Thông thường, các bậc cha mẹ đều để lại tài sản thừa kế cho con cái của mình. Có người để lại tài sản vật chất, có người để lại trí tuệ, có người lưu lại đạo đức làm tấm gương sáng cho hậu thế noi theo. Tất cả thứ này đều được xem là di sản.
Những bậc vĩ nhân của nhân loại như: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử, Mạnh Tử, Chúa Jesus, v.v. đều truyền lại những lời dạy vô cùng giá trị, trở thành chân lý sống quý như vàng ngọc cho con người. Đây chính là di sản của nhân loại.
Ngoài những triết lý mà các bậc thánh hiền xưa để lại thì di sản còn là của cải của xã hội. Ví như: Cây do người xưa trồng, con đường do các bậc tiền nhân khai mở, những thành quả được tạo nên trong quá trình phát triển và xây dựng đất nước, v.v. cũng được coi là di sản của xã hội.
Bên cạnh đó, thiên nhiên cũng cho chúng ta rất nhiều di sản như: vườn quốc gia Grand Canyon, vườn quốc gia Yellowstone ở Mỹ, rừng Amazon ở Brazil. Hay những công trình do con người tạo nên như: Kim tự tháp, Vạn Lý Trường Thành, lăng Taj Mahal, đền Angkor Wat cũng đều là những di sản văn hóa từ ngàn xưa để lại.
Những phát minh như đèn điện, máy bay, điện thoại, máy tính, v.v. của các nhà khoa học cũng là di sản đóng góp vào quá trình thúc đẩy văn minh nhân loại. Từ các tác phẩm hội họa do họa sĩ Van Gogh, Picasso, Da Vinci sáng tác đến những bản giao hưởng làm lay động tâm hồn thính giả của nhà soạn nhạc Beethoven hay những vở kịch mà đại văn hào Shakespeare để lại, tất cả đều là di sản nghệ thuật của nhân loại.
Mỗi người chúng ta sống trên cuộc đời này cũng nên để lại chút giá trị gì đó cho mai sau, dù chỉ đơn giản như: một câu nói hay, một việc làm tốt đẹp, hoặc một mối duyên lành, v.v. Những việc làm này tuy giản đơn nhưng sẽ không bao giờ bị rơi vào quên lãng, bởi vì có ba điều sẽ không bị mất đi trong cuộc đời, đó là: “Lập công, lập đức, lập ngôn”.
Trên thế gian này, những thứ chúng ta để lại nếu có thể khiến người đời ghi nhớ, học tập, thậm chí tự mình là tấm gương sáng để người khác noi theo thì đều trở thành di sản. Sống trong thời hiện đại, mỗi người chúng ta không những cần tạo ra các giá trị làm “di sản” cho thế hệ sau kế thừa, mà còn phải tiếp tục bảo vệ, gìn giữ và phát huy những điều tốt đẹp mà tiền nhân đã để lại.
Di sản không nhất thiết phải là những thứ có hình tướng, có giá trị hữu hạn như: tiền bạc, châu báu, ruộng đất, nhà cửa, v.v. Chúng ta cũng không nhất định phải để lại tài sản thừa kế cho con cháu mình, bởi vì, không thể biết chắc được rằng, trong số con cháu mình có hay không những kẻ bất hiếu, vì tranh giành di sản thừa kế mà đang tâm để xảy ra cảnh nồi da nấu thịt, xem nhẹ tình thân, phụ lại tâm ý của các bậc tiền nhân. Như vậy, chi bằng ta quyên góp số tài sản đó cho những tổ chức từ thiện xã hội. Thông qua việc làm này, chúng ta đã để lại lòng từ bi, trí tuệ cho hậu thế, đồng thời cũng là tạo phúc cho đời, khiến cho di sản mà ta để lại có giá trị với nhân sinh. Chia sẻ tài sản của gia tộc cho xã hội và quần sinh là góp phần làm tăng giá trị di sản của tổ tiên để lại. Hành động và tư tưởng này thể hiện sự tiến bộ của loài người.
Hàng ngày, Phật tử học tập giáo lý Phật giáo đều hiểu nên làm các việc thiện, bố thí, cúng dường, tuy nhiên một số người vẫn có tư duy và thói quen để lại di sản cho con cháu mình khi về già. Người phương Tây thì ngược lại, họ quan niệm con cháu tự có phúc của mình, cho nên cuối đời họ thường quyên tặng tài sản cho xã hội hoặc đóng góp cho tôn giáo mà họ tin theo. Tài sản của các bậc cha mẹ để lại chưa chắc đã được con cháu sử dụng đúng lúc, đúng việc, cũng chưa chắc sẽ làm rạng danh ân đức của tiền nhân. Song, nếu tài sản đó được quyên tặng cho tôn giáo thì nhất định sẽ được sử dụng vào các việc làm lợi ích cho xã hội cũng như phục vụ cho chúng sinh. Vậy, tại sao các bạn không suy nghĩ về việc sẽ quyên tặng di sản của mình cho giáo hội của tôn giáo mà các bạn hằng tin tưởng?