• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Ác quỷ thành phố trắng
  3. Trang 23

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • More pages
  • 72
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 22
  • 23
  • 24
  • More pages
  • 72
  • Sau

Bất mãn

Burnham hiếm khi gặp gia đình mình vào thời điểm ấy. Mùa xuân năm 1891, ông gần như sống tại các khu ổ chuột ở công viên Jackson; Margaret ở lại Evanston với một vài người hầu giúp bà chăm sóc năm đứa con. Gia đình Burnham chỉ cách nhau một chặng xe lửa, nhưng những yêu cầu ngày càng tăng của hội chợ khiến việc vượt qua khoảng cách đó trở nên khó khăn như vượt qua eo đất Panama39. Mặc dù Burnham có thể gửi điện tín, tuy nhiên chúng buộc phải ngắn gọn, lạnh lùng và cộc lốc với rất ít khoảng trống cho sự riêng tư. Do đó, Burnham viết thư và viết thư thường xuyên. “Em đừng nghĩ sự hối hả trong cuộc sống hiện tại này của anh sẽ kéo dài mãi mãi,” ông viết trong một lá thư, “anh sẽ dừng lại sau hội chợ Thế giới. Anh đã quyết tâm thực hiện điều này.” hội chợ đã trở thành một “cơn bão”, ông nói. “Vượt qua cơn bão này là mong muốn lớn nhất của anh.”

39 Eo đất Panama, còn có tên là eo đất Darien, là một dải đất hẹp nằm giữa biển Ca-ri-bê và Thái Bình Dương, nối Bắc Mỹ và Nam Mỹ.

Mỗi bình minh, ông rời khu của mình và kiểm tra các địa điểm thi công. Máy nạo chạy bằng sáu thùng hơi nước với kích thước của một nhà kho nổi gặm lấy bờ hồ, trong khi năm ngàn người với cuốc xẻng, xe cút kít và máy ủi ngựa kéo từ từ cắt gọt quang cảnh, nhiều người trong số đó đội mũ quả dưa và mặc áo măng-tô như thể họ vừa đi ngang qua và trong một phút bốc đồng, đã quyết định xuống nạo cùng. Mặc cho sự hiện diện của rất nhiều công nhân lao động, công trường vẫn thiếu vắng tiếng ồn và sự nhộn nhịp một cách ngạc nhiên. Công viên quá rộng lớn, các công nhân quá dàn trải để có thể khiến người ta ngay lập tức nhận ra việc xây dựng đang được tiến hành. Những dấu hiệu đáng tin cậy duy nhất là những đám khói đen từ các máy nạo vét và mùi hương luôn hiện diện của lá cây được đốt cháy từ các đống củi khô. Những chiếc cọc màu trắng rực rỡ, đánh dấu đường viền của các tòa nhà, khiến khu đất trông giống một bãi tha ma thời nội chiến. Burnham tìm thấy vẻ đẹp trong sự xù xì này. “Giữa những cây cối của đảo Wooded, những chiếc lều trắng dài của các nhà thầu lấp lánh trong ánh mặt trời, một nốt nhạc màu trắng mềm mại trên nền nâu xám và màu xanh tinh khiết của đường chân trời cuối hồ tạo nên một sự tương phản đáng khích lệ so với quang cảnh gồ ghề và lởm chởm” - nhưng ông cũng tìm thấy trong đó sự thất vọng sâu sắc.

Công việc tiến triển chậm chạp, bị cản trở bởi các mối quan hệ ngày càng xấu đi giữa hai cơ quan phán quyết của hội chợ, Ủy ban Quốc gia và Công ty hội chợ và do sự chậm chễ của các kiến trúc sư trong việc đưa bản vẽ của họ đến Chicago đúng hạn. Tất cả các bản vẽ đều chậm tiến độ. Trầm trọng hơn là hiện giờ vẫn chưa có đối thủ cho tháp Eiffel. Hơn nữa, triển lãm xây dựng đã bước vào giai đoạn bấp bênh - một điều quen thuộc đối với mọi dự án xây dựng lớn khi những trở ngại bất ngờ xuất hiện.

Burnham biết làm sao để đối phó với nền đất nổi tiếng là mỏng manh của Chicago, nhưng công viên Jackson đã khiến ông phải ngạc nhiên.

Ban đầu, khả năng chịu lực của mặt đất, theo cách gọi của một kĩ sư, là “hầu như không rõ ràng.” Vào tháng 3 năm 1891, Burnham đã ra lệnh thực hiện các đợt kiểm tra để đánh giá khả năng nâng đỡ những cung điện nguy nga - lúc này vẫn đang trên bàn vẽ của các kiến trúc sư - của nền đất. Điều đặc biệt đáng lo ngại là trên thực tế, các tòa nhà sẽ được bố trí tiếp giáp với các kênh mới đào và đầm phá. Như bất kỳ kĩ sư nào cũng biết, nền đất dưới áp lực có xu hướng dịch sang các khu vực nạo vét liền kề. Các kĩ sư của hội chợ tiến hành thử nghiệm đầu tiên cách khu vực đầm phá gần bốn mét trên mặt đất, mà theo kế hoạch, sẽ nâng đỡ góc đông bắc của tòa nhà Điện lực. Họ đặt một khối phẳng có diện tích hơn một mét vuông và đặt sắt lên trên nhằm tạo một áp suất gần một tấn hai trên mỗi feet40 vuông, tổng trọng lượng cuối cùng lên tới hai mươi hai tấn. Họ để lại nó ở vị trí này trong mười lăm ngày và thấy rằng nó chỉ lún xuống sáu mươi ba mi-li-mét. Ngày tiếp theo, họ đào một rãnh cách khối phẳng một mét hai. Trong hai ngày tiếp theo, khối bị lún xuống thêm ba mươi hai mi-li-mét nhưng không lún sâu hơn. Đây là một tin tốt lành. Điều này đồng nghĩa với việc Burnham có thể sử dụng cấu trúc dầm bệ cọc của Root làm móng mà không cần phải lo lắng về việc lún đất thảm họa.

40 Foot: Đơn vị đo lường của Mỹ, 1 foot tương đương 30,48cm.

Để chắc chắn rằng đặc điểm này đồng đều trên khắp công viên, Burnham giao cho kĩ sư trưởng, Abraham Gottlieb, thử nghiệm trên công trường xây dựng các tòa nhà khác. Các cuộc thử nghiệm mang lại kết quả tương tự - cho đến khi người của Gottlieb đến các địa điểm xây dựng tòa nhà Mỹ thuật Tự do và Công nghiệp khổng lồ của George Post. Nền đất dự định nâng đỡ nửa phía Bắc của tòa nhà lún ít hơn hai mươi sáu mi-li-mét, tương tự như phần còn lại của công viên. Tuy nhiên, ở phía Nam của công trường, họ đã có một khám phá nản lòng. Ngay khi các công nhân mới chỉ đặt sắt lên cái nền, nó đã chìm tới hai mươi xen-ti-mét. Trong bốn ngày tiếp theo, nền đất lún thêm 76 xen-ti-mét và sẽ tiếp tục chìm nếu các kĩ sư không dừng thử nghiệm.

