Những năm chiến tranh, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, cái tên Hậu cần B2 đã trở nên rất quen thuộc với lính chiến. Hậu cần Miền (B2) có thể coi là “binh chủng hợp thành”, bao gồm các đơn vị: Vận tải, quân nhu, xăng dầu, kho tàng, quân y, quân giới, công binh, v.v.. Đảm trách một địa bàn trọng yếu, rộng lớn gồm các tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai, Biên Hòa, Bình Long, Sông Bé... Áp sát phía tây bắc Sài Gòn, đây cũng là vùng chiến trận luôn nóng bỏng quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn tìm mọi cách hủy diệt. Nói tới Hậu cần B2 là nói tới công tác hậu cần tại chỗ, hậu cần nhân dân, một trận đồ bát quái mà đối phương dù lắm mưu nhiều kế, tiềm lực quân sự hùng hậu vẫn phải chấp nhận thất bại trong âm mưu ngăn chặn.
Nằm xa miền Bắc, những năm sáu mươi và đầu bảy mươi của thế kỷ trước, việc vận chuyển lương thực, vũ khí cho chiến trường B2 gặp rất nhiều khó khăn, phần do địch chặn đánh, chia cắt tuyến vận tải huyết mạch, phần thời tiết khắc nghiệt, sáu tháng mùa mưa trên Trường Sơn. Có chuyến hàng vào tới nơi chỉ còn một nửa do bị bom đạn hay mưa trôi lũ cuốn. Để có một chuyến hàng trót lọt cũng phải mất cả tháng trời, trong khi đó đòi hỏi của chiến trường là từng ngày. Sự ngắt quãng về cung cấp ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và khả năng tác chiến của bộ đội ta trên các mặt trận, nhất là mùa chiến dịch. Không thể ngồi chờ sự chi viện từ hậu phương, để chủ động nguồn lực, đảm bảo sức mạnh chiến đấu cho các đơn vị chủ lực, lãnh đạo, chỉ huy Cục Hậu cần B2 đã đề ra chủ trương khai thác nguồn hàng tại chỗ, thực hiện phương châm hậu cần nhân dân. Đây là hướng đi đúng đắn, phát huy sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta. Bởi vậy khi nói tới Hậu cần B2 là nói tới hậu cần tại chỗ, một mặt trận biết dựa vào lòng dân, sức dân. Trên tinh thần đó nhiều cửa khẩu đã được thiết lập. Đây là những điểm thu mua hàng nằm sát nách địch, sẵn sàng đón nhận nguồn hàng từ trong vùng địch đưa ra, hoạt động bán công khai; không chỉ ở địa bàn mà còn vươn dài cánh tay sang tận nước bạn Cam-pu-chia. Là người làm báo, tôi nhận ra tầm nhìn chiến lược và tính hiện thực của chủ trương này nên đã đi sâu tìm hiểu. Xin được kể ra đây vài câu chuyện minh chứng.
Lần đó tôi theo Trung đội 3, Đại đội 1, Tiểu đoàn 49 đi nhận hàng. Cách đấy mấy hôm, Trung đội trưởng Đậu Xuân Liêm - một người dáng vẻ nhỏ thó nhưng năng suất thồ luôn dẫn đầu, cho tôi biết đơn vị sắp đón một đợt hàng mới tại “cửa khẩu” Định Quán. Đây không phải lần đầu tôi chứng kiến những chuyến xe chở hàng “rút ruột” từ trong thành ra cho Quân giải phóng, nhưng sao lòng vẫn thấy hồi hộp. Một bãi đất rộng gần bằng hai sân bóng chuyền được dọn sạch, phía trên là những tán cây cổ thụ xùm xòa, dây leo chằng chịt. Rừng Đồng Nai mùa khô, hơi nước từ sông La Ngà cách đấy không xa phả lên mát rượi. Vài trăm mét ra tới bìa rừng, đi thêm gần sáu cây số là tới thị trấn Định Quán sầm uất nhộn nhịp. Định Quán cách thành phố Biên Hòa 80 cây số, còn đi Sài Gòn thì chừng 100 cây. Khi yên ắng, từ đây có thể nghe được tiếng ô tô chạy ngoài lộ 20. Thật khó có thể tin lại có một bãi nhận hàng gần địch đến thế, nhưng đấy là sự thật, và nó đã diễn ra khá lâu rồi. Tầm 17 giờ, ba chiếc xe Desto loại 12 tấn, bộ đội ta vẫn gọi là “xe nhà lầu”, vì trông nó to cao như cái nhà tầng xuất hiện. Chủ của ba xe hàng này là cô Ba, một nhà buôn thuộc loại “có