Có một số ngoại đạo không có chủ trương gì đặc sắc, chỉ đơn thuần là “phản đối”, bởi “phản đối” chính là đường hướng của giáo phái ấy và cũng chính là “đi ngược lại” người khác một cách có chủ ý.
Sống trong một đoàn thể, chúng ta không sợ xuất hiện những quan điểm bất đồng, nhất là trong thời đại dân chủ ngày nay, thời đại mà thiểu số nghe theo đa số và đa số cũng phải tôn trọng thiểu số. Bởi vì đây là một xã hội cho phép mỗi cá nhân có quyền nêu lên ý kiến của mình nên mới được gọi là thời đại dân chủ, đây chính là yếu tố giúp cho xã hội ngày càng phát triển và tiến bộ.
Ví như trong một dàn hợp xướng tuy có giọng cao, giọng trầm, hai bè, bốn bè, v.v. nhưng âm điệu của cả dàn hợp xướng vẫn phải đồng nhất, hòa nhịp với nhau, nếu không giai điệu bài hát sẽ trở nên lộn xộn và lạc nhịp. Còn đối với một đoàn thể, muốn hòa hợp với nhau thì quan điểm mỗi người phải thống nhất, nếu có quá nhiều ý kiến bất đồng thì chắc chắn đoàn thể ấy sẽ trở nên rời rạc, tan rã và tuyệt nhiên không thể giúp ích gì cho sự tiến bộ, phát triển cả.
Tuy nhiên, có những lúc đi ngược lại tiếng nói chung của đoàn thể không hẳn đã là không tốt. Như câu chuyện về tể tướng Địch Nhân Kiệt, nhân vật nổi tiếng thời Đường, tuy ông có nhiều ý kiến phản đối Võ Tắc Thiên nhưng lại được Võ Hậu phong làm tể tướng. Hay qua việc vua Đường Thái Tông thường xuyên nghe lời can gián của Ngụy Trưng trong khi xử lý chuyện triều chính, ta có thể thấy được, Đường Thái Tông là một vị minh quân biết lắng nghe những ý kiến trái chiều từ phía triều thần.
Một người để có thể chấp nhận được những ý kiến trái ngược thì phải có lòng khoan dung, độ lượng và có trí tuệ để phân biệt đúng sai. Tư tưởng “cách mạng vô tội, phản đối có lý”1 xuất hiện là vì xã hội phong kiến thời xưa tồn tại quá nhiều hủ tục lạc hậu nên bắt buộc phải đưa ra biện pháp mạnh để cải cách và phát triển xã hội.
1 Cách mạng vô tội, phản đối có lý: Khẩu hiệu của Hồng vệ binh trong Cách mạng Văn hóa Trung Quốc (diễn ra vào năm 1966 - 1976) với mục tiêu xóa bỏ hủ tục lạc hậu của chế độ phong kiến tồn tại trong xã hội Trung Quốc.
Dễ thấy, con cái trong nhà đến độ tuổi dậy thì thường hay cãi lại lời cha mẹ để thể hiện cá tính của mình thông qua việc thích nói hoặc hành động khác người. Còn ở ngoài xã hội lại có những người, dù là bất kể người xung quanh đang bàn luận chủ đề gì cũng đều phải đối chọi cho bằng được. Ví như có người nói là: “New York, Tokyo, Thượng Hải đều là những thành phố lớn nhất trên thế giới, đây là những kiến thức cơ bản được dạy trong sách giáo khoa từ trước đến nay”, nhưng có người nghe xong liền phản bác lại: “Không hẳn như vậy, biết đâu sau này Nam Kinh sẽ là đô thị sầm uất nhất thì sao?” Tóm lại, những người này luôn có vô số lời lẽ khác với quan điểm chung của mọi người.
Đa phần trong tiềm thức chúng ta đều ẩn chứa tính cách thích phản bác người khác. Ví như khi bạn nghe có người nói: “Tôi thấy hôm nay bạn rất vui” thì liền đáp lại rằng: “Chẳng lẽ hôm qua tôi không vui sao?”, lúc nào cũng phản bác người khác như vậy. Ngụy Diên sống thời Tam Quốc được miêu tả là người vốn thích đi ngược đám đông, là một nhân vật điển hình thuộc “đảng đối lập”. Hay như Hòa Thân, sủng thần của vua Càn Long thời Thanh cũng thường xuyên đấu chọi lại với tể tướng Lưu gù.
“Khác người” chưa hẳn là xấu, điều quan trọng là ta còn phải xem “khác” như thế nào nữa, như tà khác chính, chính khác tà, tuy đều là khác nhưng ý nghĩa mang lại thì không giống nhau. Bởi thế ta không nên lo “khác người”, mà chỉ nên lo có phù hợp với chính nghĩa hay không, có phù hợp lòng người hay không mà thôi. Những cuộc cách mạng hay cải cách mang tính lịch sử trên thực tế cũng được bắt đầu từ những suy nghĩ “đi ngược lại” với phần đông xã hội. Vì vậy số đông không phải lúc nào cũng đúng, “khác người” nếu không trái với đạo đức, với chân lý, mà hơn nữa còn mang lại những lợi ích lớn lao thì hoàn toàn không có gì phải chê trách cả.