Hẳn là vậy rồi: Hầu như tất cả nền đất của công viên Jackson đủ điều kiện để nâng đỡ mọi nền đá trôi nổi ngoại trừ tòa nhà lớn nhất và nặng nhất của hội chợ. Tại đây, Burnham nhận ra, các nhà thầu sẽ phải đóng cọc xuống tới nền đất cứng, sẽ phiền phức, tốn kém và là một nguyên nhân kéo dài sự chậm trễ.

Tuy nhiên, các vấn đề của tòa nhà này chỉ mới bắt đầu.

***

Vào tháng 4 năm 1891, Chicago biết được kết quả cuộc bầu cử thị trưởng mới nhất. Trong các câu lạc bộ giàu có nhất của thành phố, các nhà tư bản công nghiệp tụ tập để chúc mừng việc Carter Henry Harrison, người mà họ xem như là quá nhu nhược trước các công đoàn, đã thua trước Hempstead Washburne, một thành viên của Đảng Cộng hòa. Burnham cũng tự cho phép mình tận hưởng một khoảnh khắc ăn mừng. Đối với ông, Harrison đại diện cho thành phố Chicago cũ của rác rưởi, khói bụi và tội phạm - tất cả những điều mà hội chợ được thiết kế để phủ nhận.

Tuy nhiên, các lễ ăn mừng đã bị kiềm chế bởi thực tế là Harrison chỉ thua sát nút, ít hơn bốn ngàn phiếu. Hơn thế nữa, ông suýt nữa giành chiến thắng mà không có sự hỗ trợ của một Đảng lớn nào. Bị Đảng Dân chủ xa lánh, ông đã ứng cử dưới tư cách một ứng viên độc lập.

***

Ở một nơi khác trong thành phố, Patrick Prendergast trở nên sầu não. Harrison là người hùng của gã, hi vọng của gã. Tuy nhiên, kết quả kiểm phiếu sát nhau đến mức gã tin rằng nếu Harrison ứng cử một lần nữa, ông sẽ giành chiến thắng. Prendergast quyết tâm tăng gấp đôi nỗ lực của chính mình để giúp Harrison thành công.

***

Tại công viên Jackson, Burnham phải đối mặt với sự gián đoạn lặp đi lặp lại xuất phát từ vai trò của ông - đại sứ của hội chợ với thế giới bên ngoài - với nhiệm vụ gieo trồng sự thiện chí và thu hút sự tham dự hội chợ của người dân trong tương lai. Các bữa tiệc chiêu đãi, hội đàm và các chuyến tham quan chủ yếu là một sự phiền toái lãng phí thời gian. Như vào tháng 6 năm 1891, theo yêu cầu của Tổng giám đốc Davis, Burnham đã tốn hai ngày để đưa một tiểu đoàn chức sắc nước ngoài tham quan công viên Jackson. Còn lại, những việc khác mang lại cho ông niềm vui thuần tuý. Một vài tuần trước đó, Thomas Edison, được biết đến như là “Phù thủy của công viên Menlo”, đã đến thăm khu ổ chuột của Burnham. Burnham đưa ông đi thăm xung quanh. Edison gợi ý hội chợ sử dụng bóng đèn sợi đốt thay vì đèn hồ quang, bởi vì loại đèn đốt nóng sáng này tạo ra ánh sáng dịu hơn. Tại những nơi bắt buộc sử dụng đèn hồ quang, ông nói, chúng nên được phủ bằng chao đèn hình cầu. Và tất nhiên Edison kêu gọi hội chợ sử dụng dòng điện một chiều theo tiêu chuẩn hiện hành.

Cuộc “gặp gỡ văn minh” này bị lu mờ trước trận chiến khắc nghiệt nhằm giành quyền thắp sáng Hội chợ đang diễn ra bên ngoài công viên Jackson. Một bên là Công ty General Electric, được thành lập khi J. P. Morgan tiếp quản công ty của Edison và sáp nhập nó với vài công ty khác và hiện đang đề xuất lắp đặt một hệ thống điện một chiều nhằm chiếu sáng cho hội chợ. Phía bên kia là Công ty Điện Westinghouse, với nỗ lực nối công viên Jackson với dòng điện xoay chiều, sử dụng bằng sáng chế mà người sáng lập ra nó, George Westinghouse, đã có được một vài năm trước từ Nikola Tesla.

General Electric đề nghị khoản chi phí một triệu tám trăm ngàn đô-la, khẳng định thỏa thuận này sẽ không đem lại một xu lợi nhuận nào. Một vài giám đốc hội chợ nắm trong tay cổ phiếu của General Electric và kêu gọi William Baker, chủ tịch của hội chợ từ khi Lyman Gage nghỉ hưu, chấp nhận giá thầu. Baker từ chối, cho đó là cái giá “cắt cổ”. General Electric trở lại một cách kỳ diệu với một dự thầu có giá năm trăm năm mươi tư ngàn đô-la. Nhưng Westinghouse, với hệ thống dòng điện xoay chiều vốn dĩ rẻ và hiệu quả hơn, chào giá ba trăm chín mươi chín ngàn đô-la. Hội chợ chọn Westinghouse và giúp thay đổi lịch sử của ngành điện.

***

Nỗi thất vọng lớn nhất của Burnham là việc các kiến trúc sư không thể hoàn thành bản vẽ của họ đúng tiến độ.

Nếu trong quá khứ ông có khúm núm trước Richard Hunt và những người đàn ông bờ Đông thì bây giờ ông không còn cho thấy điều đó nữa. Vào ngày 2 tháng 6 năm 1891, trong một bức thư gửi Hunt, ông viết, “Chúng tôi đang ở trong một trạng thái bế tắc chết người khi phải chờ các bản vẽ quy mô của ngài. Liệu chúng tôi có thể có được các bản vẽ và kết thúc công việc ở đây được không?”

Bốn ngày sau đó, ông một lần nữa thúc giục Hunt: “Sự chậm trễ các ngài gây ra cho chúng tôi bằng việc không chuyển tiếp các bản vẽ quy mô là một điều đáng xấu hổ cùng cực.”

Cũng trong tháng đó, một sự gián đoạn nghiêm trọng, nếu không muốn nói là không thể tránh khỏi, khiến Ban Cảnh quan trở nên khó khăn hơn. Olmsted trở bệnh nặng. Ông coi tình trạng của mình là kết quả của việc ngộ độc một sắc tố gốc asen có tên gọi Thổ Nhĩ Kỳ Đỏ trong giấy dán tường tại khu nhà ở Brookline của mình. Tuy nhiên, nguyên nhân có thể chỉ đơn giản là một cơn u sầu khác, loại bệnh đã hành hạ ông trong nhiều năm.

Trong thời gian phục hồi sức khỏe, Olmsted đã đặt hàng các bầu cây và cây để trồng trong hai vườn ươm lớn của hội chợ. Ông đặt lá ren bạc, kèn thảo mộc, cây vòi voi dòng President Garfield, cây thủy cự, cây bạc hà hăng, cây thường xuân, cỏ roi ngựa, cây dừa cạn Anh quốc và Algeria và một bảng màu phong phú của hoa phong lữ, trong đó có loài Hoàng tử Đen, Christopher Columbus, Mrs. Turner, Crystal Palace, Happy Thought và Jeanne d’Arc. Ông đã cử một đội quân thu gom đến bờ hồ Calumet, nơi họ thu thập được hai mươi bảy bao tải hoa mống mắt, cói, cây bồ hoàng cũng như các loài thực vật và cỏ bán thủy khác. Họ thu thập thêm bốn ngàn thùng rễ hoa loa kèn ao, mà sau đó người của Olmsted nhanh chóng trồng chúng chỉ để chứng kiến hầu hết các rễ cây đầu hàng trước mực nước luôn thay đổi của hồ.

