• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Axit và Kiềm trong thực dưỡng
  3. Trang 12

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • Sau

Chương VIAxit và Kiềm trong đời sống

1. Nhiễm axit

Hiện tượng nhiễm axit là khuynh hướng cơ thể quá thiên về tính axit, thường xuất hiện trong một số bệnh nhất định. Axit luôn luôn phát sinh trong cơ thể song nó thường được đưa ra ngoài thông qua các chất bài tiết.

Có một số điều kiện ảnh hưởng tới quá trình tiêu hóa làm thúc đẩy sự phát triển của hiện tượng nhiễm axit mà nguyên nhân là do lượng axit sinh ra quá nhiều hoặc do sự thất thoát các chất kiềm qua đường ruột. Điều này xảy ra khi cơ thể bị mất một lượng thể dịch lớn do nôn hoặc tiêu chảy. Cách điều trị là bù ngay lượng nước bị mất và ngăn cản việc sản sinh các chất axit bằng cách tiếp thêm nước và muối. Phương pháp thực dưỡng khuyến cáo sử dụng các đồ uống sau đây để điều trị nôn hoặc tiêu chảy:

1. Sho-ban (gồm tương đậu nành và trà cọng bancha)

2. Mận muối, gừng, tương đậu nành, trà bancha

3. Súp rong biển

4. Súp miso với rong wakame

5. Nước kuzu, tương đậu nành, mận muối, trà bancha

Tiểu đường là một trong những căn bệnh gây ra nhiễm axit phổ biến nhất. Ở người mắc bệnh tiểu đường, cơ thể không có khả năng sử dụng đường glucose, vì thế các chất béo không được đốt cháy hoàn toàn và sinh ra các axit. Nếu trong máu không có đủ các chất tạo kiềm, lượng axit này sẽ bị tích lũy trong cơ thể.

Nhiễm axit cũng phát triển ở một số bệnh liên quan đến thận, song mức độ của nó không nguy cấp như trong các bệnh liên quan đến tiểu đường. Sản sinh axit dư thừa trong dạ dày cũng là nguyên nhân gây ra nhiễm axit. Đây là hậu quả của việc ăn quá nhiều thịt hoặc ngũ cốc tinh luyện; và buông thả trong việc dùng rượu, thuốc lá... Các ổ loét trong dạ dày thường có mối liên quan tới sự dư thừa axit.

Phương pháp thực dưỡng khuyến cáo nên dùng một số thực phẩm sau trong trường hợp cơ thể bị dư thừa axit do ăn quá nhiều chế phẩm động vật, ngũ cốc hoặc thực phẩm nhiều dầu mỡ:

1. Súp miso và rong wakame

2. Cơm với xích tiểu đậu

3. Củ cải trắng, dưa chuột, dưa bắp cải muối

4. Rau chân vịt luộc

5. Củ cải bào

6. Không ăn chế phẩm động vật, không ăn đường

Các nhà dinh dưỡng phương Tây khuyên dùng các loại quả chua như một phương thuốc tự nhiên để điều trị nhiễm axit; cách này có hiệu quả trong trường hợp nguồn gốc nhiễm axit là do tiêu thụ quá nhiều chế phẩm động vật.

Tác hại đáng kể nhất của nhiễm axit là sự suy sụp của hệ thống thần kinh. Khi độ pH trong máu giảm xuống dưới 7,0, hệ thần kinh sẽ bị suy sụp tới mức khiến người bệnh trước hết trở nên mất phương hướng và cuối cùng là rơi vào hôn mê. Vì thế, những bệnh nhân tử vong do nhiễm axit tiểu đường, nhiễm axit niệu quản hoặc các nguyên nhân khác gây axit hóa cơ thể thường qua đời trong trạng thái hôn mê. Khi cơ thể bị nhiễm axit, nồng độ ion hiđro (H+) cao sẽ khiến hoạt động hô hấp diễn ra nhanh và sâu hơn. Vì thế, một trong những dấu hiệu để chẩn đoán nhiễm axit chính là sự tăng hô hấp của phổi (thở gấp). Tuy nhiên, vẫn có một loại nhiễm axit khác được biểu hiện dưới dạng thở chậm: nó làm giảm lượng khí cacbonic được thải ra và do đó làm tích lũy thêm axit cacbonic trong máu.

Với trường hợp cơ thể bị nhiễm axit do bệnh tiểu đường, các vấn đề về thận, và các ổ loét, người bệnh cần loại bỏ chế phẩm động vật và đường ra khỏi chế độ ăn vì chúng chính là thủ phạm lớn nhất. Thay vào đó, hãy ăn chủ yếu là ngũ cốc nấu chín và rau với một chút muối, tương đậu nành và miso.

Về điều trị bên ngoài, có thể giã nát gừng rồi trộn với cao làm từ khoai sọ (albi plaster hay green plaster) sau đó đắp ngoài da ở vùng thận để cải thiện chức năng của thận. (Để biết về cách điều trị này, xin hãy đọc cuốn Hướng dẫn thực hành y học thực dưỡng Viễn Đông của George Oshawa).

2. Nhiễm kiềm

Ngược với nhiễm axit là nhiễm kiềm. Theo Guyton trong cuốn Sinh lý học y khoa:

Nhiễm kiềm chuyển hóa gần như không xuất hiện thường xuyên như nhiễm axit chuyển hóa. Nguyên nhân phổ biến nhất là do việc dùng quá nhiều các loại kiềm dược, như muối natri bicacbonat trong điều trị viêm loét dạ dày. Tuy nhiên, hãn hữu cũng có trường hợp người bệnh bị nhiễm kiềm do nôn quá nhiều các chất trong dạ dày nhưng lại không nôn ra các chất trong hệ thống dạ dày-ruột ở vùng thấp hơn. Khi đó, họ sẽ bị mất quá nhiều axit hiđro cloric được tiết ra từ niêm mạc dạ dày, hậu quả là thất thoát axit trong dịch ngoại bào và từ đó phát sinh tình trạng nhiễm kiềm chuyển hóa...