máu mặt” ở Sài Gòn. Xấp xỉ tuổi 50, đẹp người, ăn nói có duyên, cô kết thân như chị em với vợ bé thứ ba của tỉnh trưởng Biên Hòa. Xây dựng được một đường dây như vậy là rất công phu và mất nhiều thời gian, nhưng mang lại hiệu quả lớn trong công việc. Vừa bước xuống xe, cô phàn nàn: “Hôm nay đến trễ chút xíu vì tụi lính gác mới đổi từ nơi khác về kêu khám xe, nó biết nhưng còn giả vờ nói bà chở những thứ này cho ai vậy? Đòi ăn mà, nói qua nói lại cuối cùng phải cho nó hai cây “Ru bi”, chưa đến lúc nhờ can thiệp”. Cũng cô Ba, lần trước cách đấy mấy tuần trong chuyến xe chở gạo, thuốc tây, dưới xếp mấy trăm quả đạn pháo cối loại 60 ly và 81 ly mà một đơn vị “đặt hàng” suốt gần hai tháng trời mới có. Đó là loại súng của địch trang bị cho bộ binh, ta thu chiến lợi phẩm, bắn hết đạn, phải “moi” từ kho của chúng. Nghe nói cô Ba đảm nhận công đoạn vận chuyển, còn mua gom cất giấu là người khác, ai biết việc của người nấy, tất cả thành một “quy trình” khép kín, an toàn, đơn tuyến như hoạt động tình báo.
Điều làm tôi ngạc nhiên là với một lượng lớn hàng trăm quả đạn, bà con cô bác cất giấu ở đâu, mỗi nhà bao nhiêu quả, và làm thế nào để những “mặt hàng nguy hiểm” này qua mắt được bọn cảnh sát, lính lác suốt ngày săm soi? Rồi những mặt hàng thuộc loại quốc cấm khác, quân tiếp vụ (của Quân đội), làm sao mà có, làm sao đi lọt? Thực ra với một đội quân cảnh sát, quân đội đông nhưng không mạnh, nạn tham nhũng tràn lan từ trên xuống dưới, từ thấp đến cao, đứa nào cũng tìm cách kiếm tiền, thì chuyện gì cũng có thể xảy ra. Chả thế mà một chủ hàng không biết đùa hay thật đã nói: “Các chú cần mua tên lửa, phụ tùng xe tăng cũng có”. Đấy là “điểm yếu chết người” của đối phương, và cũng là thế mạnh của hậu cần nhân dân. Sử dụng tốt “đội quân hậu cần nhân dân”, Hậu cần B2 đã giải quyết được một phần quan trọng trong công tác đảm bảo sức mạnh chiến đấu cho bộ đội. Các má, các dì trong suốt những năm chiến tranh đã mua gom chuyển ra chiến khu bao nhiêu, những loại hàng gì chưa có một thống kê nào, nhưng biết rằng số lượng không nhỏ. Và tất nhiên, để làm được việc đó phải có nhiều cô Ba, nhiều má Sáu, dì Năm, chú Hai, v.v..
Ba xe hàng lần này, ngoài gạo, có một xe chở toàn đồ “quân tiếp vụ” - những thứ trang bị cho lính đối phương như vải may quần áo, loại mỏng nhẹ bền, cuốc xẻng, bi đông, dây lưng, áo mưa, cơm sấy, pin, đèn, đường sữa, bông gạc, những bộ đồ mổ cho bệnh viện, hóa chất cho các xưởng dược sản xuất thuốc kháng sinh… Tôi nhận ra một số thứ tôi đã, đang dùng cũng là từ đây như cái bồng không ngấm nước, phim chụp ảnh hiệu Kodak, thuốc đánh răng Hinos, thuốc lá Ru bi… và những bộ quần áo, cái võng nilon chỉ 15 phút sau khi giặt, dù không có nắng vẫn khô, rất tiện lợi cho điều kiện ở rừng. Các xưởng may của các đoàn cũng rất nhàn khi cắt may loại vải này. Nó hoàn toàn khác với những bộ quần áo vải Tô Châu dày cộp, bởi thế có người đã nhận xét khá chuẩn, nhìn cách ăn mặc là biết lính B2. Trước khi cho xe quay trở về thành phố, cô Ba còn thật thà rủ chúng tôi “vào Sài Gòn chơi ít bữa, khi nào chở hàng ra thì ra luôn”, cô sẽ đảm bảo an toàn tuyệt đối cho. Như vậy đủ biết đường dây của cô được “thiết kế” chắc chắn biết chừng nào, và việc đưa những xe hàng ra chiến khu vì thế cũng thuận lợi. Trên địa bàn Phước Long, trong những đợt địch truy xét kéo dài, công nhân cạo mủ cao su phải chia nhỏ, giấu thuốc chữa bệnh, vật tư y tế trong những guy-go mang cơm, đưa ra căn cứ.