Ngược lại với sự phát triển tươi tốt trong các vườn ươm, mặt đất của công viên được cạo sạch bong khỏi tất cả các thảm thực vật. Công nhân chăm bón nền đất với một ngàn toa tàu chở phân vận chuyển từ Hiệp hội Chăn nuôi và thêm hai ngàn nữa thu thập từ những con ngựa làm việc ở công viên Jackson. Sự hiện diện của quá nhiều đất bón phân cũng như phân bón bị phơi ra như vậy đã trở thành một vấn đề. “Tình hình vốn đã đủ tồi tệ trong thời tiết nóng, khi một cơn gió Nam có thể làm mù mắt của cả người và thú,” Rudolf Ulrich, giám sát cảnh quan của Olmsted tại công viên viết, “nhưng mọi chuyện còn tồi tệ hơn trong thời tiết ẩm ướt, mặt đất mới được bón phân còn chưa khô, trở nên ướt sũng khi gặp nước.”

Ngựa đứng ngập đến bụng.

***

Đó là thời điểm giữa mùa hè năm 1891, khi những bản vẽ cuối cùng của các kiến trúc sư được hoàn thiện. Khi mỗi công trình bước vào giai đoạn khởi công, Burnham bắt đầu mời thầu. Nhận thấy rằng sự chậm trễ của các kiến trúc sư đã khiến tất cả mọi thứ chậm tiến độ, ông đưa vào các hợp đồng xây dựng các điều khoản biến ông trở thành một “sa hoàng”, theo lời tờ Chicago Tribune. Mỗi hợp đồng chứa một thời hạn chót chặt chẽ, đi kèm một hình phạt tài chính cho mỗi ngày chậm trễ. Burnham mời thầu hợp đồng đầu tiên xây dựng Tòa nhà Hầm mỏ vào ngày 14 tháng 5. Ông muốn nó được hoàn thành vào cuối năm nay. Chỉ có nhiều nhất khoảng bảy tháng thi công (tương đương khoảng thời gian một ông chủ thế kỷ XXI cần để xây dựng một cái gara mới). “Ông là trọng tài của tất cả các tranh chấp và không có điều khoản kháng cáo một khi các quyết định của ông được đưa ra,” tờ Tribune đưa tin. “Nếu theo ý kiến của ông Burnham, khi các nhà thầu không sử dụng đủ lượng công nhân để hoàn thành công việc đúng thời hạn, ông Burnham được ủy quyền để đưa công nhân của mình tham gia và nhà thầu sẽ gánh chịu chi phí phát sinh.” Tòa nhà Hầm mỏ là tòa nhà triển lãm chính đầu tiên được bắt đầu xây dựng, nhưng việc khởi công đã không bắt đầu cho đến ngày 3 tháng 7 năm 1891, khi chỉ còn chưa đến mười sáu tháng nữa là tới Ngày Cống hiến.

Khi việc xây dựng các tòa nhà cuối cùng cũng được thực hiện, sự mong đợi bên ngoài công viên bắt đầu tăng lên. Đại tá William Cody - Buffalo Bill - vừa trở về từ một chuyến lưu diễn cực kỳ thành công ở châu Âu, đang tìm kiếm một lô đất cho chương trình Miền Tây hoang dã của mình. Tuy nhiên Ủy ban Tài chính của hội chợ đã từ chối với lí do “bất hợp lý”. Không hề nao núng, Cody nắm quyền sở hữu một lô đất rộng lớn tiếp giáp với công viên. Tại San Francisco, một doanh nhân hai mươi mốt tuổi tên Sol Bloom nhận ra rằng hội chợ Chicago sẽ giúp anh ta tận dụng mảnh đất anh đã mua tại Paris hai năm trước đó. Bị mê hoặc trước triển lãm làng Algeria tại hội chợ Paris, anh đã mua quyền trưng bày ngôi làng và các cư dân của ngôi làng tại những sự kiện sau này. Ủy ban Tài chính cũng từ chối anh. Anh trở lại San Francisco với ý định sử dụng một cách thức khác khôn khéo hơn nhằm kiếm được một khu đất mà sau cùng sẽ mang lại cho anh một khoản kếch xù. Trong khi đó, trung úy trẻ Schufeldt đã đặt chân đến Zanzibar. Ngày 20 tháng 7, anh đánh điện cho Giám đốc triển lãm William Baker cho biết anh tin tưởng có thể đem về nhiều người lùn Pygmy từ Congo như mong muốn, miễn là được quốc vương Bỉ đồng ý. “Giám đốc Baker muốn những người lùn Pygmy,” tờ Tribune cho biết, “và tất cả mọi người tại trụ sở cũng vậy.”

Hội chợ trông thật ngoạn mục trên bàn phác thảo. Trung tâm là đại sảnh, nơi tất cả mọi người bắt đầu gọi với cái tên Sảnh Danh dự, với các cung điện bao la của Hunt, Post, Peabody và những người còn lại. Tự thân đại sảnh đã là một kỳ quan, tuy nhiên giờ đây gần như tất cả các bang, cùng với gần hai trăm công ty và chính phủ nước ngoài, đều lên kế hoạch xây dựng một tòa nhà. Hội chợ hứa hẹn sẽ vượt qua triển lãm Paris trên mọi cấp độ - mọi cấp độ ngoại trừ một điều. Sự hụt hẫng cứ đeo bám khiến Burnham phải suy nghĩ: Hội chợ vẫn chưa nghĩ ra công trình gì để cân bằng với tháp Eiffel, chưa nói đến che khuất. Với ba trăm mét chiều cao, tháp Eiffel vẫn là công trình cao nhất thế giới và là một lời nhắc nhở đầy bức bối về chiến thắng của hội chợ Paris. “Vượt qua Eiffel” đã trở thành lời kêu gọi chiến đấu của các giám đốc.

Một cuộc thi được tờ Tribune tổ chức đã mang đến một làn sóng các đề xuất không hợp lí. C. F. Ritchel từ Bridgeport, Connecticut, đề nghị một tháp với nền cao ba mươi mét và rộng một trăm năm mươi mét, trong đó Ritchel đề xuất xây dựng một tháp thứ hai và một tháp thứ ba nằm trong tháp này. Giữa các tháp là một hệ thống ống thủy lực và máy bơm phức tạp giúp các tháp đồng thời di chuyển chậm rãi lên trên - một cuộc hành trình tốn vài giờ - sau đó cho phép chúng từ từ chìm trở lại cấu trúc ban đầu. Đỉnh tháp sẽ có một nhà hàng, mặc dù có thể một nhà thổ sẽ thích hợp hơn.