Tác hại lớn nhất của nhiễm kiềm đối với cơ thể là làm cho hệ thần kinh trở nên cực kỳ nhạy cảm. Hậu quả này xuất hiện cả ở hệ thần kinh trung ương lẫn các dây thần kinh ngoại biên, song thường thì thứ tự chịu tác động sẽ đi từ thần kinh ngoại biên rồi mới đến hệ thần kinh trung ương. Các dây thần kinh trở nên dễ bị kích động tới mức ngay cả khi không bị thích bởi những yếu tố kích thích thông thường, chúng vẫn tự động hưng phấn lặp đi lặp lại. Hậu quả là các cơ bắp bị rơi vào giai đoạn tetany, tức là trạng thái co cứng. Thông thường, hiện tượng tetany này đầu tiên sẽ xuất hiện ở cơ cánh tay rồi sau đó lan nhanh tới cơ mặt và cuối cùng lan ra toàn cơ thể. Bệnh nhân nhiễm kiềm có thể chết do bị co cơ hô hấp...

Chỉ trong một số ít trường hợp, những người bị nhiễm kiềm mới phát triển các triệu chứng nguy cấp cho thấy sự nhạy cảm quá mức của hệ thần kinh trung ương. Những triệu chứng này có thể biểu hiện khá rõ, như trạng thái lo âu cực độ, hoặc những cơn co giật đối với những người mẫn cảm. Chẳng hạn, ở những người có khuynh hướng dễ bị động kinh, một việc đơn giản như thở quá mức cũng có thể khiến họ bị lên cơn.

3. Dược phẩm axit là gì?

Thông thường, các thuốc gây ảo giác đều được gọi là “axit”. Liệu chúng có thực sự là axit không? Tên gọi của chúng đã nói lên điều đó: LSD (lysergic acid diethylamide), mescaline (3,4,5 - trimethosyphenethylamine), và STP (2,5 - dimethoxy - 4 methyl amphetamine) đều là axit; chúng cho đi các ion hiđro (H+). Tuy nhiên, như thế không có nghĩa chúng sản sinh ra axit trong cơ thể. Nếu không được tổng hợp, những loại thuốc này lại thuộc họ alkaloid.

Theo cuốn Bách khoa toàn thư của Collier:

Thuật ngữ “alkaloid”, nghĩa là giống kiềm, được W. Meissner sử dụng lần đầu tiên vào năm 1821. Pierre Joseph Pelletier, người phát hiện ra thuốc ký ninh (quinine) vào năm 1820, ban đầu dùng hậu tố “-ine” làm đuôi phân biệt cho tên của các chất thuộc họ alkaloid... Cách thêm đuôi “-in” này của tiếng Đức vẫn được lưu giữ trong tên của một số chất alkaloid như “heroin” hay “stypticin”. Hầu hết các alkaloid đều có tên gọi được đặt theo tên khoa học của loại cây tạo ra chúng (như thế, aconitine được đặt theo tên chủng loài Aconitum), theo tên gọi địa phương của loại cây hoặc sản phẩm (theo cách này, ký ninh (quinine) có nguồn gốc từ từ “quina” trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “cây canh ky na” (cinchona), còn ergonovine có nguồn gốc từ từ “ergot” trong tiếng Pháp, nghĩa là “cựa lúa mạch”), theo tính chất sinh lý học của chúng (moóc-phin (morphine), do tính chất gây mê của nó, được đặt theo tên của vị thần giấc ngủ Latinh, Morpheus), hoặc theo tên của một người nổi tiếng (pelletierine được đặt theo tên của nhà hóa học Pelletier).

Theo Bách khoa toàn thư Britannica, các alkaloid “... dễ nhận biết chủ yếu nhờ hoạt tính sinh lý học của chúng; nhiều chất có lịch sử lâu đời được sử dụng như chất độc, ma túy, chất gây ảo giác và các tác nhân chữa bệnh. Nhìn chung, các alkaloid là các chất ba zơ hay kiềm – tức là chúng trung hòa axit; các phân tử của chúng chứa chủ yếu là các nguyên tử các-bon, hiđro và ni tơ – nguồn tạo nên đặc tính ba zơ của chúng.”

Nguyên nhân khiến các dược phẩm alkaloid được coi là kiềm là vì chúng chứa ni tơ (N), một nguyên tố tạo kiềm. Vậy thì tại sao sau khi được tổng hợp chúng lại không phải là kiềm? Sau đây là kết luận của riêng tôi, mặc dù tôi chưa tìm thấy một báo cáo nào viết về vấn đề này. Nguyên nhân là bởi trong các alkaloid tự nhiên không chỉ có nitơ mà còn có các nguyên tố tạo kiềm khác như K, Na, Ca, và Mg. Tuy nhiên, trong các alkaloid tổng hợp, các nguyên tố này lại bị mất đi. Theo quan điểm của tôi, các nguyên tố K, Na, Ca và Mg chính là yếu tố làm nên tính kiềm của các alkaloid.

Cũng theo cuốn Bách khoa toàn thư Britannica:

Tác dụng sinh lý học của các alkaloid đóng vai trò quan trọng không chỉ trong y tế mà còn cả trong nông nghiệp và hóa học pháp y. Nghiện ma túy và tình trạng sử dụng các alkaloid làm chất gây ảo giác hiện nay đang là các vấn nạn xã hội lớn. Trong y tế, các alkaloid được sử dụng như chất gây nghiện, chất giảm đau; thuốc sốt rét; thuốc gây tê cục bộ; chất kích thích tim mạch, tử cung và hô hấp; tác nhân tăng huyết áp; làm đồng tử giãn nở; hoặc làm thư giãn cơ xương...

Nhiều alkaloid đóng vai trò quan trọng trong y tế bởi đôi lúc chúng gây ngộ độc cho người và vật nuôi.

