạt các cửa hàng khác tại tầng một, trong đó bao gồm một tiệm hớt tóc và một nhà hàng. Thư mục thành phố cũng liệt kê tại địa chỉ của Holmes có văn phòng của một bác sĩ tên là Henry D. Mann, có thể là một bí danh khác của y và trụ sở chính của Công ty Uốn Kính Warner, công ty được Holmes thành lập với vỏ ngoài là để tham gia một ngành kinh doanh mới đang bùng nổ khi nhu cầu chế tạo và định hình các tấm kính đột ngột tăng mạnh.
Holmes trang bị các cửa hàng của mình với đồ nội thất và trang thiết bị mà y mua bằng thẻ tín dụng. Y không có ý định trả nợ và tự tin rằng có thể tránh bị truy tố bằng mưu mô và sự quyến rũ của mình. Khi chủ nợ đến đòi gặp chủ sở hữu của tòa nhà, Holmes vui vẻ giới thiệu họ với nhân vật giả tưởng H. S. Campbell.
“Y là người đàn ông dẻo mồm nhất mà tôi từng gặp,” C. E. Davis, người mà Holmes đã thuê làm trưởng quỹ của nhà thuốc, cho biết. Theo Davis, các chủ nợ sẽ “giận dữ lao vào và chửi bới y thậm tệ, y sẽ chỉ mỉm cười và nói chuyện với họ rồi châm xì gà và rót rượu, thế rồi họ ra về như thể vừa gặp gỡ tri kỷ của mình. Tôi chưa bao giờ thấy y tức giận. Không thể gây sự với y dù có cố gắng thế nào đi chăng nữa.”
Davis ra hiệu về phía cửa hàng. “Nếu tất cả các trát thế chấp tài sản để xây dựng công trình này đã được dán lên ba bức tường, tòa nhà sẽ trông giống như một bảng quảng cáo xiếc voi ma mút. Nhưng tôi chưa bao giờ nghe nói về bất kỳ khoản thế chấp nào được thu thập. Holmes từng nói với tôi rằng y trả tiền cho một luật sư để giữ mình khỏi dính vào rắc rối, nhưng với tôi sự giả dối trơ tráo của y mới là điều đã giúp đỡ y. Một hôm, y đã mua một số đồ nội thất cho nhà hàng của mình và chuyển nó vào và ngay tối hôm đó nhân viên đại lí đến thu tiền hoặc dỡ đồ. Holmes rót rượu, đem ra các món ăn nhẹ, mua tặng một điếu xì gà và tiễn người nhân viên đang cười phớ lớ vì một trò đùa của y ra về, với lời hứa sẽ gọi điện vào tuần tới để trả tiền. Ba mươi phút sau khi nhân viên đại lí ra về, Holmes đã cho vài chiếc xe ngựa đỗ trước cổng chuyển đồ nội thất lên và đại lí đó chẳng nhận được một xu nào. Holmes cũng không phải đi tù. Y là người duy nhất ở Mỹ có thể làm điều đó.”
Holmes đã có tiền để trả nợ. Davis ước tính rằng Holmes lãi hai trăm ngàn đô-la từ nhà thuốc và các dự án kinh doanh khác, hầu hết trong số đó là lừa đảo. Holmes đã từng tìm cách bán cho các nhà đầu tư một chiếc máy biến nước thành khí gas tự nhiên. Thực tế, y đã bí mật kết nối cái máy của mình với đường ống dẫn khí gas của thành phố.
Y luôn luôn duyên dáng và thân thiện, nhưng có lần ngay cả những đặc điểm này không thể dễ dàng làm hài lòng các đối tác kinh doanh. Một dược sĩ tên Erickson nhớ lại Holmes từng vào cửa hàng của mình để mua chloroform, một chất gây mê mạnh được phát hiện ra và sử dụng từ cuộc nội chiến. “Đôi khi y đến hiệu thuốc chín hay mười lần một tuần và lần nào cũng mua với số lượng lớn. Tôi vài lần hỏi y sử dụng nó làm gì, nhưng y đưa ra những câu trả lời không thỏa đáng. Cuối cùng tôi đã từ chối cung cấp thêm thuốc trừ khi y nói với tôi mục đích sử dụng, khi tôi giả vờ rằng tôi sợ y không sử dụng nó vì mục đích chính đáng.”