Một nhà phát minh khác, J. B. McComber, đại diện cho Công ty Vận tải Xe Trượt Băng và Cầu Thang Xoắn Chicago, đề xuất xây dựng một tháp cao hơn hai ngàn bảy trăm mét, gấp chín lần chiều cao của tháp Eiffel, móng có đường kính hai trăm lẻ năm mét ở độ sâu sáu trăm mười mét trong lòng đất. Các đường ray trên cao sẽ đi từ phía trên cùng của tháp đến tận New York, Boston, Baltimore và các thành phố khác. Những du khách muốn kết thúc chuyến thăm quan của họ và đủ táo bạo để đi thang máy lên đỉnh sẽ trở về nhà bằng xe trượt băng. “Do chi phí của tháp và đường trượt của nó có tầm quan trọng thứ yếu,” McComber ghi nhận, “tôi không đề cập đến nó ở đây, nhưng sẽ cung cấp số liệu nếu thiết kế được thông qua.”

Một đề xuất thứ ba thậm chí đòi hỏi du khách phải dũng cảm hơn. Nhà phát minh này, với tên viết tắt là R. T. E., hình dung nên một tòa tháp cao một ngàn hai trăm mét và đề xuất làm một đường dây cáp treo dài hơn sáu trăm mét bằng “cao su tốt nhất” tỏa ra từ tháp. Gắn ở dưới mỗi cáp này sẽ là một khoang có sức chứa hai trăm người. Khoang và hành khách sẽ được đẩy ra khỏi một nhà ga và rơi tự do đến cuối dây cáp, nơi khoang chứa sẽ dội ngược lại và tiếp tục nảy lên cho đến khi nó dừng lại. Nhà phát minh yêu cầu phủ mặt đất với “một thảm lông vũ dày hai mét tư” như một biện pháp đề phòng.

Mọi người đều nghĩ đến tháp, tuy nhiên Burnham chưa bao giờ cho rằng tháp là cách tiếp cận tốt nhất. Eiffel là tháp đầu tiên và tuyệt vời nhất. Không chỉ đơn thuần là cao, nó còn là một công trình duyên dáng, cứng cáp bằng sắt, gợi nên tinh thần của thời đại như cách Nhà thờ Chartres41 đã làm trong thời đại của mình. Xây dựng một tòa tháp đồng nghĩa với việc theo Eiffel vào một lãnh địa mà nước Pháp đã chinh phục.

41 Nhà thờ Đức Bà Chartres là nhà thờ lớn của thành phố Chartres, tỉnh lỵ của tỉnh Eure-et-Loir, nằm cách thủ đô Paris của Pháp 80 km về phía Tây Nam. Nhà thờ Đức Bà Chartres được coi là một trong những công trình kiểu Gothic đẹp và lớn nhất, được UNESCO đưa vào danh sách Di sản thế giới ngay trong lần xếp hạng đầu tiên năm 1979.

Vào tháng 8 năm 1891, chính Eiffel đã gửi điện cho ban giám đốc hỏi xem ông có thể gửi một ý tưởng về tháp. Đây là một bất ngờ mà vào lúc đầu được chào đón. Chủ tịch hội chợ Baker ngay lập tức đánh điện cho Eiffel rằng ban giám đốc sẽ rất vui mừng xem xét bất cứ điều gì ông đề xuất. Nếu hội chợ phải có một cái tháp, Baker cho biết trong một cuộc phỏng vấn, “M. Eiffel sẽ là người xây dựng nó. Nếu ông ấy phụ trách xây dựng tháp, đây sẽ không phải là một cuộc thử nghiệm. Ông ấy có thể cải thiện thiết kế tháp Eiffel ở Paris của mình và ông ấy sẽ không xây dựng một công trình kém hơn công trình nổi tiếng của ông. Tôi cho là như vậy.” Tuy nhiên, đối với các kĩ sư của Mỹ, sự tham gia của Eiffel là một cái tát vào mặt. Trong một tuần rưỡi tiếp theo, khi các bức điện được truyền từ thành phố này đến thành phố khác, từ kĩ sư này đến kĩ sư khác, câu chuyện đã phần nào bị bóp méo. Đột nhiên có vẻ như một tháp Eiffel ở Chicago là một điều chắc chắn - chính Eiffel sẽ vượt qua Eiffel. Các kĩ sư nổi giận. Một lá thư biểu tình dài được chuyển đến văn phòng của Burnham, trong đó có chữ kí của các kĩ sư hàng đầu đất nước.

Việc chấp nhận “lời đề nghị của quý ông lỗi lạc này,” họ viết, sẽ “tương đương với một tuyên bố rằng các kĩ sư dân sự tuyệt vời của đất nước này, những người mà các tác phẩm cao quý đã chứng thực kĩ năng của họ ở nước ngoài cũng như trong suốt chiều dài và chiều rộng của đất nước, không có khả năng đối phó với một vấn đề như vậy và một hành động như vậy có thể sẽ cướp đi lời xác nhận chính đáng về sự chuyên nghiệp xuất sắc của họ.”

Burnham đọc bức thư với sự đồng tình. Ông hài lòng khi thấy các kĩ sư dân sự của Mỹ cuối cùng cũng cho thấy niềm đam mê đối với hội chợ, mặc dù trên thực tế, các giám đốc chưa hứa hẹn gì với Eiffel. Lời đề nghị chính thức của ông đến sau đó một tuần, trong đó hình dung một cái tháp mà thực chất là một phiên bản cao hơn của những gì ông đã xây dựng ở Paris. Giám đốc cho phiên dịch lời đề nghị, xem xét, rồi ân cần từ chối. Nếu có một tòa tháp tại hội chợ, đó sẽ phải là một tòa tháp Mỹ.

Nhưng bản phác thảo của các kĩ sư Mỹ vẫn khô khốc một cách nản lòng.

***

Sol Bloom, trở lại tại California, đem yêu cầu về sự nhượng bộ cho làng Algeria của anh đến một nhân vật có ảnh hưởng tại San Franciscan, Mike De Young, nhà xuất bản của tờ San Francisco Chronicle và là một trong những ủy viên quốc gia của triển lãm. Bloom nói với ông về bản quyền ông đã mua ở Paris và cách hội chợ đã từ chối kiến nghị của mình.

De Young biết Bloom. Khi còn là một thiếu niên, Bloom đã từng làm việc tại nhà hát Alcazar của De Young và leo lên vị trí thủ quỹ ở tuổi mười chín. Trong thời gian rảnh rỗi của mình, Bloom đã tổ chức công việc cho các nhân viên hướng dẫn chỗ ngồi, nhân viên kiểm tra và người bán hàng giải khát thành một khối gắn kết hiệu quả hơn, giúp lợi nhuận của nhà hát và tiền lương của mình tăng lên đáng kể. Tiếp theo đó anh làm tương tự tại các nhà hát khác và thường xuyên nhận được tiền hoa hồng. Tại Alcazar, anh đưa tên các sản phẩm phổ biến, quán bar, nhà hàng, bao gồm cả nhà hàng Cliff House vào tờ kịch bản và nhờ đó kiếm thêm được một nguồn thu nhập. Anh cũng tổ chức một đội ngũ vỗ tay chuyên nghiệp, được biết đến với cái tên “đội vỗ tay thuê” để tung hô nhiệt thành, đòi diễn lại và kêu to “Hoan hô!” cho bất kỳ nghệ sĩ nào sẵn sàng trả tiền. Hầu hết các nghệ sĩ biểu diễn, ngay cả ca sĩ nổi tiếng nhất của thời đại Adelina Patti42, đều bỏ tiền. Một ngày, Bloom thấy một bài viết trong một ấn phẩm sân khấu về ban nhạc Mexico mới lạ mà anh tin người Mỹ sẽ tôn thờ. Anh đã thuyết phục quản lí ban nhạc để cho anh mang các nhạc sĩ đi lưu diễn ở miền Bắc. Lợi nhuận Bloom thu được là bốn mươi ngàn đô-la. Vào thời điểm đó, anh chỉ mới mười tám tuổi.