Lần khác tôi được các chiến sĩ xăng dầu cho đi xem bãi hàng của họ. Một buổi chiều, anh Theo (quê Nam Định) đóng chốt ở cửa khẩu xăng dầu, một người rất thích chụp ảnh rủ tôi “đi chơi”. Với người làm báo, đi chơi cũng là dịp tìm hiểu tư liệu. Từ bến Lò Gò thuộc tỉnh Tây Ninh, chiếc ghe tam bản lắp máy đuôi tôm theo dòng sông Vàm Cỏ Đông xuôi về phía hạ nguồn. Vàm Cỏ Đông khi mặt trời còn vài ba cây sào sao mà đẹp, mà nên thơ đến thế. Mặt nước phẳng lặng, cây cối hai bên bờ rủ bóng, những vạt nắng xiên chéo thành trăm nghìn nan quạt. Cảnh vật như không hề có chiến tranh. Ở đoạn này, dòng sông ngăn đôi hai nước Việt Nam và Cam-pu-chia. Chiếc máy ảnh Canon trên tay tôi không bỏ qua những cảnh đẹp. Anh Theo ngồi đầu mũi thuyền, nụ cười thường trực trên môi để cho tôi ghi hình. Say sưa với phong cảnh, đất trời, tôi không để ý mình đã đến bãi tập kết xăng dầu, với tốc độ này, ghe chạy 15 phút nữa là đến sông Thị Tính rồi ra sông Sài Gòn. Chúng tôi lên bờ, một bãi đất rộng bằng nửa sân bóng đá, xếp bạt ngàn những can xăng 25 lít. Trong ánh chiều, màu nhựa trắng sáng cả một khu vực. Thấy tôi có vẻ ngạc nhiên, anh Theo giải thích: “Số xăng này bà con mua gom, phần của tư nhân, phần của quân đội Sài Gòn, tập kết lại đây, đợi thuyền của đơn vị đến lấy cung cấp cho các đầu mối. Cứ vài ba tuần lại có một đợt, hậu cần nhân dân mà anh”. Vậy là tôi hiểu, trong khi đường ống xăng dầu chưa vào tới nơi, nếu không có nguồn xăng này thì số xe ta đưa vào và xe chiến lợi phẩm, rồi tuyến vận tải đường sông sẽ không phát huy được tác dụng. Tôi chợt nhớ tới đội xe Honda 90 hàng chục chiếc ở cơ quan (cũng mua từ ngoài thành) chuyên đưa cán bộ đi công tác. Phương tiện này rất hữu ích, cơ động.
Lính B2 dường như không mấy ai không một lần đến kho Tư Dư. Khu kho này nằm ngay biên giới, trong một khu rừng dầu. Mùa khô, những cây dầu trơ cành, ta có cảm giác như đi trên một con đường rải đầy bánh đa nướng để vào kho. Đây là một trong những cửa khẩu khai thác nguồn hàng, lương thực, thực phẩm từ xứ sở Chùa Tháp. Vùng Kông-pông Chàm đất đai màu mỡ, rộng lớn, sông đầm nhiều tôm cá, lúa gạo dồi dào, các sản vật nông nghiệp khác mùa nào thức nấy phong phú. Đấy là “đích đến” của những người hoạch định chiến lược “Hậu cần tại chỗ” của Hậu cần B2. Là một kho lớn, vừa làm nhiệm vụ thu mua, vừa cấp phát, “kho Tư Dư” có ngày cấp hàng chục tấn lương thực, thực phẩm, nhưng cũng mua vào số lượng không kém. Nhiều lần đến lĩnh gạo, tôi đã gặp từng đoàn xe bò, những chú bò béo núc, kéo những chiếc xe thùng cao, chất đầy gạo, đậu xanh, ngô hạt, rồi mắm, cá khô… của người dân Cam-pu-chia xa, gần đến bán cho nhà kho.
