Tôi gặp Trùng Khánh tại trại viết văn do Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng miền Đông Nam Bộ (B2) tổ chức cuối năm 1974. Rừng Lộc Ninh dạo ấy đang là mùa khô. Những con suối cạn trơ đáy, những đám rừng tạp xen giữa những lô cao su qua sáu tháng mùa mưa được tưới đẫm, đã bắt đầu rụng lá. Trùng Khánh khi ấy đang là phóng viên Báo Quân khu 8, chiến trường quen thuộc của anh là các tỉnh: Long An, Mỹ Tho, Kiến Phong, Kiến Tường… Viết văn chưa nhiều chỉ mới vài ba bài bút ký, nhưng vì cần có một cây bút “nằm vùng” phản ánh tình hình chiến sự nóng hổi đã, đang và sắp diễn ra nên Thủ trưởng Cục Chính trị và các anh phụ trách Tạp chí đã chọn anh. Ngày đầu gặp gỡ, tôi cứ tưởng Trùng Khánh không phải dân Bắc, từ giọng nói đến sinh hoạt, đều rất Nam Bộ. Hóa ra không phải, anh và tôi cùng quê, con sông Yên hiền hòa chảy giữa hai người, tôi bờ nam, anh bờ bắc, xã Quảng Chính, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, một vùng nổi tiếng ác liệt trong chiến tranh phá hoại của Mỹ. Là giáo viên, anh đã có một gia đình nhỏ yên ấm, nhưng khi đất nước cần, Trùng Khánh xung phong nhập ngũ và lên đường đi chiến đấu trước cả tôi. Cho tới khi tôi gặp, anh đã “tác chiến” trên mặt trận này mấy năm rồi. Tính tình xởi lởi, căn nhà hầm anh ở chẳng mấy khi vắng tiếng người chuyện trò, tán gẫu. Nghe Trùng Khánh kể, tôi hiểu anh là một nhà báo xông xáo, không chỉ lội khắp vùng đất Quân khu 8 mà nhiều khi anh còn “lấn sân” sang địa bàn Quân khu 9, cứ nơi nào chiến trận xảy ra là anh có mặt. Anh cho rằng, không nên tự đặt ra “biên giới” với một người làm báo. Anh viết về bộ đội, nhân dân, những tấm gương sáng trong chiến đấu, xây dựng thôn ấp, dù đó là ở Mỹ Tho, Kiến Tường hay An Giang, Sa Đéc, v.v.. Nhà báo chiến trường là một nghề nguy hiểm, nhưng những bài viết của Trùng Khánh bao giờ cũng đảm bảo hai yếu tố then chốt, đó là sự trung thực và tính thời sự. Để lăn lộn được trong dân, anh phải tập ăn, tập nói, sinh hoạt theo cách của người Nam Bộ, và thực sự anh đã là người thân của bà con cô bác vùng sông nước miền Nam. Khi ra chiến trường anh có các chiến sĩ yêu quý bảo vệ, khi ở phía sau anh được nhân dân chở che đùm bọc.
Trùng Khánh kể:
Đầu những năm bảy mươi, vùng chiến trường Đồng bằng sông Cửu Long ta gặp rất nhiều khó khăn. Được Mỹ hỗ trợ, quân đội Sài Gòn liên tục mở những đợt càn quét, khủng bố. Đường tiếp vận trên biển, trên bộ qua nẻo Cam-pu-chia từ miền Bắc vào bị chặt đứt. Nhiều đơn vị quân ta phải tạm dạt sang đất bạn Cam-pu-chia chờ thời cơ, tuy nhiên ở đây đó khắp vùng châu thổ chiến trận vẫn nổ ra. Cần phải có bài viết kịp thời động viên tinh thần bộ đội, ở hoàn cảnh thiếu thốn lương thực, súng đạn vẫn duy trì nhịp độ tấn công gặt hái thắng lợi.
Trong một chuyến đi lấy tài liệu viết bài, đêm đó Trùng Khánh được giao liên đưa đường từ bờ nam sang bờ bắc sông Tiền. Ra trận có trong tay khẩu AK hoặc tiểu liên cực nhanh chiến lợi phẩm thì rất yên tâm, nhưng Trùng Khánh là nhà báo, chỉ được trang bị khẩu K54 và một quả “da láng” (lựu đạn Mỹ), nên nhiều lúc nghĩ cũng thấy “lạnh sống lưng”. Con sông Tiền mùa nước nổi nở phình ra, dòng chảy cuồn cuộn, như muốn gây thêm khó khăn cho các chiến sĩ. Chẳng những thế, giang thuyền tuần tra của địch xuôi ngược liên tục và không theo một quy luật nào cả. Quần áo, sổ ghi chép, tài liệu cho vào mảnh áo mưa buộc túm làm phao bơi. Tốp vượt sông có ba người, khoảng cách người nọ người kia chừng chục mét. Hai lần trước không thành, đến lần thứ ba khi chiếc giang thuyền vừa rẽ sóng lướt qua, họ nhanh chóng tiến ra giữa sông.