[Có thể kể đến cây kỳ nham, cà, và táo gai. Các loại cây có độc tính này, và cả khoai tây, đều thuộc họ cà] Một ví dụ khác là các alkaloid ergot, do một loại nấm (ergot) mọc trên các hạt ngũ cốc. Việc sử dụng chất này trong y tế là hợp pháp, song trước khi thực sự tìm ra nguyên nhân, thì việc ăn phải ngũ cốc có chứa nấm ergot vẫn được cho là nguồn cơn của nhiều căn bệnh trầm trọng (như nhiễm độc ergot).

Với các chất giảm đau, chúng ta có moóc-phin, codein và heroin (deacetyl moocphin). Nếu không có chúng, có lẽ nhiều chương trình truyền hình và nhiều bộ phim mà chúng ta đang xem hiện nay đã không được tạo ra.

Cuốn Britannica viết tiếp:

Alkaloid quinidine trong cây canh ky na là một chất kích thích tim mạch được sử dụng để điều chỉnh loạn nhịp tâm nhĩ (một trong các khoang tim), còn alkaloid trong cây canh ky na và cây ba gạc (rauwolfia) được sử dụng để điều chỉnh loạn nhịp tâm thất (khoang tim còn lại). Không có loại alkaloid nào được chấp nhận rộng rãi để dùng cho trường hợp suy tim xung huyết, là khi tim vẫn đập bình thường song không bơm đủ máu. Nhìn chung, một loại nguyên liệu khác, digitalis glycosides, là loại thuốc được lựa chọn cho dạng bệnh tim này...

Nhiều alkaloid ảnh hưởng tới đường hô hấp; tuy nhiên hầu như mọi alkaloid còn tạo thêm nhiều tác dụng khác và thường đều là những tác dụng không mong muốn. Chẳng hạn, atropine khi được dùng với liều vừa phải sẽ có tác dụng kích thích hô hấp ngay cả trong trường hợp suy hô hấp do moóc-phin, song nó cũng gây ra một số tác động lên não và khiến đồng tử mắt bị giãn nở...

Ergonovine, một alkaloid ergot, được sử dụng rộng rãi trong sản khoa nhằm làm giảm xuất huyết tử cung sau sinh nhờ tính năng chủ chốt của nó là làm co mạch máu. Ephedrine cũng là chất làm co mạch máu, và nhờ tác dụng đó, được sử dụng rộng rãi để giảm bớt cảm giác khó chịu của những cơn cảm lạnh thông thường, viêm xoang, sốt mùa hè và hen phế quản... Tuy cả ephedrine và atropine đều làm giãn đồng tử, song ephedrine không loại bỏ phản xạ ánh sáng và phản xạ điều tiết của mắt. Còn có rất nhiều chất gây giãn nở hữu ích khác, trong số đó, scopolamine là chất có công dụng đắc lực hơn cả. Cocain, một chất gây tê cục bộ tiềm năng, cũng là một chất gây giãn nở.

Nhiều alkaloid có tính năng gây tê cục bộ, trong đó một số không gây ra tác dụng phụ không mong muốn như khi sử dụng cocaine… Dù chưa bị thay thế hoàn toàn, song các thuốc gây tê cục bộ tổng hợp hiện đại với giá thành thấp hơn và tốt hơn hẳn cocaine đã thế chỗ phần lớn các alkaloid.

Cơ chế chức năng sinh lý học của các alkaloid được đề cập bên trên có thể được giải thích bởi nguyên tắc âm dương. Các alkaloid đó (kể cả những chất được tổng hợp) đều là những chất rất âm. Do mang tính âm, nên khi đi vào máu chúng kích thích các dây thần kinh giao cảm. Các dây thần kinh giao cảm sinh ra một loại hoóc-môn âm được gọi là noerpinephrine làm kích thích các cơ quan dương của cơ thể như tim, gan, thận và phổi. (Các chất kích thích âm làm giãn các cơ quan dương). Tuy nhiên, sự kích thích này lại làm co mạch như đã nói ở trên. Vì sao vậy? Trên thực tế, mạch máu không hề co lại – nó giãn theo chiều hướng vào trong – kết quả là tạo ra sự co rút. Bảng 21 cho thấy các chức năng trái ngược của các dây thần kinh đối giao cảm (dương) và giao cảm (âm). Dây thần kinh đối giao cảm (dương) có thể được kích thích bởi các loại thuốc dương (nếu có các loại thuốc như thế) và thực phẩm dương như miso, tương đậu nành, muối, v.v.. Dây thần kinh giao cảm (âm) có thể được kích thích bởi các loại thuốc âm (hầu hết các loại thuốc đều âm); các thực phẩm như trái cây, hầu hết các loại rau củ, gia vị, nước có ga, đường, mật ong, và kẹo; đồ uống có cồn, cà phê và trà.

Bảng 21. Tác dụng tự động lên các cơ quan khác nhau trong cơ thể1

a47

1 Hệ adrenergic: Các sợi thần kinh giao cảm và phó giao cảm bài tiết ra noradrenalin.

a48

1 Hệ adrenergic: Các sợi thần kinh giao cảm và phó giao cảm bài tiết ra noradrenalin.

Các alkaloid này âm tới mức chúng trung hòa lượng Na trong dịch ngoại bào của các dây thần kinh trung ương và thần kinh ngoại biên. Kết quả là, các dây thần kinh sẽ bị mất tính phân cực, luồng điện không được tạo ra và việc trao đổi thông tin bị dừng lại. Nhờ cơ chế này mà các alkaloid có tác dụng giảm đau, gây tê cục bộ, giãn cơ, và thậm chí gây ảo giác hoặc hưng phấn (giải phóng tâm trí khỏi sự căng thẳng). Các chất ma túy tổng hợp tạo ra các hiệu ứng trên song đồng thời chúng cũng khiến máu nhiễm axit. Ma túy tự nhiên ít gây tác dụng phụ hơn.

