Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trên chiến trường miền Nam đã xuất hiện “đội quân tóc dài”, luôn đi đầu trong đấu tranh chính trị. Đó là những má Năm, cô Ba, thím Bảy… với lòng yêu nước, trái tim nhân hậu, lý lẽ chân thành, họ đã chặn đứng nhiều cuộc càn bố, lùng sục của quân đội Sài Gòn, bảo vệ được cơ sở cách mạng. Nhưng đâu chỉ có vậy, ngoài những người đấu tranh trực diện, còn một lực lượng khác, đó là những người con gái “chân đồng vai sắt” - Những chiến sĩ pháo binh trên mặt trận miền Đông Nam Bộ một thời lừng lẫy chiến công. Giờ đây họ đều đã vào cái tuổi “xưa nay hiếm”, thành các bà, các dì sống cuộc đời bình dị bên người thân, con cháu, hòa nhập với cộng đồng. Tuổi trẻ và chiến công đã lùi vào quá khứ, nhưng lịch sử thì không bao giờ bị chìm khuất, lãng quên. Nó luôn là tấm gương soi, bài học giá trị cho các thế hệ kế tiếp.
Buổi sáng muộn, ngôi nhà nằm khuất trong một con ngõ yên tĩnh, sạch sẽ của thành phố Bảo Lộc (Lâm Đồng). Đã gần ở cái tuổi “xưa nay hiếm”, nhưng bà Phan Thanh Hùng vẫn nhanh nhẹn và có trí nhớ khá tốt. Ngoài cái tên “cúng cơm”, những khi chuyện trò vui vẻ, người dân lối phố vẫn gọi bà là “bà Tư pháo cối”, hay “bà Tư lính pháo”. Nhìn vẻ ngoài “bình dân” với mái tóc pha sương, không ai nghĩ đây lại là một pháo thủ dũng cảm, một chỉ huy tháo vát dạn dày kinh nghiệm chiến đấu của một đơn vị pháo mặt đất thời chiến tranh. Không muốn nhắc tới những tháng năm gian khổ, ác liệt, nhất là những gì về mình, nhưng khi được hỏi, bà vẫn nhiệt tình kể lại. Tất cả được tái hiện như một cuốn phim tài liệu. Vâng, một cuốn phim bằng những lời lẽ chân thực, mộc mạc mà mỗi cuộc đời, câu chuyện, trận đánh là những trường đoạn đầy cảm động. Cứ thế, người nghe bị dẫn dắt, lôi cuốn từ đầu đến cuối.
Xin được bắt đầu từ Đội nữ pháo binh Tỉnh đội Lâm Đồng.
Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, tuy ta đã giáng một đòn chí tử vào các căn cứ, sào huyệt quân Mỹ và lực lượng ngụy quyền Sài Gòn trên toàn miền Nam, từ nông thôn đến thành thị, nhưng, về phía Quân giải phóng cũng bị tổn thất khá nặng nề, không chỉ địa phương mà cả quân chủ lực, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến sức chiến đấu trên chiến trường. Đối phương sau khi nếm đòn đau trên khắp nơi đã nhanh chóng bổ sung quân lính, vũ khí, khí tài và tiến hành củng cố, thiết lập lại hệ thống đồn bốt, chi khu, căn cứ, tăng cường mở những cuộc càn bố, đánh phá vào vùng căn cứ, hậu cứ của ta, nhằm đẩy lực lượng chủ lực ta ra xa vành đai phòng thủ Sài Gòn, và các đô thị lớn, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho chiến trường, hy vọng có thể chặn đứng được những cuộc tiến công của lực lượng cách mạng.
Đường Hồ Chí Minh - mạch máu giao thông quan trọng bậc nhất cho chiến trường miền Nam, nối liền địa bàn Nam Tây Nguyên với Khu 6 và miền Đông Nam Bộ. Phải giữ được sự lưu thông của hành lang chiến lược này, dù chỉ một ngày nguồn lương thực, vũ khí, khí tài từ hậu phương không thể ngừng chảy. Các binh đoàn không thể ngừng bước chân hành quân, khi mặt trận đang cần, đó là mệnh lệnh, là yêu cầu thiết tha của một nửa đất nước đang từng ngày nước mắt và máu chảy.