Đêm tối như bưng lấy mắt, mỗi người đội một cụm lục bình ngụy trang nhằm bờ bên kia bơi sang. Khi hai người đi trước vừa tới nơi, bỗng đèn pha quét sáng, đạn từ chỗ mật phục của địch trên bờ bay ra như đàn đom đóm. Ngay loạt đầu, người chiến sĩ giao liên và anh cán bộ tuyên huấn của Tỉnh đội Kiến Tường đã hy sinh. Bám cách sau họ chừng chục mét, Trùng Khánh vội tách khỏi dè lục bình, lặn xuôi theo dòng nước, đạn ghim quanh người, may không có viên nào tìm đến anh. Chui vào một đám cỏ lác, đợi cho địch rút đi, anh lần đường tìm vào trong ấp, đến gọi cửa một nhà quen. Địa bàn này Trùng Khánh không xa lạ, anh đã nhiều lần “nằm ổ” ở đây, được cô bác coi như người thân. Biết Trùng Khánh đang gặp nguy hiểm, chú Sáu Hậu vội đưa anh ra giấu ngoài bưng, ban ngày chú giả vờ đi làm đồng để tiếp tế cơm nước và canh chừng địch. Tối hôm sau anh mới tới được đơn vị. Nhưng thót tim nhất là lần ở nhà ông Tám “cá lóc”. Một tốp lính bảo an đi tuần tra, đột nhiên nó rẽ vào nhà ông Tám kêu nướng mấy con lóc khô nhậu. Mọi khi ngày nào cũng đi qua nhưng chưa bao giờ nó nhìn vào chứ đừng nói bước chân vô ngõ. Tình huống ngoài tính toán. Để nó ngồi lâu rất dễ bị lộ, ông Tám phải đuổi chúng đi bằng một chai đế và bốn con khô, rồi ông cũng giả vờ xách cuốc ra đồng. Nằm trên cót lúa, Trùng Khánh đã chuẩn bị tinh thần cho một trận chiến không cân sức nếu bọn địch phát hiện ra anh. Với khẩu K54 và trái “da láng” ít ra anh cũng tiêu diệt được mấy tên trước lúc bị chúng bắn hạ. Tuy nhiên, đấy chỉ là những tình huống điển hình khi anh ở trong dân.
Có thể nói, mỗi chuyến đi viết bài của Trùng Khánh là một thử thách, không chỉ ở sự ác liệt của bom đạn, mà còn cả áp lực lên trí não, thần kinh. Những bài viết của anh vì thế luôn mang dấu ấn của một người chiến sĩ xung kích trên trận tuyến. Nói cách khác, anh viết với tâm thế của người trong cuộc, đã từng nhiều phen sống chết với quân địch. Không được đào tạo bài bản, nhưng tay bút của anh chẳng vì thế mà kém phần sắc sảo. Trùng Khánh vẫn bảo vui sướng nhất là khi xuống đơn vị thấy anh em chiến sĩ chuyền tay nhau đọc những bài viết của mình. Tôi hỏi: “Có khi nào anh bị chết hụt chưa?”. Không do dự Trùng Khánh trả lời: “Chuyện ấy như cơm bữa, nói thật không được anh em, cô bác bảo vệ, chắc mình xanh cỏ lâu rồi, đâu còn có dịp ngồi đây nữa. Lần gần nhất theo đơn vị K5 đánh tiểu khu Vàm Cái Lớn. Tưởng dễ ăn, không ngờ do chủ quan, đánh giá thấp khả năng địch nên không dứt điểm được. Quân ta thương vong nhiều, chưa rút hết lực lượng ra ngoài thì trời sáng. Mình và mấy chiến sĩ đi sau, khi gần tới rừng tràm thì bị trực thăng phát hiện. Từ xa nó nhào tới, đạn vãi như mưa. Mình nằm ép sau mô đất, cách mấy mét có người bị thương, máu phun đỏ vạt cỏ. Nghĩ, chắc chuyến này mình không thoát được, có sao thì cũng vui vẻ chấp nhận. Chợt nghe tiếng quát “anh nhà báo”, và một bàn tay khỏe mạnh, rắn chắc nắm vai mình lôi tuột xuống mương nước gần đó rồi nằm đè lên. Đúng lúc chiếc trực thăng vòng trở lại, một loạt đạn 20 ly xới tung chỗ đất mình vừa rời đi, thật hú vía”. Rồi Trùng Khánh kết thúc câu chuyện: “Nếu không được anh em đơn vị và cô bác bao bọc, mình không có cơ hội sống đến hôm nay. Suốt đời mình mang ơn họ, chính họ đã làm nên những bài báo của mình”.