Ma túy, dù là tổng hợp hay tự nhiên, đều không những ảnh hưởng tới hệ thần kinh mà còn làm biến đổi chức năng não thông qua việc ngăn chặn hoạt động của serotonin. Tuy nhiên, cho đến nay khoa học vẫn chưa thể tìm ra cơ chế chính xác của hiện tượng này. Với ma túy tổng hợp, tác động này còn mạnh hơn nữa.

Từ quan điểm thực dưỡng, các thuốc gây ảo giác chứa cả các nguyên tố tạo kiềm mạnh và các nguyên tố tạo axit mạnh. Trong máu, các nguyên tố tạo kiềm luân chuyển theo hướng đi xuống còn các nguyên tố tạo axit luân chuyển theo hướng đi lên phía não; vì thế trong cơ thể, hai yếu tố tối quan trọng của trạng thái cân bằng bên trong bị phân tách. Nói cách khác, khi chịu tác động của tính kiềm, hệ thần kinh cảm giác trở nên hưng phấn và gửi nhiều kích thích tới não, song não lại bị ức chế bởi tính axit nên không thể tập hợp và đối chiếu các thông điệp được truyền đến. Kết quả là chúng ta rơi vào ảo giác.

Do các loại thuốc này có nồng độ axit cao, nên nếu sử dụng kéo dài hiển nhiên sẽ làm tổn thương não. Việc lạm dụng các loại thuốc trên có thể được ngăn chặn đơn giản bằng sự cắt giảm lượng đường và chế phẩm động vật (các thực phẩm tạo axit mạnh) nạp vào cơ thể vì chúng là nguyên nhân khiến chúng ta bị các loại thuốc trên hấp dẫn. (Đọc cuốn Hút thuốc lá, Marijuana và ma túy (Smoking, Marijuana and Drugs) của Oshawa, Aihara và Pulver)

4. Lời khuyên về chế độ ăn trong quá trình hồi phục các bệnh phát sinh do sử dụng ma túy

Những người đang gặp phải các vấn đề về tâm thần và thể chất do tác động của ma túy trước tiên phải gây dựng lại sức khỏe cho mình một cách thật khôn ngoan và kiên nhẫn, bởi không thể có phép màu nào để điều trị những tổn thương đó. Cứ mỗi khi tôi gặp một thanh niên đang phải chịu đựng những vấn đề về tâm thần và thể chất do sử dụng ma túy trong nhiều năm, tôi lại suy nghĩ và nghiên cứu cách chữa trị. Dưới đây là lời khuyên chân thành của tôi tới những ai đang mong muốn tái thiết lập sức khỏe và cuộc sống hạnh phúc cho mình.

Ma túy làm tổn thương hệ thực vật ruột. Vì thế, những người đã lạm dụng ma túy trong một thời gian dài không nên giới hạn chế độ ăn trong một khuôn khổ quá hẹp. (Mời đọc cuốn Thực dưỡng: Tấm vé dẫn tới sức khỏe và hạnh phúc(Macrobiotics: An Invitation to Health and Happiness) của George Oshawa). Dưa muối cám (rice bran pickle) và súp miso sẽ giúp xây dựng lại hệ thực vật ruột. Hãy ăn dưa muối cám nuka trong tất cả các bữa ăn, và ăn súp miso một lần mỗi ngày. (Xem cuốn Nấu ăn quanh năm hoặc Đạo trong nấu ăn để biết cách làm dưa muối cám.)

Những người có ruột yếu nên nhai kĩ, ăn ngũ cốc toàn phần, rau, rong biển, và các loại đậu – tất cả đều được nấu chín kỹ. Nên tránh ăn bánh mì, vì với những đường ruột nhạy cảm, tính “thô” của bánh mì sẽ trở thành “cứng” và khiến ruột bị khó chịu. Nhiều người bạn của tôi từng ăn nhiều đường hoặc sử dụng nhiều ma túy đã bị xuất huyết ruột khi ăn bánh mì. Với những người như vậy, sẽ tốt hơn nếu họ ăn ngũ cốc ở dạng mềm, chẳng hạn như mì gạo và chút súp nấu với rong biển. Hai loại rong biển của Nhật Bản là kombu và wakame đặc biệt tốt cho những đường ruột đã bị âm hóa bởi tính nhớt của chúng có tác dụng xoa dịu và chữa lành rất tốt đối với những đường ruột bị tổn thương. Bên cạnh đó, chúng còn cung cấp một lượng khoáng chất lớn giúp kiềm hóa máu. Tác dụng này đóng vai trò rất quan trọng bởi nhiều người sử dụng ma túy có khuynh hướng bị nhiễm axit mặc dù có vẻ như phản ứng đầu tiên của cơ thể sau khi dùng ma túy là tạo kiềm, song khi các cơ quan trong cơ thể bị kích thích cưỡng bức bởi ma túy, chúng sẽ sinh ra rất nhiều axit.

Ma túy giải phóng ra chất adrenalin hoặc các hoóc- môn thông qua việc kích thích tuyến thượng thận.

Các hoóc-môn ở vỏ não cùng adrenalin sẽ làm tăng lượng glucose trong máu khiến người dùng ma túy cảm thấy dồi dào năng lượng do quá trình đốt cháy glucose. Kết quả là một lượng axit lớn được sinh ra. Vì thế, sử dụng ma túy cũng giống như ăn đường, cả hai đều cần một lượng lớn khoáng chất để duy trì máu ở trạng thái kiềm. Trong trường hợp này, rong biển là lựa chọn tốt nhất.

Căn bệnh phổ biến thứ hai của những người sử dụng ma túy là chứng thận yếu, biểu hiện ở việc đi tiểu thường xuyên, bàng quang có vấn đề, phát ban, các vấn đề về da, mỏi lưng, mất cân bằng khoáng chất trong máu (khiến cơ thể vô cùng nhạy cảm mỗi khi họ ăn quá nhiều muối), và mất cân bằng hệ thần kinh tự chủ. Những người gặp phải vấn đề này phải thật thận trọng với lượng muối họ đưa vào cơ thể. Một bài thuốc rất tốt cho thận là chườm gừng vào xung quanh vị trí thận ở sau lưng, hoặc ăn hay uống nước đậu đen và xích tiểu đậu. Nên giảm uống nước song việc uống nước quá hạn chế cũng làm thận bị yếu đi.