Trước thực tế đó, từ thực tiễn tình hình chiến trường, Bộ Chỉ huy Miền chủ trương thành lập tại các địa phương trên địa bàn miền Đông bao gồm: Lâm Đồng, Phước Bình, Tây Ninh, Đồng Nai… những đơn vị nữ pháo binh, với nhiệm vụ tiêu hao sinh lực địch bằng chiến thuật khi độc lập đánh nhỏ theo lối du kích, lúc phối hợp với chủ lực đánh lớn, cơ động, nhanh, gọn, buộc đối phương phải co cụm bị động đối phó.
Trong bối cảnh khó khăn của cách mạng miền Nam, ngày 22 tháng 12 năm 1968, tại suối Cheo xã Lộc Bắc, Đội nữ pháo binh Tỉnh đội Lâm Đồng ra đời, lấy phiên hiệu là 8-3, ngày Phụ nữ thế giới, do chị Phan Thanh Hùng làm đội trưởng, chị Lưu Thị Thanh An làm đội phó. Đây có thể coi là bước đột phá lớn, bắt đầu từ hôm ấy, họ đã bước sang một trang đời mới, không còn là những cô gái “chân yếu tay mềm” chỉ quen với công việc phía sau, mà là những pháo thủ của lực lượng pháo binh chiến trường. Dòng suối Cheo, cây rừng trở thành chứng nhân của thời khắc trọng đại, đánh dấu bước trưởng thành cả về lượng và chất của Quân Giải phóng miền Nam nói chung, miền Đông nói riêng. Với quân số lúc đầu 42 chiến sĩ, khi đông nhất lên tới 60, trong đó có 20 chị em là dân tộc Mạ, Cơ Ho. Đa số tuổi đời còn rất trẻ, được rút lên từ các đơn vị vận tải, kho tàng, bệnh viện, các đội tải thương, v.v.. hăng hái, nhiệt tình có sẵn, nhưng không ai hiểu biết gì về các loại pháo cối 82 ly, 60 ly, cũng như khí tài, máy ngắm, v.v.. Một thách thức lớn, nhưng không thể không vượt qua. Tình yêu công việc, sự tỉ mỉ thận trọng và cả cái “ríu rít yêu đời” nữ tính đã như một phẩm chất, men xúc tác làm cho chị em quên hết mọi khó khăn, cản trở, sớm chiều hăng say học tập, người biết trước hướng dẫn cho người biết sau, người chưa biết thì sẵn sàng cầu thị, không giấu dốt. Cái mới lạ bao giờ cũng say sưa hấp dẫn, để rồi đi từ hiểu biết này tới hiểu biết khác, từ không đến có. Từ bài học vỡ lòng đến khi “tốt nghiệp” chỉ gói gọn trong thời gian chưa đầy một tháng. Hôm kết thúc lớp huấn luyện ngắn ngày, các đồng chí huấn luyện viên kỹ, chiến thuật đã không tiếc lời ca ngợi tinh thần học tập và sự tiếp thu nhanh của chị em. Họ hồ hởi bước vào cuộc chiến không là chiếc gùi, cái xe đạp với tay ngai, dây buộc, hay những buổi trực ca trong màu áo blu trắng… mà bằng những cái bàn đế, nòng pháo nặng gấp rưỡi trọng lượng cơ thể. Tất cả sẵn sàng đối mặt với kẻ thù có vũ khí hiện đại hơn, được rèn luyện bài bản, huênh hoang và bất chấp. Những cô gái chân yếu tay mềm, tưởng chỉ biết vá may thêu thùa, phục vụ phía sau đã khẳng định mình bằng những trận đánh, làm cho không chỉ quân đội Sài Gòn, mà những tên lính Mỹ tự cao tự đại cũng nhiều phen bạt vía kinh hồn. Chỉ với mấy khẩu pháo cối 60 ly, 82 ly, mà đã làm nên bao trận bão lửa, họ đi đến đâu là đồn bốt giặc bị san bằng đến đấy. Từ hoảng sợ đối phương tìm cách săn lùng, tiêu diệt, nhưng những chiếc bóng mảnh mai vẫn xuất quỷ nhập thần, khi giữa đêm, lúc tơ mơ sáng, chúng sục sạo phía trước, chị em lẩn ra sau, dàn quân trên đỉnh núi, chị em đã tập kết nơi góc rừng. Một số chị em người dân tộc không biết chữ, nhưng tiếp thu khá nhanh, sau này trở thành những pháo thủ giỏi, đạt nhiều danh hiệu dũng sĩ.