Với vốn sống phong phú như vậy, lần này về trại viết, Trùng Khánh đem theo câu chuyện về một cô gái của vùng đất Kiến Phong. Bài bút ký của anh với những chi tiết sống động, tuồng như anh không viết văn mà chân thực kể lại câu chuyện tai nghe mắt thấy. Có hai trung đội lính bảo an đóng đồn ở một ấp có tên Bàu Cá thuộc tỉnh Kiến Phong. Khi bộ đội ta tiến công, địch chống cự chỉ được vài chục phút rồi rút chạy. Các chiến sĩ truy kích, nhưng họ đã bị bắn lén từ phía sau. Trong lúc tranh tối tranh sáng, không thể xác định được những viên đạn kia được bắn ra từ đâu, nhưng đã có người thiệt mạng. Bàu Cá được bộ đội ta gọi là “ấp hai mặt”, ở đây đa phần các gia đình đều có chồng hoặc con tham gia ngụy quân, ngụy quyền. Hai lần ta tổ chức đánh đồn bảo an đều xảy ra hiện tượng bị bắn lén từ phía sau. Thủ phạm của những phát súng chết người ấy là người thế nào, đó là câu hỏi cần được giải đáp khi quân ta đã san bằng được đồn Bàu Cá. Nếu không tìm ra, tình hình an ninh nơi này còn phức tạp. Trưa ấy có một cô gái trẻ dáng vẻ cảnh giác, nhìn trước ngó sau tìm đến đồng chí đại đội phó đơn vị đang chỉ huy chống địch lấn chiếm vùng giải phóng sau Hiệp định Pa-ri tại ấp Bàu Cá. Út Huệ (tên cô gái) cho biết trong ấp có một số phần tử hai mặt, bên ngoài thì tỏ vẻ ủng hộ cách mạng, nhưng thực chất lại ra sức chống đối, những phát súng bắn lén đấy chính là của họ. Phải nuôi mẹ già, lại thân cô thế cô, dù cảm tình với cách mạng, nhưng Út Huệ không thể công khai, chỉ mặt những kẻ đã gây tội ác, vì khi bộ đội chuyển đi, cô sẽ bị trả thù, nhưng cô đã có cách, miễn là “các anh phải làm như thật”. Càng tạo được niềm tin cho mọi người dân trong ấp, sự an toàn của mẹ con cô càng cao. Theo “kịch bản” của Út Huệ, sáng ấy ba chiến sĩ xông vào nhà bắt trói cô, họ ra tay đánh đập, yêu cầu phải khai báo những phần tử chống lại Quân giải phóng đang nằm ém tại địa bàn. Những trận đòn không chút nương tay, rồi những tiếng kêu la đau đớn, lời phân trần van xin tha tội chết… tất cả diễn ra trước mắt mọi người một cách hoàn hảo đến mức ai cũng thấy xót thương cho “con nhỏ”. Cuối cùng như thể không chịu được nữa, cô gái buộc phải “đầu hàng”, dẫn các chiến sĩ súng ống kè kè đến gõ cửa những tên ác ôn giấu mặt. Họ đã tịch thu được gần chục khẩu súng, lựu đạn, đó là những vật chứng chứng minh âm mưu chống lại chính quyền cách mạng...
Bài viết của Trùng Khánh đã gây xúc động mạnh cho anh em trại viết văn. Mới hay người dân Nam Bộ có những cách đánh giặc rất phong phú. Nghề làm báo trao cho anh cơ hội đi nhiều, hiểu rộng, nhất là ở một chiến trường đặc thù như Đồng bằng sông Cửu Long. Hôm kết thúc trại cũng là lúc tiếng súng trên khắp các chiến trường, từ Trị Thiên, Khu 5 vào miền Đông, đến Khu 8, Khu 9, đã rền vang, một chiến dịch lớn sắp bắt đầu. Suốt đêm ấy Trùng Khánh không sao ngủ được, anh chỉ mong trời chóng sáng để trở về cơ quan, ở đấy, mọi người cũng đang chờ anh. Anh nói với tôi rằng bao nhiêu mùa chiến dịch anh đều có mặt, và giờ đây anh cũng không thể thiếu vắng trong những ngày sôi động sắp tới. Và chúng tôi đã hẹn nhau gặp lại. Nhưng thật xót xa, trưa 30 tháng Tư, trong không khí người dân miền Nam và cả nước mừng vui chiến thắng, từ Sài Gòn tôi nhận được tin nhà báo Trùng Khánh đã hy sinh khi bám theo đơn vị tiến công vào thị xã Mỹ Tho, ngày cuối cùng chiến dịch. Tôi lặng người đi, như có bàn tay thô bạo bóp mạnh tim mình. Tôi bỗng nhớ tới những bút ký, bài báo ngồn ngộn thông tin nóng hổi của quân dân ta trên chiến trường, thể hiện tinh thần lăn xả, dấn thân vì nghề nghiệp của một cây bút, chiến sĩ. Anh ngã xuống ở một thời khắc lịch sử, khi chỉ một tầm tay thôi là đất nước bước sang trang mới, non sông bờ cõi sẽ liền một dải, Bắc Nam sum họp một nhà. Cha sẽ gặp lại con, vợ gặp lại chồng, gia đình đoàn tụ trong niềm vui hạnh phúc vô bờ. Cùng với bao người chiến sĩ, anh đã hiến dâng cuộc đời, hạnh phúc của mình cho bình minh dân tộc.