Tuy nhiên, liệu pháp tốt nhất cho thận là hoạt động thật nhiều để cơ thể ra mồ hôi ít nhất một lần mỗi ngày. Nếu không hoạt động thể chất, việc tăng cường chức năng thận sẽ mất thời gian dài ngay cả khi người bệnh ăn theo chế độ thực dưỡng. Cách hoạt động tốt nhất là đi chân trần làm vườn.

Cuối cùng, vấn đề nan giải nhất mà những người dùng ma túy gặp phải là não trung gian, bộ phận kiểm soát sự cân bằng nội môi (nhiệt độ cơ thể, lượng oxy, nước, đường huyết...), bị suy yếu hoặc tổn thương. Não trung gian cũng là nơi liên kết giữa các hoạt động thể chất và các hoạt động tinh thần; bởi vậy, những người có khu vực này bị tổn thương sẽ bị giảm khả năng phối hợp giữa hai hoạt động trên. Chẳng hạn, người bệnh có thể hiểu hoặc phát biểu rất hay về chế độ ăn và những hành động cần thực hiện, song lại không thể làm theo đúng những gì họ đã nói. Tôi đã nhiều lần gặp những thanh niên như vậy. Họ trông có vẻ khỏe mạnh và sắc sảo song lại không thể thực hiện những điều họ vẫn thuyết giáo. Đối với họ, duy trì một chế độ ăn lâu dài là một việc khá khó khăn. Vì vậy, họ tiêu tốn thời gian cho đủ loại chế độ ăn khác nhau. Tuy nhiên, nhóm người này vẫn có thể tự cải thiện điều kiện cơ thể của mình nếu họ thực tâm mong muốn điều đó, dù rằng tốc độ tiến triển sẽ rất chậm. Hay nói cách khác, không ai có thể vãn hồi những tổn thương do lạm dụng ma túy nếu không có một ý chí tự xây dựng sức khỏe cho bản thân thật rõ ràng và kiên định. Để có được một ý chí tái thiết sức khỏe vững vàng, người bệnh cần biết rõ mức độ bệnh tật của mình. Bởi chừng nào người đó còn cho rằng mình vẫn ổn và khỏe mạnh, họ sẽ không thật sự mưu cầu sức khỏe dù cho mọi hành vi của họ vẫn thể hiện rằng họ đang thực hiện điều đó. Người đó quá ngu dốt, quá kiêu ngạo, hoặc những tổn thương của họ vẫn chưa đủ nghiêm trọng.

Thực dưỡng là một kỹ thuật hữu ích và thiết thực ngay cả với những căn bệnh do lạm dụng ma túy gây ra. Tuy nhiên, phương pháp này cũng bó tay nếu người bệnh không có lòng khiêm tốn và một khát vọng lớn lao hướng tới Bản thể Thực sự của mình. Bất kì ai muốn tuân theo thực dưỡng vì mục đích sức khỏe cũng đều phải cân nhắc tới việc trau dồi cả về mặt tinh thần.

5. Cảm giác mệt mỏi và tính axit

Tăng axit trong máu là một trong những nguyên nhân chính gây ra mệt mỏi. Làm việc quá sức, ăn quá nhiều (đặc biệt là ăn quá nhiều thực phẩm mang tính axit như thịt và ngũ cốc), táo bón, tiêu chảy, vấn đề về thận, và vấn đề về gan, tất cả đều khiến máu mang tính axit. Tình trạng nhiễm axit này của máu gây ra cảm giác mỏi mệt. Vì sao vậy?

Cacbon đioxit liên tục được hình thành trong cơ thể thông qua các quá trình chuyển hóa nội bào khác nhau. Cacbon trong thực phẩm chuyển hóa để kết hợp với oxy và tạo thành cacbon đioxit. Tiếp đó, lượng cacbon đioxit này sẽ khuếch tán vào dịch nội bào và máu, rồi được vận chuyển đến phổi, ở đó nó lại khuếch tán vào phế nang và được đưa ra ngoài qua quá trình hô hấp của phổi. Tuy nhiên, phải mất vài phút cacbon đioxit mới hoàn thành được chu trình đi từ các tế bào ra bầu không khí bên ngoài. Do không được thải loại tức thì, nên trung bình sẽ có khoảng 1,2 ml cacbon đioxit hòa tan thường xuyên lưu lại trong dịch ngoại bào. Lượng cacbon đioxit này kết hợp với nước tạo thành axit cacbonic (H2CO3) mang tính âm. Nếu lượng cacbon đioxit tăng, lượng axit cacbonic (âm) cũng sẽ tăng. Ion hiđro trong axit cacbonic tác động trực tiếp lên trung tâm hô hấp trong niêm mạc miệng (bộ phận kiểm soát việc thở) làm tăng tốc độ hô hấp (âm kích thích dương). Tuy nhiên, điều này chỉ đúng khi máu mang tính kiềm. Khi chúng ta làm việc quá sức, ăn quá nhiều thịt, hoặc máu không tuần hoàn tốt, lượng cacbon đioxit trong máu sẽ tăng quá nhiều làm tăng nồng độ axit trong máu (âm). Máu bị nhiễm axit sẽ làm tổn thương trung tâm hô hấp trong niêm mạc miệng, làm giảm nhịp thở. Nhịp thở giảm khiến lượng oxy được hít vào cũng bị giảm và kết quả là lượng oxy phục vụ cho quá trình chuyển hóa của tế bào cũng bị ít đi. Cảm giác mỏi mệt chính là hậu quả sau cùng.