Bà Tư Hùng kể:
“Trận đánh mở màn của Đội nữ pháo binh 8-3 diễn ra sau khi đội thành lập được hơn một tháng trên địa bàn K4 (huyện Đạ Huoai ngày nay). Vạn sự khởi đầu nan, hồ hởi nhưng ai cũng thấy lo lo. Chị em lo một thì lãnh đạo chỉ huy lo mười, nếu không đạt kết quả như mong muốn sẽ ảnh hưởng nhiều tới tâm lý toàn đội, hệ lụy không thể đong đếm được. Đêm hầu như không ai chợp được mắt, cứ loay hoay với nào bàn đế, nào đạn, kính ngắm, v.v.. chưa kịp nghỉ ngơi đã đến giờ xuất phát. Hai mươi con người ra đi trong im lặng. Một không khí căng thẳng, nặng nề bao trùm từ đầu tới cuối hàng quân. Đại đội 215 công binh - đơn vị phối hợp của tỉnh đội đã vào vị trí. Đối tượng tấn công là đoàn xe ba chiếc chở đầy lính bảo an đi càn ở một ngôi làng cách đó chừng hai cây số. Con đường tỉnh lộ nối liền Đắk Lắk và huyện lỵ Đạ Huoai từ đêm đã bị lực lượng công binh xẻ hào, đắp ụ. Khi chúng vừa dừng lại trước chướng ngại vật, thì một trận mưa pháo dội xuống. Những quả đạn cối 82 ly từ trên đồi chụp tới tấp xuống đội hình địch. Đạn cày tung mặt đường, lửa trùm kín thùng xe. Địch bị bất ngờ không kịp trở tay, la hét hoảng loạn. Một số tên chạy dạt vào vách núi, làm mồi cho các loại súng bộ binh. Nhiều tên chết tại chỗ, số còn lại quay đầu xe tháo chạy về căn cứ. Chiến thắng đó đã khích lệ tinh thần chị em, như một bước dậm đà, xóa tan sự e ngại để chuẩn bị bắt tay vào các trận đánh tiếp sau, trong đấy phải kể đến trận phối hợp với một đại đội bộ binh tiến công vào chi khu Di Linh”.
Căn cứ này nằm trên cao nguyên Di Linh, cao gần 1.000 mét so với mặt nước biển, cách thành phố Đà Lạt chừng 80 cây số, án ngữ con đường nối liền Sài Gòn - Đà Lạt, do trung đoàn 53 quân đội Sài Gòn đóng chốt. Từ đây địch vẫn thường xuyên tung quân đi lùng sục vào các bản làng đồng bào thiểu số nuôi giấu cán bộ, hoặc những nơi trú đóng của các đơn vị địa phương, kho tàng, cơ sở hậu cần gây cho ta nhiều khó khăn. Đây là một trận đánh gây tiếng vang lớn, với lực lượng quân không đông, hỏa lực không mạnh, nhưng chúng ta đã đánh sập cả một chi khu quan trọng của địch. Một vùng chiến trường lâu nay có vẻ yên ắng, quân địch vẫn cho là địa bàn an toàn, đã bị giáng đòn chí tử. Báo chí Sài Gòn khi đó rầm rộ đưa tin, các tờ Tin Sáng, Dân Luận, Thần Chung, Lẽ Sống, v.v.. còn viết tường thuật và đăng những bức ảnh tan hoang, đổ nát thảm khốc của chi khu.