Holmes nói với Erickson mình đã sử dụng chloroform cho các thí nghiệm khoa học. Sau đó, khi Holmes trở lại để mua thêm chloroform, Erickson hỏi y tiến độ của các thí nghiệm này.
Holmes ném cho ông một cái nhìn trống rỗng và nói rằng y không tiến hành bất kỳ thí nghiệm nào cả.
“Tôi không bao giờ có thể hiểu được y,” Erickson nói.
***
Một phụ nữ tên Strowers thỉnh thoảng giặt đồ cho Holmes. Một hôm, y đề nghị trả cho bà sáu ngàn đô-la nếu bà có thể kiếm được bảo hiểm nhân thọ trị giá mười ngàn đô-la và biến y thành người thụ hưởng. Khi bà hỏi tại sao y lại làm như vậy, y đã giải thích rằng khi bà mất, y sẽ thu về bốn ngàn, nhưng vào thời điểm hiện tại, bà có thể tiêu sáu ngàn đô-la của mình theo bất kỳ cách nào bà muốn.
Đối với bà Strowers, đây là cả một gia tài và tất cả những gì bà phải làm là kí một vài tài liệu. Holmes đảm bảo với bà tất cả là hoàn toàn hợp pháp.
Bà vẫn khỏe mạnh và dự kiến sẽ sống tốt trong một thời gian dài. Bà suýt nữa đã chấp nhận đề nghị khi Holmes nói với bà, một cách nhẹ nhàng, “Đừng sợ tôi.”
Điều đó khiến bà khiếp sợ.
***
Trong tháng 11 năm 1890, Holmes, cùng với phần còn lại của Chicago, biết ban giám đốc hội chợ Thế giới Hoa Kỳ cuối cùng đã thống nhất về địa điểm xây dựng hội chợ. Trong niềm hân hoan của mình, y đọc thấy rằng địa điểm chính thức là công viên Jackson về phía Đông tòa nhà của y ở cuối đường 63 phía hồ, với các triển lãm ở trung tâm thành phố Chicago và công viên Washington, dọc theo toàn bộ chiều dài của đại lộ Midway.
Holmes biết các công viên này từ những chuyến đạp xe của mình. Giống như hầu hết người Mỹ, y bị cuốn vào cơn sốt xe đạp đã được châm ngòi nhờ sự ra đời của xe đạp “an toàn”, với hai bánh xe cùng kích cỡ và ổ đĩa xích. Tuy nhiên, khác với phần lớn người Mỹ, Holmes tìm cách tận dụng cơn sốt bằng cách mua xe đạp bằng thẻ tín dụng, sau đó bán lại chúng mà không bao giờ trả tiền mua ban đầu. Bản thân y đạp xe Pope.
Quyết định của Công ty Tổ chức hội chợ tạo ra một làn sóng tham lam trải dài suốt phía Nam Chicago. Một quảng cáo trên tờ Chicago Tribune mở bán một ngôi nhà sáu phòng tại đường 41 giao Ellis, cách công viên Jackson khoảng hơn một cây rưỡi về phía Bắc và tự hào rằng trong quá trình diễn ra hội chợ, chủ sở hữu mới có thể cho thuê bốn trong số sáu phòng với giá gần một ngàn đô-la mỗi tháng (tương đương ba mươi ngàn đô-la ngày nay). Tòa nhà và đất đai của Holmes ngay từ đầu vốn đã có giá vì sự tăng trưởng của Englewood, nhưng nay tài sản của y dường như tương đương với một mỏ vàng.
Ý tưởng về cách khai thác quặng vàng này và đáp ứng các nhu cầu khác của Holmes xuất hiện trong đầu y. Y đăng tin tìm kiếm nhiều công nhân xây dựng hơn và một lần nữa kêu gọi sự giúp đỡ từ các cộng sự trung thành của mình, Chappell, Quynlan và Pitezel.