Có nhiều cách khác nhau để điều trị chứng mệt mỏi tùy theo nguyên nhân gây bệnh:

1. Giảm ăn và nhai kỹ là điều quan trọng nhất trong việc điều trị mọi chứng mệt mỏi.

2. Cải thiện tuần hoàn máu bằng cách:

• Ngâm chân vào nước nóng hoặc chườm gừng vào chân.

• Tắm vòi hoa sen bằng nước nóng và lạnh luân phiên.

• Áp dụng kỹ thuật mát xa “Do-In”1

1 Một hình thức tự xoa bóp, bấm huyệt của Nhật Bản.

3. Chườm gừng quanh vùng thận.

4. Uống trà shoyu-bancha (sho-ban), ume- shobancha (mận muối, gừng, tương đậu nành, và trà bancha). Nếu loại trà này quá mặn, hãy uống trà mận cô đặc (plum concentrate tea hay còn gọi là chiết xuất bainiku ekisu).

5. Ăn thật nhiều xa lát, đặc biệt là xa lát rau xanh; ăn thêm dưa muối…

6. Luyện các bài tập thở. Ở phương Đông, các bài tập thở được xây dựng để trở thành phương thức điều trị chứng mệt mỏi và cải thiện sức khoẻ.

• Bài tập thở yoga:

Đứng thẳng và hít thở thật sâu. Nín thở và gập người xuống. Thở ra, sau đó vừa nâng phần thân trên lên về tư thế đứng thẳng ban đầu vừa nín thở. Gập chân lên xuống nhiều lần, và hít vào. Lặp lại bài tập này nhiều lần sẽ có tác dụng làm giảm cơn mệt.

• Bài tập thở theo Phật giáo (Chân Tông):

Ngồi trên sàn, lưng thẳng và hai chân duỗi thẳng. Nâng hai cánh tay lên song song với mặt đất. Hít vào rồi nín thở. Vươn toàn bộ phần thân trên về phía trước trong khi hai chân vẫn duỗi thẳng. Giữ tư thế này càng lâu càng tốt. Sau đó đưa thân trên về vị trí ban đầu và thở ra. Lặp lại bài tập nhiều lần.

Cả hai bài tập thở trên đều chữa chứng mệt mỏi rất hiệu quả vì làm giảm lượng cacbon đioxit trong phổi và trong máu. Việc giảm cacbon đioxit sẽ giúp máu trở nên kiềm hơn, làm tăng cường chuyển hóa trong tế bào và kích thích trung tâm hô hấp tăng cường hít thở.

7. Đi bộ hoặc bất kỳ bài tập nào khác, nếu được tập với lượng hợp lý, cũng rất tốt để điều trị những cơn mệt. Trong xã hội hiện đại, chúng ta có xu hướng ngồi quá nhiều và đôi chân không được vận động đủ. Tản bộ hoặc làm vườn vào buổi sáng sớm sẽ là bài tập tốt nhất, mang đến cho bạn một cơ thể không biết mệt mỏi và một cuộc sống tươi vui, lành mạnh.

6. Axit-kiềm và trạng thái tinh thần

Thể trạng axit làm ức chế hoạt động của các dây thần kinh còn thể trạng kiềm kích thích hoạt động của các dây thần kinh. Một người có máu mang tính kiềm sẽ có khả năng tốt trong suy nghĩ và hành động (quyết định), còn một người có máu mang tính axit sẽ không thể suy nghĩ thấu đáo hoặc hành động một cách nhanh chóng, rõ ràng và dứt khoát. Bởi vậy, việc luôn duy trì tính kiềm cho máu là rất quan trọng – không chỉ để có một cơ thể khỏe mạnh mà còn để có một tinh thần sáng suốt.

Chế độ ăn là một công cụ hữu hiệu để duy trì tính kiềm cho máu; tuy nhiên, kết quả sẽ không thể đến trong ngày một ngày hai mà phải mất một thời gian dài mới được thể hiện. Đã từ lâu, tôi tìm kiếm một phương cách nhanh chóng để chuyển đổi từ thể trạng axit sang thể trạng kiềm. Cuối cùng, tôi tìm ra một cách – thông qua những nghi lễ tôn giáo. Trong Thần Đạo (Shinto) của Nhật Bản, nghi lễ misogi được đặc biệt khuyến cáo thực hiện, theo đó bạn nên tắm bằng nước lạnh hoặc tắm trong một con sông, đứng dưới thác nước hoặc tắm biển. Một nhà hoạt động về sức khỏe đưa ra lời khuyên nên tắm bằng nước nóng và nước lạnh luân phiên. Một người bạn của tôi đã thực hiện việc này, và tôi nhận thấy anh trở nên khỏe hơn rất nhiều so với trước đó – cả về thể chất lẫn tinh thần. Vì thế, tôi bắt đầu tắm bằng nước lạnh sau khi tắm nước nóng hằng đêm, và ngay lập tức nhận thấy hiệu quả của nó. Tắm nước lạnh khiến tinh thần tôi phấn chấn cao độ và chức năng não được cải thiện. Nếu lúc đó tôi đang cảm thấy thèm ăn một món gì đó, như cá chẳng hạn, thì việc tắm nước lạnh sẽ ngay lập tức chặn đứng cơn thèm. Nó tạo ra một sức mạnh ý chí to lớn và khả năng phán đoán cao độ. Nguyên nhân của hiện tượng này nằm ở chỗ, việc tắm nước lạnh làm kiềm hóa máu, còn tắm nước nóng làm axit hóa máu.

Đó là một nghi lễ tốt đẹp. Đạo Công Giáo và các đạo Thiên Chúa Giáo khác có lễ rửa tội, còn Thần Đạo có lễ misogi. Nhờ khả năng kiềm hóa máu, những nghi lễ đó là cách tuyệt vời để cải thiện khả năng tư duy và nâng cao tinh thần.

Với bất kỳ ai đang gặp vấn đề trong cuộc sống hoặc gia đình; hoặc có quá nhiều căng thẳng; hoặc muốn cải thiện óc phán đoán – muốn có được một con mắt nhìn đời sáng suốt và đưa ra quyết định đúng đắn, tôi đều khuyên họ nên tắm nước lạnh.