42 Adelina Patti (10/02/1843 - 27/09/1919) là một ca sĩ opera tiếng Ý-Pháp thế kỷ XIX, với thu nhập khổng lồ trong giai đoạn đỉnh cao của sự nghiệp tại các thủ đô âm nhạc của châu Âu và Mỹ.

De Young nói với Bloom ông sẽ xem xét tình hình. Một tuần sau, ông triệu tập Bloom trở lại văn phòng của mình.

“Anh sẵn sàng đến Chicago trong bao lâu?” Ông hỏi.

Bloom ngỡ ngàng đáp, “Trong một vài ngày, tôi đoán vậy.” Anh cho rằng De Young đã sắp xếp một cơ hội thứ hai cho anh ta để kiến nghị lại với Ủy ban Tài chính của hội chợ. Anh do dự và nói với De Young rằng anh thấy chuyến đi không đem lại giá trị gì trừ khi các giám đốc của triển lãm có một ý tưởng tốt hơn về cách họ muốn hấp dẫn du khách.

“Tình hình đã tiến triển kể từ cuộc nói chuyện của chúng ta,” De Young nói. “Điều chúng ta cần bây giờ là một người phụ trách.” Ông cho Bloom xem bức điện tín. Công ty triển lãm trao quyền cho De Young thuê người để lựa chọn những tiết mục cho công viên Midway Plaisance43 và hướng dẫn họ xây dựng và quảng cáo. “Anh đã được chọn,” ông nói.

43 Công viên Midway Plaisance, còn có tên là Midway, là một công viên ở phía Nam Chicago, Illinois, nằm ở cuối công viên Jackson về phía Đông.

“Tôi không thể làm được việc này,” Bloom nói. Anh không muốn rời San Francisco. “Ngay cả khi tôi có thể, tôi có quá nhiều việc.”

De Young nhìn anh. “Tôi không muốn nghe một lời nào từ anh cho đến ngày mai,” ông nói.

Trong lúc đó, De Young muốn Bloom suy nghĩ về khoản tiền anh sẽ nhận được để vượt qua sự do dự của mình. “Khi anh trở lại anh có thể nêu lên mức lương của mình,” ông nói. “Tôi sẽ chấp thuận hoặc từ chối nó. Sẽ không có tranh luận. Anh có chấp nhận không?”

Bloom đồng ý, nhưng chỉ bởi vì yêu cầu của De Young đã đem lại cho anh một cách từ chối khéo léo. Tất cả những gì anh phải làm, anh nghĩ, là nêu lên một số tiền lớn đến mức De Young không thể nào chấp nhận nó, “và khi tôi bước trên phố, tôi đã quyết định con số này sẽ là bao nhiêu.”

***

Burnham cố gắng dự đoán mọi mối đe dọa đến hội chợ mà ông có thể nghĩ ra. Nhận thức được “danh tiếng” về tội ác và bạo lực của Chicago, Burnham nhấn mạnh vào việc thành lập nên một lực lượng cảnh sát lớn, lực lượng tuần tra Hoa Kỳ và đặt nó dưới sự chỉ huy của Đại tá Edmund Rice, một người đàn ông dũng cảm tuyệt vời, người đã đối mặt với cuộc tấn công Pickett44 tại Gettysburg. Không giống như những sở cảnh sát thông thường, nhiệm vụ của lực lượng tuần tra tập trung cụ thể vào các ý tưởng mới để ngăn chặn tội phạm thay vì chỉ bắt giữ những kẻ phạm tội một cách muộn màng.

44 Vụ tấn công Pickett là một cuộc tấn công bộ binh theo lệnh của tướng Robert E. Lee thuộc Liên minh miền Nam chống lại các Thiếu tướng George G. Meade tại nghĩa trang Ridge vào ngày 3 tháng 7 năm 1863. Vụ tấn công được đặt tên theo Thiếu tướng George Pickett, người đã dẫn đầu cuộc tấn công.

Burnham biết bệnh dịch là một mối đe dọa với hội chợ. Một đợt bùng phát dịch bệnh đậu mùa hay dịch tả hoặc bất cứ bệnh nhiễm trùng gây chết người nào khác hoành hành trong thành phố có thể làm hỏng danh tiếng của hội chợ đến mức không thể vãn hồi và sẽ tiêu diệt hi vọng đạt được số lượng tham dự kỷ lục cần thiết để tạo ra lợi nhuận cho các giám đốc.

Vào lúc này, ngành vi khuẩn học mới ra đời do Robert Koch và Louis Pasteur tiên phong, đã thuyết phục các quan chức y tế công cộng rằng nước uống bị ô nhiễm khiến dịch tả và các bệnh do vi khuẩn khác lây lan. Nguồn nước của Chicago bạt ngàn vi khuẩn, chủ yếu đến từ sông Chicago. Trong một đợt cải tạo kĩ thuật toàn diện trên toàn thành phố vào năm 1871, dòng sông đã bị đảo chiều để nó không còn chảy vào hồ Michigan, thay vào đó chảy vào sông Des Plaines và cuối cùng đổ ra sông Mississippi, với lập luận rằng dòng chảy mênh mông của cả hai con sông sẽ pha loãng nước thải xuống mức vô hại - một khái niệm mà các thị trấn ở phía hạ lưu như Joliet không hề hoan nghênh. Tuy nhiên, các kĩ sư đã rất ngạc nhiên vì những cơn mưa kéo dài thường xuyên khiến dòng chảy của sông Chicago đảo chiều và một lần nữa đem xác mèo chết và chất thải vào hồ, nhiều đến mức các dòng nước đen ngòm xâm nhập vào các đường nước đầu vào của hệ thống xử lí nước thành phố.

Hầu hết cư dân của Chicago không còn sự lựa chọn nào khác. Tuy nhiên, Burnham ngay từ đầu đã tin rằng các công nhân và du khách của hội chợ cần nguồn cấp nước tử tế và an toàn hơn. Trong vấn đề này một lần nữa ông đã đi trước thời đại. Theo lệnh của ông, kĩ sư vệ sinh William S. MacHarg đã xây dựng một nhà máy nước khử trùng tại công trường nhằm bơm nước hồ qua một chuỗi các bể lớn nhằm sục khí và đun sôi. Người của MacHarg đặt các thùng nước tiệt trùng lớn này tại khắp công viên và bổ sung chúng hàng ngày.