Bà Lưu Thị Thanh An, nguyên là phó chỉ huy đội, trước khi nghỉ hưu là Bí thư Thành ủy Bảo Lộc (Lâm Đồng) kể:
“Câu chuyện đã qua khá lâu rồi, gần 50 năm, nhưng ngày nay cứ mỗi lần có dịp đi qua Di Linh là tôi lại nghĩ tới. Tôi còn nhớ trước khi trận đánh diễn ra, nghe tin Bác Hồ mất, toàn đội khóc ròng mấy ngày. Chẳng thiết ăn uống gì, mắt ai cũng đỏ hoe vì khóc Bác. Đơn vị những ngày đó tràn ngập không khí u buồn. Nhưng rồi chúng tôi đã biến đau thương thành hành động, quyết chí lập công dâng Bác. Quãng đường hành quân đến địa điểm nổ súng khá xa, trong khi phải mang vác bàn đế, nòng pháo, rồi một cơ số đạn không ít. Đó là chưa nói tới súng AK, cạc-bin và đồ ăn, nước uống. Tất cả đều chất lên những đôi vai, tấm lưng yếu mềm con gái. Đường xa, lại nhiều dốc, nhưng với quyết tâm cao, chị em động viên, thay nhau hành quân đến đích đúng giờ. Đây là trận hiệp đồng tác chiến giữa Đội pháo binh 8-3 và đơn vị bộ binh C200. Hàng loạt quả đạn cối 82 ly khai hỏa mở màn trận đánh. Đạn dội trúng sở chỉ huy trung đoàn 53 ngay từ đầu làm tê liệt cơ quan đầu não địch, sau đó chuyển sang bắn áp chế, hủy diệt các ổ đề kháng, cho các mũi thọc sâu của bộ binh tiến công vào bên trong. Đạn rơi chính xác, thật không ngờ chỉ mới sau một vài trận đánh mà trình độ lấy phần tử bắn của các cô gái lại tiến bộ nhanh như vậy. Địch ra sức cầu cứu, từ các trận địa, căn cứ khác, chúng phản pháo dữ dội, nhưng quân ta vẫn làm chủ tình hình. Trận đánh kết thúc lúc 5 giờ sáng. Các pháo thủ nữ đã bắn gần 200 quả đạn vào mục tiêu, toàn bộ ban chỉ huy trung đoàn 53 chốt giữ chi khu bị tiêu diệt, nhiều vũ khí, khí tài phương tiện hành quân bị phá hủy, gần trăm tên lính bị bắt làm tù binh”.
Và đây là thành tích chiến đấu của Đội pháo binh 8-3 Tỉnh đội Lâm Đồng mà tôi đã được đọc: Đơn vị được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng Ba, 66 Huân chương các loại, 40 danh hiệu Dũng sĩ và nhiều bằng khen, giấy khen được tặng cho các cá nhân. Riêng liệt sĩ Lê Thị Pha được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Gần trưa, tiết trời trở nên ấm áp, dễ chịu. Thị xã Bảo Lộc đẹp dịu dàng như một người con gái đang tuổi trưởng thành. Những khu phố, cửa hàng, trung tâm mua sắm… cho ta thấy Bảo Lộc đang từng ngày thay da đổi thịt. Con đường mang tên Anh hùng liệt nữ Lê Thị Pha thảm nhựa phẳng lỳ, sạch sẽ. Những ngôi nhà hai bên đường cửa mở thân thiện nhìn sang nhau. Một không gian vừa phải, đủ cho người đi đường có thể vừa đi vừa thả hồn suy nghĩ. Con đường này sẽ dẫn tới ngôi trường phổ thông cũng mang tên chị. Ở đó ngày ngày rộn vang tiếng học bài của các cháu học sinh.
Chị Lê Thị Pha sinh ra ở Củ Chi - một vùng đất có truyền thống cách mạng kiên cường. 16 tuổi chị tham gia lực lượng Quân giải phóng, hai năm sau được bổ sung vào Đội nữ pháo binh 8-3 với chức danh chính trị viên. Chị sống giản dị, tình cảm và gần gũi mọi người. Trong một lần đi trận trở về, đơn vị bất ngờ rơi vào ổ phục kích của địch. Lực lượng địch đông, quân ta ít nên dù chống trả quyết liệt nhưng vẫn bị áp đảo. Ngay từ đầu, chị Pha đã bị đạn địch làm gãy chân. Để bảo toàn lực lượng, chị một mình ở lại chiến đấu cầm chân địch cho đơn vị rút đi an toàn. Chị Pha bị địch bắt, biết chị là cán bộ, chúng tìm mọi cách khai thác thông tin, nhưng chị cương quyết không khai. Tra khảo chị bằng những ngón đòn dã man nhất, nhưng vẫn thất bại, cuối cùng chúng bỏ chị lên xe Zép chạy một vòng quanh thị trấn để khuếch trương chiến thắng rồi hạ sát chị. Trong những ngày lễ tang Bác Hồ trước đấy khi chưa bị địch bắt, là một cán bộ chính trị có kinh nghiệm, chị Pha đã động viên toàn đội cố gắng lập nhiều thành tích, khi nào thống nhất đất nước, tất cả chị em sẽ ra thăm Hà Nội và báo công với Bác. Nhưng tâm nguyện của chị đã không thành hiện thực. 26 năm sau ngày chị Lê Thị Pha bị địch sát hại, những đồng đội của chị đã tìm được hài cốt chị đưa về an táng tại quê nhà, nơi sinh ra người nữ anh hùng ấy. Ngày 6 tháng 11 năm 1979, liệt sĩ Lê Thị Pha được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân…