Thời điểm tốt nhất để thực hiện việc này là vào nửa đêm hoặc sáng sớm. Bạn cần thực hiện liên tục trong khoảng mười ngày để hiệu quả cải thiện tư duy bắt đầu phát huy tác dụng.

Khi tắm nước lạnh, không được bắt đầu từ vùng đầu mà phải tắm từ chân lên và ở phía đằng trước trước, rồi đến vai phải, lưng, vai trái – theo chiều kim đồng hồ – rồi cuối cùng mới đến đầu. Những người yếu tim cần quan sát cơ thể thật cẩn trọng và thực hiện thật từ từ.

7. Ung thư và axit-kiềm

Alexis Carrel ngâm quả tim gà con vào một dung dịch kiềm và giữ cho nó “còn sống” trong hai mươi tám năm. Ông làm được điều này nhờ thay dung dịch ngâm hằng ngày và luôn duy trì một tỉ lệ pha nhất định giữa các nguyên tố để dung dịch đó luôn mang tính kiềm nhẹ. Bên cạnh đó, các phụ phẩm axit của quá trình chuyển hóa được loại bỏ thông qua việc thay mới dung dịch mỗi ngày. Khi Carrel ngừng thay mới dung dịch, quả tim gà bị chết.

Theo sinh lý học hiện đại, nguyên lý trên cũng đúng với trường hợp con người, như tôi đã đề cập ở các phần trước. Các tế bào trong cơ thể chúng ta được bao quanh bởi các chất dịch, và để duy trì sự sống, các chất dịch này cần mang tính kiềm nhẹ. Nếu chạy bộ hoặc tập những bài tập nặng, bạn sẽ bị thở dốc, mệt mỏi, và cứng cơ. Những hiện tượng đó là kết quả của sự sản sinh và tích lũy axit lactic, còn axit này lại là kết quả của quá trình đốt cháy glucose không hoàn toàn. Nói cách khác, khi tập các bài tập nặng, cơ thể sẽ không nhận đủ lượng oxy cần thiết để chuyển hóa glucose. Vào những thời điểm như vậy, độ pH của máu sẽ rơi vào khoảng từ 7,26 - 7,27 thay vì ở trong khoảng 7,3 - 7,4 thông thường. Lúc này máu bị nhiễm axit. Tình trạng nhiễm axit này sẽ được điều chỉnh nhờ hệ đệm của cơ thể – biến axit mạnh thành axit yếu, rồi cuối cùng thành cacbon đioxit (CO2) và đào thải ra ngoài trong mỗi nhịp thở ra của chu trình thở.

Nếu các dịch ngoại bào trong cơ thể, đặc biệt là máu, bị nhiễm axit, những biểu hiện về thể chất đầu tiên sẽ là mệt mỏi, dễ bị nhiễm lạnh,... Khi những chất dịch này nhiễm axit càng nặng, những biểu hiện về thể chất tiếp theo sẽ là những cơn đau và tổn thương như đau đầu, đau ngực, đau dạ dày... Theo Keiichi Morishita trong cuốn Sự thật bị che giấu về ung thư (Hidden Truth of Cancer), khi máu càng phát triển tính axit, hiển nhiên cơ thể sẽ đóng cặn lượng axit dư thừa này ở một số vùng nào đó nhằm giúp máu vẫn duy trì được trạng thái kiềm. Nếu xu hướng này tiếp diễn, những vùng đó sẽ ngày càng nhiễm axit nặng và một số tế bào sẽ chết; sau đó chính những tế bào đã chết này sẽ biến thành axit. Tuy nhiên, một số tế bào khác lại thích nghi với môi trường axit này. Nói cách khác, thay vì chết đi – như các tế bào thông thường khác khi sống trong môi trường axit – một số tế bào vẫn sống sót nhờ biến đổi thành những tế bào bất thường. Những tế bào bất thường này được gọi là các tế bào ác tính. Tế bào ác tính không hồi đáp lại các chức năng của não hoặc hồi đáp lại mã bộ nhớ ADN. Vì thế, chúng tăng trưởng không theo một hạn định hay trật tự nào. Đây chính là ung thư.

Tiêu thụ quá nhiều chất béo là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất gây ra tình trạng nhiễm axit của thể dịch. Do chất béo không hòa tan trong nước, nên nếu một người liên tục tiêu thụ các thực phẩm chứa nhiều chất béo, những mảnh chất béo không hòa tan sẽ trôi lơ lửng trong động mạch và tiến vào các mao mạch. Tại đây, chúng vón lại thành cục và chặn đường cung cấp oxy và dưỡng chất. Khi đường cung cấp oxy và dưỡng chất bị chặn, các tế bào nằm gần vùng mao mạch bị vón cục sẽ chết. Các tế bào chết này biến thành axit. Tình trạng nhiễm axit của thể dịch sẽ biến các tế bào thông thường thành tế bào ác tính như đã giải thích ở trên. Tiêu thụ quá nhiều chất béo là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới ung thư vú và ung thư đại tràng.

Tiêu thụ quá nhiều protein cũng khiến cơ thể bị nhiễm axit do lượng protein dư khi phân giải sẽ tạo ra nitơ urê máu. Lượng urê này khiến thận bài tiết quá nhiều nước và cùng với đó là sự thất thoát các khoáng chất tạo kiềm. Vì thế, tiêu thụ quá nhiều protein cũng khiến máu bị nhiễm axit.

Ngoài ra, một số thực phẩm khác cũng gây ra tình trạng nhiễm axit của thể dịch gồm có đường, gạo trắng, bột mỳ trắng, các phụ gia hóa chất trong thực phẩm, dược phẩm y tế, và ma túy tổng hợp. Tất cả các loại thực phẩm, dược phẩm và ma túy này đều tạo ra thể trạng axit theo hai cách. Một mặt, tất cả đều chứa các nguyên tố tạo axit và mặt khác, không một loại nào trong số các chất trên đóng góp thêm các nguyên tố tạo kiềm để cân bằng. Vì thế, chúng không những tạo ra axit mà còn sử dụng triệt để các nguyên tố tạo kiềm của cơ thể để trung hòa lượng axit do chúng tạo ra.