Với chiến lược đó, Hậu cần B2 không chỉ đảm bảo cơ sở vật chất, sức mạnh chiến đấu cho chiến trường miền Đông, có thời điểm, còn vươn tay, hỗ trợ cho cả mặt trận Tây Nguyên (B3). Lấy súng giặc đánh giặc, câu nói này từ kháng chiến chống thực dân Pháp, trong chống đế quốc Mỹ, Hậu cần B2 đã nâng lên tầm mức cao hơn, dùng chính cơ sở vật chất của địch đánh địch. Cùng với sự chi viện đắc lực của miền Bắc, cần tạo nên nhiều nguồn cung ứng tại chỗ, có như vậy mới đảm bảo tốt sức mạnh chiến đấu cho bộ đội đánh thắng kẻ thù. Với cách làm như vậy, Hậu cần B2 đã nêu một bài học sâu sắc trong công tác hậu cần quân đội. Ngoài phục vụ chiến đấu, Hậu cần B2 còn tham gia chống càn bảo vệ kho tàng căn cứ, xin được kể một trong những trận đánh đó.
Mùa khô năm 1971, quân đội Sài Gòn mở cuộc hành quân “Toàn thắng 1-71 NB” vào Kông-pông Chàm, Đông Bắc Cam-pu-chia với mục đích tìm diệt các cơ sở hậu cần, kho tàng, căn cứ cơ quan đầu não của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Tại mặt trận Đường số 7, ngã ba Suông Chúp, địch liên tục nếm đòn thất bại, song vẫn không chịu từ bỏ âm mưu, điều thêm quân lính và phương tiện chiến tranh ném vào canh bạc đầy rủi ro.
Tiểu đội 2, Đại đội 3, Tiểu đoàn 49 vận tải xe thồ được lệnh bảo vệ kho đạn trong khu rừng cao su gần sóc Tà Pao của đồng bào Cam-pu-chia. Đây là số đạn đơn vị bạn vừa chuyển tới hồi đêm, chưa kịp đưa về bên kia biên giới cung cấp cho mặt trận Tây Ninh, Phước Long, bọn địch đã “đánh hơi” được, đang tìm cách cướp đoạt. Hai bên giằng co, cuộc chiến diễn ra vô cùng ác liệt trong tương quan lực lượng khá chênh lệch. Sau những loạt bom pháo dọn đường, một trung đội địch tiến vào khu kho. Từ các công sự dựa lưng vào bờ đất, các chiến sĩ ta sẵn sàng chờ địch tới. Tiểu đội phó Tiểu đội 2 nhắc anh em bình tĩnh chờ lệnh. Nhiệm vụ của tiểu đội anh là đánh bật đối phương ra khỏi vùng ranh giới, kìm chân chúng để đơn vị phía sau chuyển hàng đi cất giấu. Đây là sự tin cậy đại đội dành cho bản thân anh cũng như các chiến sĩ trong tiểu đội. Làm công tác vận tải hậu cần các anh hiểu, một quả đạn, khẩu súng, cân gạo từ hậu phương vào tới chiến trường, đã thấm đẫm mồ hôi và cả máu của biết bao người. Đấy cũng là một phần máu thịt của nhân dân miền Bắc đối với miền Nam, bằng bất cứ giá nào cũng không thể để lọt vào tay quân địch. Là một tiểu đội phó gương mẫu, Chiến luôn được anh em yêu quý, cấp trên tin tưởng, và đây không phải lần đầu các anh đọ súng với địch, nhưng trong hoàn cảnh này là hết sức quan trọng. Chiến hiểu tầm vóc của trận đánh khi đối phương tung vào đây lực lượng lớn của chiến đoàn 8, với sự hỗ trợ tối đa của phi pháo.
Một tốp gần 20 tên địch men theo con đường ven lô cao su tiến lại khu kho. Vừa đi chúng vừa xả súng vào bất cứ chỗ nào nghi ngờ có lực lượng ta. Phía trận địa ta vẫn im lặng. Địch không hay trong những căn hầm được ngụy trang kín đáo, các chiến sĩ Tiểu đội 2 đang sẵn sàng chờ đợi. Từ đỉnh rừng phía đông hai chiếc trực thăng vũ trang xuất hiện, tới trước trận địa, chúng như bay chậm lại, gió cánh quạt làm cây cối rung lắc điên đảo, bụi bay mù trời. Những nòng súng AK chầm chậm rê theo hai chiếc cán gáo, chỉ cần nhấn cò là chúng bốc cháy, nhưng Chiến yêu cầu các chiến sĩ giữ bí mật. Cua một vòng hẹp, xả vào loạt đạn 20 ly thị uy rồi hai chiếc trực thăng bay về phía Suông Chúp, bỏ lại sau tiếng động cơ rời rạc. Từ tổ 1, Tiểu đội phó Lưu Đình Chiến trở về vị trí chỉ huy chiến đấu. Giây phút chờ đợi thật căng thẳng, khi những tên địch đi đầu vừa tới điểm xạ kích thuận lợi nhất, Chiến hạ lệnh bắn. Từ những góc khuất, bụi cây, bờ đất các loại đạn bay ra tạo thành tấm lưới lửa chụp lấy đám lính đang hùng hổ như đi vào chỗ không người. Bị đánh bất ngờ, nhiều tên chết tại chỗ, số bị thương dạt lại phía sau gọi phi pháo bắn cấp tập vào trận địa ta. Đạn nổ phía trước, phía sau tiền duyên, cây cối bị chém đổ ngổn ngang, mặt đất bị cày xới tung lên dập xuống. Một quả đạn pháo rơi trúng hầm, hai chiến sĩ hy sinh. Tranh thủ lúc pháo ngừng, Chiến động viên anh em củng cố hầm hào trận địa chờ địch.