Nhắc đến thành tích Đội nữ pháo binh Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lâm Đồng hôm nay, cũng không thể không nhắc tới tấm gương chiến đấu dũng cảm quên mình vì Tổ quốc của chiến sĩ Dư Kim Hoa. Đã chịu nhiều tổn thất vì những trận pháo kích của Đội nữ pháo binh 8-3, bọn địch tung quân quyết tìm ra manh mối nhằm triệt xóa hoàn toàn mối đe dọa nguy hiểm này. Trong một cuộc càn quét, chúng bắt được nữ pháo thủ Kim Hoa. Chúng khảo tra đánh đập chị chết đi sống lại, nhưng vẫn không thể nào moi được thông tin gì về kế hoạch tác chiến và nơi đóng quân của đơn vị. Cay cú vì thất bại trước một người phụ nữ, hai lần chúng cưa chân chị, nhưng cả hai lần chị Hoa đều không hề hé răng khai báo nửa lời. Cuối cùng chúng hèn hạ sát hại chị.
Trên chiến trường miền Đông ngày đó còn có Đội nữ pháo cối Xuân Lộc. Được hình thành từ Trung đội trợ chiến của Tỉnh đội Đồng Nai. Ra đời năm 1969 với 23 pháo thủ, qua gần bảy năm chiến đấu, Đội nữ pháo cối Xuân Lộc đã đánh 141 trận lớn nhỏ, tiêu diệt hàng trăm tên địch, phá hủy nhiều căn cứ, phương tiện chiến tranh của chúng. Không chỉ bắn rơi máy bay, bắn cháy xe tăng, chị em còn bắt hàng chục tù binh. Đội nữ pháo cối Xuân Lộc đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nhiều cá nhân được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ, Dũng sĩ Quyết thắng. Chiến tranh kết thúc, họ lại trở về làm người phụ nữ bình thường, chăm sóc gia đình, nuôi dạy con cháu.
Giữa cuộc sống đời thường hôm nay không ai nhận ra bà Sáu Lắm, bác Tư Gái, dì Út Thương… là những dũng sĩ, một thời bàn chân nhỏ nhắn của họ đã lưu dấu ngang dọc khắp chiến trường từ Mã Đà đến Suối Ngô, hay từ Tà Lài đến Long Khánh. Không giữ lại gì cho riêng mình, cũng không thích nói gì về mình những tháng ngày gian khổ ác liệt mà họ là người trong cuộc. May thay Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ tại Thành phố Hồ Chí Minh đã làm tốt chức năng ghi chép, lưu giữ lịch sử. Những bức ảnh trưng bày không những đã cho chúng ta hiểu thêm về các nữ chiến sĩ pháo binh miền Đông Nam Bộ mà còn đưa người xem đi xa hơn về các tỉnh, thành từ Quảng Trị đến Cà Mau. Đội nữ pháo binh Long An với các trận dội lửa xuống các chốt quân Mỹ ở vành đai Rạch Kiến, Cần Đước, Hiệp Thạnh… hay trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, Khẩu đội trưởng Hồng Quân cùng đồng đội đã ngụy trang khéo léo, mang hỏa lực tiếp cận mục tiêu, nã hàng chục trái đạn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Nữ pháo thủ Nguyễn Thị Bích Nga của Đội biệt động 67 Sài Gòn đã cùng đồng đội không dùng bàn đế, từ trận địa một ngôi nhà ở chợ Vườn Chuối bắn hàng chục quả đạn cối vào bộ tổng tham mưu quân đội Sài Gòn và sở chỉ huy của tướng Oét-mô-len giữa tầng tầng lớp lớp lính canh, khiến nhiều tên địch bị thương vong và phương tiện chiến tranh bị phá hủy, v.v.. Những người con gái mười tám, đôi mươi đã làm phong phú thêm trang sử đấu tranh oanh liệt của nhân dân miền Nam anh hùng. Họ đã trở thành một phần của lịch sử vẻ vang đó.