Burnham lên kế hoạch đóng cửa nhà máy lọc nước này trước ngày khai mạc và cung cấp cho du khách một sự lựa chọn giữa hai nguồn cung nước sạch khác nhau: Nước hồ khử trùng bằng hệ thống lọc Pasteur và được cung cấp miễn phí, hoặc nước tinh khiết tự nhiên với giá một xu một cốc, được truyền qua đường ống dài 161 ki-lô-mét từ những dòng suối của làng Waukesha, Wisconsin. Vào tháng 11 năm 1891, Burnham ra lệnh MacHarg khảo sát năm dòng suối tại Waukesha để đánh giá khả năng cung cấp nước và độ tinh khiết của chúng và thực hiện điều này một cách “lặng lẽ”. Điều này cho thấy rằng ông nhận thức được việc dẫn một đường ống qua cảnh quan duyên dáng của ngôi làng là một vấn đề nhạy cảm. Tuy nhiên, không một ai có thể tưởng tượng được rằng trong một vài tháng tiếp theo, nỗ lực đảm bảo nguồn cung tốt nhất từ Waukesha của MacHarg sẽ dẫn đến một cuộc đụng độ vũ trang trong một đêm Wisconsin thanh bình.

Điều khiến Burnham lo lắng nhất là lửa. Sự mất mát của tòa nhà Grannis Block, kèm theo đó là trụ sở của ông và Root, vẫn là một kí ức sinh động và không muốn nghĩ tới. Một ngọn lửa thảm khốc ở công viên Jackson có thể phá hủy hội chợ. Tuy nhiên, tại công viên, lửa lại là trung tâm của quá trình xây dựng. Thợ trát vữa sử dụng các lò nhỏ có tên lò bướu để tăng tốc độ làm khô và bảo dưỡng. Thợ thiếc và thợ điện sử dụng chậu lửa để làm tan chảy, uốn và nung. Ngay cả các sở cứu hỏa cũng sử dụng lửa: Động cơ hơi nước tạo ra lực bơm nước trên xe cứu hỏa ngựa kéo của sở.

Burnham thiết lập nên những cơ chế bảo vệ mà theo tiêu chuẩn hiện hành, có vẻ phức tạp, thậm chí thừa thãi. Ông đã thành lập một đội cứu hỏa của hội chợ và ra lệnh cho lắp đặt hàng trăm vòi phun chữa cháy cùng hộp báo động điện báo. Ông đã ủy thác việc chế tạo một tàu cứu hỏa, có tên Nữ hoàng Lửa, được lắp đặt đặc biệt để có thể luồn lách giữa hệ thống kênh rạch cạn của công viên và để chui qua các cây cầu thấp của nó. Thiết kế chi tiết của tất cả các tòa nhà đòi hỏi chúng phải được bao quanh bởi một đường ống chính nằm dưới nước và được bơm bằng các ống nước đứng bên trong. Ông cũng cấm hút thuốc lá tại công trường, mặc dù chính ông đã phá lệ ít nhất hai lần: Một lần khi một nhà thầu thề rằng đội thợ thủ công châu Âu của ông sẽ bỏ việc nếu không được hút xì gà, lần kia là lúc ở bên cái lò sưởi lớn trong khu ổ chuột của mình, ông và các kĩ sư - người vẽ bản thảo, cùng các kiến trúc sư tụ họp mỗi tối với những chai rượu vang, những cuộc trò chuyện và những điếu xì gà.

Khi mùa đông tới, Burnham ra lệnh bọc tất cả các đầu ống nước cứu hỏa bằng phân ngựa để ngăn chặn sự đóng băng.

Vào những ngày lạnh nhất, phân bốc khói, như thể chính các đầu ống nước ấy đang bốc cháy.

***

Khi Sol Bloom trở lại văn phòng của Mike De Young, anh tin rằng De Young không thể nào chấp nhận yêu cầu tiền lương của mình, vì anh đã quyết định yêu cầu mức lương của tổng thống Mỹ: năm mươi ngàn đô-la. “Càng nghĩ về nó,” Bloom nhớ lại, “tôi càng thích viễn cảnh nói với Mike De Young rằng không một khoản tiền nào thấp hơn có thể bù đắp lại sự hi sinh của tôi rời khỏi San Francisco.”

De Young mời Bloom ngồi. Biểu hiện của ông tỉnh táo và chờ đợi. Bloom cho biết, “Mặc dù tôi đánh giá cao những lời khen, tôi thấy rằng lợi ích của tôi nằm ngay trong thành phố này. Khi tôi nhìn về phía trước tôi có thể nhìn thấy bản thân mình...”

De Young ngắt lời anh. Nhẹ nhàng, ông nói, “Bây giờ, Sol, tôi đã nghĩ anh sẽ cho tôi biết anh muốn được trả bao nhiêu.”

“Tôi không muốn ngài nghĩ rằng tôi không trân trọng...”

“Anh đã nói điều đó một phút trước,” De Young nói. “Bây giờ cho tôi biết anh muốn bao nhiêu tiền.”

Mọi chuyện đã không đi theo cách cách Bloom dự kiến. Với sự lo lắng, Bloom nói với ông con số: “Một nghìn đô-la một tuần.”

De Young mỉm cười. “Đó là một mức lương khá cao cho một anh chàng hai mốt tuổi, nhưng tôi tin rằng anh sẽ có được nó.”

***

Vào tháng 8, kĩ sư kết cấu chính của Burnham, Abraham Gottlieb, đã tiết lộ một điều gây sửng sốt: Ông đã thất bại trong việc tính toán tải trọng gió cho các tòa nhà chính của hội chợ. Burnham ra lệnh cho nhà thầu chính, bao gồm cả Agnew & Co. hiện đang xây dựng các tòa nhà Mỹ thuật Tự do và Công nghiệp, dừng việc xây dựng ngay lập tức. Trong nhiều tháng qua, Burnham đã đấu tranh chống lại những tin đồn rằng ông đã ép công nhân của mình làm việc quá nhanh và kết quả là một số tòa nhà không đảm bảo an toàn. Ở châu Âu, báo chí cho rằng một số công trình đáng bị “lên án”. Và bây giờ là Gottlieb, đầu hàng trước một vấn đề có khả năng gây ra thảm họa.

Gottlieb phản đối rằng kể cả khi không thể tính toán tải trọng gió một cách rõ ràng, các tòa nhà vẫn đủ chắc chắn.

“Tuy nhiên, tôi không thể chấp nhận điều này,” Burnham đã viết trong một bức thư gửi cho James Dredge, biên tập viên của tạp chí Engineering uy tín của Anh quốc. Burnham ra lệnh tăng cường tất cả các thiết kế để chịu được sức gió cao nhất trong mười năm qua. “Điều này có vẻ cực đoan,” ông nói với Dredge, “nhưng xét đến sự góp mặt của những lợi ích vĩ đại, tôi cho rằng điều này là khôn ngoan và thận trọng.”

Gottlieb từ chức. Burnham thay thế ông bằng Edward Shankland, một kĩ sư từ công ty riêng của mình, người nổi tiếng trên toàn quốc với tư cách một nhà thiết kế cầu.

Vào ngày 24 tháng 11 năm 1891, Burnham viết cho James Dredge thông báo rằng một lần nữa ông phải chịu sự chỉ trích vì sự nhất quán của các công trình. “Những lời chỉ trích giờ đây,” ông viết, “cho rằng các tòa nhà vững chãi hơn mức cần thiết.”