Ngay lúc đó từ phía sân bay dã chiến, một tốp ba chiếc M-113 xuất hiện. Điều đấy cho thấy, địch vẫn không từ bỏ ý đồ cướp kho đạn của ta. Bây giờ bước tiến của địch có vẻ thận trọng hơn. Theo lệnh Chiến, các chiến sĩ đợi địch đến gần mới nổ súng. Đã mất đi hai tay súng, lực lượng ta càng mỏng hơn, nhưng không ai tỏ ra nao núng, quyết tâm giữ chân địch cho đơn vị phân tán cất giấu hàng an toàn. Lại những giây phút căng thẳng trôi qua, bám theo những chiếc “lô cốt di động”, bộ binh địch tràn lên, tốp trước, tốp sau. Mũ sắt nhấp nhô, lóe sáng bắt ánh sáng mặt trời. Trong khi đó tại ngã ba đường 7 Suông Chúp, Trung đội 4, Đại đội 1 do Đại đội phó Phạm Thanh Xuân chỉ huy vừa đẩy lui nhiều đợt tấn công của bọn lính tiểu đoàn 3, chiến đoàn 8 địch, bắn cháy một máy bay trực thăng bằng loạt súng AK, giữ vững trận địa.
Những người lính vừa buông tay thồ đã chiến đấu một cách ngoan cường, mưu trí cầm chân lực lượng lớn địch, bảo vệ mục tiêu được giao suốt nhiều giờ đồng hồ. Chiến công của đơn vị bạn có sức cổ vũ Chiến và các chiến sĩ Tiểu đội 2. Ba chiếc M-113 dừng lại trước tiền duyên, các cỡ súng trên xe vãi đạn như mưa về phía trận địa ta. Từng mảng chiến hào, công sự bị sạt lở, đất đá bay mù trời. Để chế áp tinh thần đối phương, trực thăng địch bay ngang, cắt dọc phóng rốc-két điên cuồng, nhưng không có một tiếng súng bắn trả. Trận địa Tiểu đội 2 vẫn im lặng. Chính điều đó làm bọn địch hí hửng, chúng tưởng tất cả đều đã bị tiêu diệt, giờ là lúc dồn quân lên “thu dọn chiến trường”. Quả thực, với sức công phá dữ dội của bom đạn tập trung vào một điểm chừng mươi mét vuông, khó có gì có thể tồn tại được. Nhưng thực tế lại hoàn toàn không như vậy. Khi những chiếc xe bọc thép dẫn quân bò lên, Tiểu đội phó Chiến như quên cả vết thương do mảnh rốc-két đang rỉ máu nhức nhối trên cánh tay. Anh nhìn những quả đạn B-40, đã lắp vào súng trên vai đồng đội, rồi lại nhìn những khối thép đang tiến gần tới trước mặt như ước lượng khoảng cách. Chợt anh dằn giọng “bắn”, hai quả đạn vút đi, trong chớp mắt, hai chiếc M-113 biến thành hai bừng lửa. Ngọn lửa nhanh chóng bốc cao, tiếng la hét thất thanh từ phía ấy dội lại. Chiếc xe đi sau cùng vội quay đầu tháo chạy. Đạn cối 60 ly chớp lửa đuổi theo. Bọn địch lại dồn nhau về sân bay dã chiến củng cố đội hình, nhờ phi pháo hỗ trợ.
Khi đơn vị bạn đã sơ tán, cất giấu xong kho đạn, tiểu đội của Chiến cũng được lệnh rút đi. Cuộc hành quân mà quân đội Sài Gòn đặt cho cái tên khá ngạo mạn “Toàn thắng 1-71” vào vùng Đông Bắc Cam-pu-chia đã bị các đơn vị của Tiểu đoàn vận tải xe thồ 49 và một đơn vị của Sư đoàn 7, chủ lực Miền đánh cho thất bại thảm hại.