Tiếp đó không thể không kể đến Đội nữ pháo binh B11. B11 là biệt danh Đội nữ pháo binh Quân khu T10, bao gồm các tỉnh đội Bình Long, Phước Long, Quảng Đức (nay là Đắk Nông). Bà Phạm Thanh Men (Bảy Men), người con gái quê Bình Hưng Hòa, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh là đội trưởng - người chỉ huy đầu tiên của B11. Bây giờ là công dân của thành phố Bình Dương, bà Bảy Men vẫn nhớ như in: B11 được thành lập bên bờ suối Đắk Mai, Bù Gia Mập (nay thuộc tỉnh Bình Phước). Với lực lượng 34 chị em, khi đông nhất trên 40 người, nhiệm vụ chính là dùng hỏa lực tiến công các chi khu, yếu khu, phối hợp với bộ binh đánh tan những cuộc hành quân càn bố của địch. Khi cần, sẽ là lực lượng cứu thương, tải thương hoặc tiếp đạn cho các đơn vị chủ lực đánh lớn. Vẫn là những cô gái phục vụ ở các đơn vị hậu cần phía sau, nhưng khi được làm người lính xung kích, họ nhanh chóng thích nghi tiếp thu kỹ, chiến thuật và bước vào cuộc chiến với lòng quyết tâm, tự tin cao độ. Trận đánh để lại ấn tượng sâu sắc nhất với bà là trận phối hợp cùng bộ binh tiến công tiểu khu Phước Long và sân bay Phước Bình cuối tháng 3 năm 1969. Tiểu khu Phước Long có hàng trăm tên địch, nằm án ngữ con đường vận chuyển vũ khí, lương thực từ miền Bắc hậu phương vào chiến trường, điểm cuối của con đường Trường Sơn. Đây cũng là khu vực tập kết hàng hóa, có nhiều kho bãi, trước khi tỏa đi các nơi thuộc miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Với địa thế hiểm yếu đó, chúng đã gây cho ta không ít khó khăn. Phải đánh sập mục đích của địch, đấy là mệnh lệnh cấp trên giao cho. Sau nhiều ngày điều nghiên, trận đánh được tiến hành. Hai khẩu đội cối 81 ly đặt trên một ngọn đồi cao cách mục tiêu chừng 700 mét. Trước đấy gần một tuần, hai trinh sát của đội trong vai là người dân đi làm rẫy đã bí mật tiếp cận đo đạc, xác định cự ly hướng tầm cho hỏa lực. Cuộc tiến công bắt đầu từ lúc nửa đêm. Ngay loạt đạn đầu tiên, tòa nhà chỉ huy và trung tâm thông tin yếu khu đã bị đánh sập. Quân địch hoàn toàn bị bất ngờ, không kịp phản ứng. Chúng co cụm ẩn nấp vào hầm ngầm, công sự tìm cách chống trả, đợi quân chi viện. Theo hiệp đồng, khi pháo tạm dừng, quân địch hoảng loạn, các mũi xung kích của bộ binh tiến đánh vào phía trong, tiêu diệt hết ổ đề kháng này đến ổ đề kháng khác. Trong khi đó, một khẩu đội khác nã đạn vào sân bay. Những quả đạn phá hủy đường băng, kho nhiên liệu, lửa cháy đỏ trời, sân bay tê liệt, quân cứu viện không thể nào đáp xuống. Trời sáng, pháo địch từ các trận địa quanh vùng dội về, trên trời từng tốp máy bay lồng lộn trút đạn, một số chiến sĩ bị thương, nhưng quân ta vẫn không rời trận địa cho đến khi trận đánh kết thúc. Trận hiệp đồng chiến đấu đạt kết quả cao, quân ta rút ra an toàn, ngoài hai chiến sĩ hy sinh vì một quả pháo địch bắn chặn đường.