***

Bloom đến Chicago và nhanh chóng phát hiện ra lí do tại sao có rất ít công việc được hoàn thành tại công viên Midway Plaisance, được biết đến chính thức dưới cái tên Cục M. Cho đến lúc này công viên được đặt dưới sự kiểm soát của Frederick Putnam, một giáo sư dân tộc học thuộc Đại học Harvard. Ông là một nhà nhân chủng học ưu tú, nhưng việc đưa ông phụ trách Midway, Bloom nhiều năm sau đó cho biết, “là một quyết định thông minh như việc đưa Albert Einstein phụ trách gánh xiếc Barnum và Bailey của anh em nhà Ringling45”. Putnam cũng đồng ý với nhận định này. Ông nói với một đồng nghiệp Harvard rằng ông “ước ao được gỡ gánh xiếc Ấn Độ này khỏi vai.”

45 Gánh xiếc Barnum và Bailey của anh em nhà Ringling là một công ty xiếc Hoa Kỳ được quảng cáo là Gánh xiếc tuyệt vời nhất trên Trái đất.

Bloom đem mối quan tâm của anh bày tỏ với Chủ tịch triển lãm Baker, người sau đó đã giao anh cho Burnham.

“Anh còn trẻ, thực sự quá trẻ để có thể phụ trách các công việc được giao phó,” Burnham cho biết.

Nhưng chính Burnham cũng còn rất trẻ khi John B. Sherman bước vào văn phòng của ông và thay đổi cuộc sống của ông.

“Tôi muốn anh biết rằng anh nhận được sự tin tưởng tuyệt đối của tôi,” ông nói, “Anh sẽ phụ trách toàn bộ Midway. Hãy thực hiện những gì cần thực hiện. Anh chỉ cần chịu trách nhiệm với tôi. Tôi sẽ ban hành lệnh về việc này. Chúc anh may mắn.”

***

Đến tháng 12 năm 1891, hai tòa nhà được xây dựng nhanh nhất là tòa nhà Mỏ và tòa nhà Phụ nữ. Việc xây dựng tòa nhà Mỏ đã diễn ra suôn sẻ, nhờ vào mùa đông, mà theo tiêu chuẩn của Chicago, ôn hòa một cách nhân từ. Tuy nhiên, việc xây dựng tòa nhà Phụ nữ, đã trở thành một thử thách đối với cả Burnham và kiến trúc sư trẻ thiết kế nó, Sophia Hayden, chủ yếu do những sửa đổi theo yêu cầu của Bertha Honore Palmer, người đứng đầu Ban Giám đốc Phụ nữ, ban chi phối tất cả mọi thứ liên quan đến phụ nữ tại hội chợ. Là vợ của Potter Palmer, với sự giàu có và sự thống trị xã hội tuyệt đối, bà ta đã quen với việc mọi thứ diễn ra theo ý mình. Bà ta cho thấy rõ điều này từ trước, khi đàn áp một cuộc nổi dậy do thư kí điều hành của hội đồng quản trị cầm đầu, từ đó đã mở ra một cuộc chiến công khai giữa phe phái của những người phụ nữ được bới tóc thanh lịch với những người ăn mặc cầu kỳ. Trong lúc cuộc chiến lên đến cao trào, một nữ quản lí sợ hãi đã viết cho bà Palmer, “Tôi hi vọng rằng Quốc hội sẽ không chán ghét giới tính của chúng ta.”

Hayden đến Chicago để hoàn thiện những bản vẽ cuối cùng, sau đó trở về nhà, để lại việc thi công cho Burnham. Việc xây dựng bắt đầu vào ngày 9 tháng 7; công nhân bắt đầu trát các lớp vữa cuối cùng vào tháng 10. Hayden trở lại vào tháng 10 để chỉ đạo việc trang trí bên ngoài của tòa nhà và tin rằng đây là trách nhiệm của mình. Bà phát hiện ra Bertha Palmer đã có những ý tưởng khác.

Vào tháng 9, Palmer đã mời phụ nữ ở khắp mọi nơi tặng đồ trang trí kiến trúc cho các tòa nhà mà không được phép của Hayden và đổi lại nhận được số lượng đồ vật tương đương với một bảo tàng bao gồm những cột, bảng, tượng chạm khắc, song sắt cửa sổ, cửa ra vào và các đồ vật khác. Palmer tin tòa nhà có thể chứa tất cả các khoản đóng góp, đặc biệt là những vật được gửi bởi những phụ nữ có ảnh hưởng. Tuy nhiên, Hayden cho rằng một mớ hỗn độn như vậy sẽ đem lại sự ghê tởm về mặt thẩm mĩ. Khi một người phụ nữ có ảnh hưởng từ Wisconsin tên Flora Ginty gửi một cánh cửa bằng gỗ chạm khắc công phu, Hayden đã từ chối. Ginty cảm thấy tổn thương và giận dữ. “Mỗi khi tôi nghĩ về số ngày tôi đã bỏ ra và quãng đường tôi đã đi để đem đến những điều này cho Tòa nhà Phụ nữ, sự giận dữ của tôi lại tăng lên một chút.” Bà Palmer lúc đó ở châu Âu, nhưng thư kí riêng của bà, Laura Hayes, một bậc thầy đưa chuyện, đã đảm bảo chủ của cô ta biết được tất cả các chi tiết. Hayes cũng chuyển đến Palmer một vài lời khuyên mà cô ta đã cho Hayden: “Tôi nghĩ rằng thà để tòa nhà trông giống như một cái chăn chắp vá còn hơn là từ chối những khoản đóng góp mà các Giám đốc Phụ nữ đã mất nhiều công sức kêu gọi.”

Một cái chăn chắp vá không phải là điều Hayden nghĩ đến. Mặc cho tầm ảnh hưởng xã hội chói lọi đến mức có thể làm mù mắt của bà Palmer, Hayden tiếp tục từ chối. Một trận chiến theo đúng phong cách của thời đại Vàng son46 nổ ra sau đó, với những lời sỉ nhục cạnh khóe và sự nhã nhặn cay độc. Bà Palmer cạnh khóe, quấy rầy và quăng những nụ cười băng giá vào nỗi buồn ngày càng sâu sắc của Hayden. Cuối cùng, Palmer giao việc trang trí tòa nhà Phụ nữ cho một người khác, một nhà thiết kế tên là Candace Wheeler.

46 Thời đại Vàng son (Gilded Age) được định nghĩa là thời gian giữa cuộc nội chiến và chiến tranh Thế giới thứ nhất khi dân số Hoa Kỳ và nền kinh tế phát triển nhanh chóng, nhiều tham nhũng chính trị và những doanh nghiệp lừa gạt xuất hiện, nhiều người trở nên giàu có và sống cuộc sống xa hoa.

Hayden chống lại sự sắp xếp theo cái cách kín đáo và ngoan cố của mình cho đến khi cô không thể chịu đựng được nữa. Cô bước vào văn phòng của Burnham, bắt đầu kể lại câu chuyện của mình và rồi nổi điên, theo đúng nghĩa đen của từ này: Nước mắt, những tiếng nức nở liên hồi, những trận khóc lóc đau khổ, tất cả. “Một sự suy sụp nghiêm trọng,” một người quen của cô cho biết, “một cuộc tấn công đầy bạo lực đến từ sự hưng phấn thần kinh cao độ của não bộ.”