Từ khi xuất hiện trên chiến trường, cái tên B11 đã gieo bao nỗi kinh hoàng cho đối phương. Bước chân các nữ pháo thủ đi đến đâu là ở đó bão lửa nổi lên, quân địch thường xuyên theo dõi đề phòng, nhưng vẫn không thể nào ngăn chặn được những trận tiến công nổ ra. Để đa dạng hóa vũ khí, các chị còn tìm hiểu tự học và sử dụng thành thạo các loại hỏa lực khác như: Dàn phóng rốc-két H-12, pháo cối thu được của địch…
Đầu năm 1970, theo yêu cầu nhiệm vụ, B11 chuyển địa bàn chiến đấu từ chiến trường Phước Long ra Quảng Đức. Một cuộc hành quân dài ngày, vô cùng gian nan vất vả. Đường đi phải vượt qua nhiều dốc cao, suối sâu, mang vác nặng nề, nào súng đạn, lương thực, quân tư trang. Họ phải vượt qua những cơn mưa rừng kéo dài nhiều tiếng đồng hồ. Họ phải vượt qua những cái dốc nửa ngày lên, nửa ngày xuống, những cây cầu qua suối bằng cây, dây rừng, mỗi bước đi là một bước đung đưa chao võng. Rồi biệt kích, thám báo địch rình rập... Đây không phải là cuộc hành quân bình thường mà là cuộc hành quân của một đơn vị nữ pháo binh. Những nòng pháo, bàn đế trọng lượng gần bằng cơ thể người, những quả đạn nặng ba, bốn ki-lô-gam… đều là những thứ không chút phù hợp với những đôi vai bé nhỏ, những tấm lưng mềm yếu. Sốt rét, bệnh tật, rồi đói cơm, thiếu mắm lâu ngày đã vắt kiệt sức khỏe của chị em. Ai dám bảo không có giây phút yếu mềm do dự, ai dám khẳng định mình không gây nên nỗi lo cho đồng đội, phụ nữ mà. Nhưng với nghị lực và quyết tâm cao, toàn đội đã chiến thắng, không một ai bị rớt lại phía sau. Trong những ngày vượt núi xuyên rừng ấy mới hiểu hết ý nghĩa câu nói “chị ngã em nâng, em đau chị cõng”. Ở chiến trường mới, Đội nữ pháo binh B11 tham gia đánh nhiều trận, độc lập và phối hợp với đơn vị bạn, được tặng thưởng nhiều huân, huy chương, danh hiệu: Dũng sĩ diệt Mỹ, Dũng sĩ Quyết thắng, Dũng sĩ diệt cơ giới…
Chị Bảy Men kết thúc câu chuyện bằng giọng trầm buồn:
“Chấm dứt chiến tranh, toàn đội có năm chị em hy sinh. Đó là các liệt sĩ Võ Thị Thuyết, Nguyễn Thị Lan, Nguyễn Thị Dân, Huỳnh Thị Vân, Võ Thị Lý. Năm chị em là năm bông hoa rừng bất tử, năm tấm gương về người phụ nữ Việt Nam trung dũng kiên cường. Dừng lại ở tuổi đôi mươi, nhưng tên tuổi, chiến công của các chị còn sáng mãi trong lịch sử, truyền thống anh hùng của phụ nữ Việt Nam. Thời gian dù nghiệt ngã đến mấy cũng không thể làm phai mờ nụ cười, giọng nói của các chị cũng như tập thể Đội nữ pháo binh B11. Giờ đây mỗi dịp gặp gỡ nhân ngày 30 tháng Tư, tuy tuổi tác đều đã cao, nhưng ai cũng thấy như mình trẻ lại cái thời vác pháo đi đánh giặc, sôi nổi và vô tư. Nhắc về kỷ niệm với những người đồng đội đã ngã xuống, không ai có thể cầm lòng được”.
Đội nữ pháo binh miền Đông - Một cái tên đã làm bạt vía kinh hồn đội quân thiện chiến Mỹ và quân đội Sài Gòn, được trang bị vũ khí tối tân hiện đại, góp phần vào chiến thắng vĩ đại 30 tháng 4 năm 1975 của dân tộc. Đó cũng là sự sáng tạo, biến hóa trong đường lối chiến tranh nhân dân lấy ít đánh nhiều, lấy yếu đánh mạnh, dùng thô sơ thắng hiện đại của Đảng ta. Đó cũng là niềm tự hào của phụ nữ Việt Nam, phát huy truyền thống con cháu Bà Trưng, Bà Triệu.