Burnham, choáng váng, đã gọi một trong những bác sĩ phẫu thuật của hội chợ. Hayden đã được đưa ra khỏi công viên một cách kín đáo trên một trong những chiếc xe cứu thương Anh quốc cách tân của hội chợ với lốp cao su êm ái và được đưa vào một viện điều dưỡng để nghỉ ngơi bắt buộc. Cô rơi vào trạng thái “u uất”, cái tên lãng mạn của chứng trầm cảm.

***

Tại công viên Jackson, sự trầm trọng hóa đã trở thành một đặc điểm cố hữu. Burnham nhận thấy ngay cả các vấn đề đơn giản cũng thường trở thành một đống lộn xộn. Ngay cả Olmsted cũng trở nên khó chịu. Ông rực rỡ và quyến rũ, nhưng một khi đã tập trung vào điều gì đó, ông kiên quyết như một phiến đá vôi Joliet. Đến cuối năm 1891, câu hỏi những loại tàu thuyền nào được dùng trên các tuyến đường thủy của hội chợ đã trở nên ám ảnh ông, như thể chỉ riêng thuyền bè đã quyết định sự thành công của nhiệm vụ “bí ẩn nên thơ” của ông.

Vào tháng 12 năm 1891, Burnham nhận được một lời đề nghị từ một nhà sản xuất tàu kéo về trường hợp tàu hơi nước loại nhỏ tại triển lãm. Olmsted nghe phong thanh từ Harry Codman. Ông này ngoài việc là giám đốc điều hành tại Chicago, còn là một mật vụ, giúp Olmsted biết tất cả các mối đe dọa đến phần việc của ông. Codman gửi Olmsted một bản sao của bức thư, thêm ghi chú của mình rằng, nhà sản xuất chiếc tàu kéo dường như nhận được sự tin cậy của Burnham.

Ngày 23 tháng 12 Olmsted viết cho Burnham: “Tôi nghi ngờ ngay cả Codman cũng đang nghĩ rằng những câu hỏi về tàu thuyền này là “đam mê” của tôi và đã lo lắng khá nhiều. Nếu không thì dành lo lắng cho những vấn đề khác quan trọng hơn sẽ phù hợp hơn và tôi sợ rằng ngài có ý nghĩ tôi là một gã gàn dở trong vấn đề này.”

Tuy nhiên, ông tiếp tục trút nỗi ám ảnh của mình ra. Ông phàn nàn rằng bức thư của nhà sản xuất tàu kéo đã biến câu hỏi về thuyền bè trở thành câu hỏi về việc làm thế nào để di chuyển số lượng hành khách lớn nhất giữa các điểm khác nhau của triển lãm nhanh chóng và rẻ nhất có thể. “Ngài biết rõ ràng rằng đây không phải là mục tiêu chính cần đạt được. Tôi không cần phải cố gắng tuyên bố mục đích của nó là gì. Ngài cũng như tôi, đang suy nghĩ rất nhiều về nó. Ngài biết rõ đây là một bức tranh thơ mộng và ngài biết rằng với các tàu thuyền được giới thiệu trên những ao hồ này, nếu có một loại tàu thuyền phá hỏng bức tranh thơ mộng này thì tất cả sẽ hoàn toàn vô nghĩa.”

Vận tải đơn thuần chưa bao giờ là mục đích cuối cùng, ông nổi giận. Toàn bộ mục đích của các con thuyền là nâng cao cảnh quan. “Đặt trên mặt nước các tàu thuyền không thích hợp và hiệu ứng tạo nên sẽ hoàn toàn kinh tởm, phá hủy các giá trị đáng lẽ ra sẽ trở thành các đặc điểm độc đáo có giá trị nhất của hội chợ này. Tôi cố tình dùng từ phá hủy. Sẽ tốt hơn ngàn lần [nếu] không có thuyền.”

***

Bất chấp sự can thiệp của các Ủy ban, xung đột giữa Burnham và Tổng giám đốc Davis ngày càng tăng, cùng với đó là mối đe dọa luôn hiện hữu đến từ các cuộc đình công, các tòa nhà chính vẫn mọc lên. Các công nhân đổ móng với các loại gỗ to lớn đan chéo phù hợp với nguyên tắc dầm bệ cọc của Root, sau đó sử dụng các bệ tháp khoan chạy bằng hơi nước để nâng các cột sắt thép cao lớn, hình thành nên khung của mỗi tòa nhà. Họ bọc các khung này trong giàn giáo bằng gỗ, sau đó lắp tại mỗi mặt của khung hàng trăm ngàn tấm ván gỗ để tạo ra những bức tường có khả năng tiếp nhận hai lớp vữa dày. Khi công nhân chất những đống gỗ tươi bên cạnh mỗi tòa nhà, các đồi mùn cưa và phế liệu lởm chởm mọc lên gần đó. Không khí đầy mùi gỗ cắt và mùi đặc trưng của Giáng sinh.

Vào tháng 12 hội chợ xuất hiện trường hợp tử vong đầu tiên: Một người đàn ông tên Mueller tại tòa nhà Mỏ chết với một hộp sọ nứt. Ba cái chết khác kéo theo một thời gian ngắn sau đó:

Jansen, nứt hộp sọ, tòa nhà Điện lực; Allard, nứt hộp sọ, tòa nhà Điện lực; Algeer, tử vong do một hiện tượng mới, giật điện, tại tòa nhà Mỏ. Hàng chục vụ tai nạn nhẹ hơn xảy ra. Trước dư luận, Burnham vẫn cho thấy sự tự tin và lạc quan. Vào ngày 28 tháng 12 năm 1891, trong bức thư gửi biên tập viên tờ Chicago Herald, ông viết, “Một số câu hỏi về thiết kế và kế hoạch vẫn chưa được xác định, nhưng không có gì nằm ngoài tầm kiểm soát và tôi thấy không có lí do gì để chúng tôi không thể hoàn thành công việc kịp thời gian cho các buổi lễ vào tháng 10 năm 1892” - Ngày Cống hiến - “và cho việc khai mạc hội chợ, ngày 1 tháng 5 năm 1893.”

Trên thực tế, hội chợ đã chậm xa so với lịch trình và may mà không bị trì hoãn thêm do mùa đông không quá khắc nghiệt. Ngày Cống hiến tháng 10 sẽ diễn ra bên trong Tòa nhà Mỹ thuật Tự do và Công nghiệp, tuy nhiên đến tháng 1 mới chỉ có nền móng tòa nhà được đổ. Để hội chợ có thể trông chỉnh tề kịp thời gian cho buổi lễ, tất cả mọi thứ sẽ phải được thực hiện một cách hoàn hảo. Đặc biệt thời tiết sẽ phải hợp tác.

Trong khi đó, các ngân hàng và các công ty đã phá sản trên khắp nước Mỹ, các cuộc đình công đe dọa khắp mọi nơi và bệnh tả đã bắt đầu một hành trình màu trắng chậm rãi trên khắp châu Âu, gia tăng lo ngại rằng các con tàu chứa dịch hạch đầu tiên sẽ sớm cập cảng New York.

Như thể tăng thêm áp lực, tờ New York Times cảnh báo, “Sự thất bại của hội chợ hoặc của bất cứ điều gì khác với một thành tựu tích cực và rõ rệt sẽ khiến không chỉ riêng Chicago, mà là cả đất nước, mất uy tín.”