Các bệnh về sinh lý như yếu thận và táo bón cũng khiến thể dịch nhiễm axit. Cơ thể khi hoạt động luôn sản sinh ra các axit như axit sunphuric, axit axetic, và axit lactic. Khi thận yếu, các axit này sẽ không được đào thải và làm tăng lượng axit trong thể dịch. Còn với chứng táo bón, lượng phân thối rữa trong đại tràng cũng khiến cơ thể bị nhiễm axit.

Theo quan điểm của tôi, đây chính là điểm khởi đầu của ung thư đại tràng.

Vì sao trạng thái axit của thể dịch lại biến các tế bào bình thường thành ác tính? Môi trường axit trong dịch ngoại bào giết chết các tế bào thần kinh liên kết với não, còn môi trường axit trong dịch nội bào làm tổn thương nhân tế bào – bộ phận kiểm soát sự tăng trưởng của tế bào. Vì vậy, ung thư thường tiến triển theo các giai đoạn sau:

1. Tiêu thụ quá nhiều thực phẩm tạo axit, thực phẩm chứa chất béo, thực phẩm giàu protein, thực phẩm tinh luyện, các chất gây ung thư như nitrit, và các thực phẩm được xử lý hóa chất nói chung. Việc tầm soát bằng chụp phim X-quang ngay từ giai đoạn này cũng rất hữu ích.

2. Bị táo bón nhiều hơn.

3. Máu ngày càng nhiễm axit nặng hơn, làm giảm tế bào hồng cầu và tăng tế bào bạch cầu, tức giai đoạn đầu của bệnh ung thư máu (leukemia).

4. Dịch ngoại bào ngày càng nhiễm axit nặng hơn.

5. Dịch nội bào ngày càng nhiễm axit nặng hơn.

6. Các tế bào ác tính bắt đầu hình thành. Ðây là giai đoạn khởi phát của ung thư.

7. Tiếp tục tiêu thụ thêm nhiều thực phẩm âm.

Phải thực hiện xạ trị, hóa trị và điều trị bằng thuốc ở cấp độ cao. Đây là giai đoạn tăng sinh của ung thư.

Quan điểm trên của tôi về sự tiến triển của ung thư là kết luận đúc rút từ quá trình tìm tòi các công trình nghiên cứu về ung thư của các nhà khoa học. Tiến sĩ Yanagisawa đã quan sát máu của hai dạng bệnh nhân ung thư máu: 1. những người sống sót sau vụ thả bom hạt nhân ở Hiroshima, và 2. một ngư dân bị nhiễm xạ bom nguyên tử gần vụ thử bom nguyên tử đảo Bikini ở Thái Bình Dương. Ông nhận thấy máu của những người này đều có nồng độ ion magie và ion canxi thấp. Do cả canxi và magie đều là các nguyên tố tạo kiềm, nên tình trạng chứa ít các nguyên tố này cũng đồng nghĩa với việc cơ thể bị nhiễm axit. Trong cơ thể, 100ml huyết thanh sẽ chứa 10mg các tế bào hồng cầu. Bình thường, trong 100mg canxi sẽ có 60 mg ở dạng tinh thể và 40mg là các canxi ion trong dung dịch. Khi máu khỏe mạnh, tỉ lệ giữa canxi tinh thể và canxi ion là 6/4. Khi một người bị mệt hoặc ốm, lượng canxi ion sẽ giảm. Trong trường hợp các bệnh nhân ung thư máu, khi lượng canxi ion giảm xuống còn 15mg trong 100ml huyết thanh, người bệnh sẽ chết. (Theo cuốn Chế độ ăn lúa mì (Wheat Diet) của Fumimasa Yanagisawa).

Theo cuốn Xã hội tế bào (Cell Society) của tiến sĩ S. Okada, các tế bào ung thư phát triển tốt trong một dung dịch cấy được tạo thành từ các chất thải chuyển hóa của tế bào thông thường. Do các chất này đều mang tính axit, nên điều này có nghĩa là các tế bào ung thư thích môi trường axit.

Vì thế, để phòng chống sự hình thành ung thư hoặc để chặn đứng sự tăng trưởng của ung thư, chế độ ăn thực dưỡng khuyến cáo không ăn các thực phẩm tạo axit – đặc biệt là đường, các chế phẩm từ động vật (gồm cả cá và các chế phẩm từ sữa), thực phẩm tinh luyện hoặc thực phẩm được xử lý bằng phụ gia hóa chất. Hơn nữa, chế độ ăn thực dưỡng cũng khuyến nghị tăng cường tuần hoàn máu, chức năng thận và đại tiện.

Thêm một lời khuyên thực dưỡng khác xuất phát từ nguyên tắc âm-dương. Các tế bào ung thư tăng trưởng vô hạn định, không có trật tự, nên chúng là âm. Vì vậy, các thực phẩm tạo axit âm là những yếu tố đầu tiên cần được loại bỏ khỏi chế độ ăn. Những thực phẩm này được liệt kê trong Mục II của bảng 20; trong số các thực phẩm này có dược phẩm, đường, và phụ gia hóa học là những loại quan trọng nhất cần được loại bỏ.

Mặc dù ngũ cốc cũng là thực phẩm tạo axit, song chúng lại mang tính dương và không tạo ra hoặc thúc đẩy ung thư. Do ngũ cốc mang tính quân bình âm- dương và chứa các vitamin, protein, carbohydrate, chất xơ và khoáng chất quan trọng, nên chế độ ăn thực dưỡng khuyến cáo các bệnh nhân ung thư nên sử dụng ngũ cốc toàn phần làm thực phẩm chính để đạt kết quả chữa trị tốt. Ngũ cốc toàn phần (tạo axit) cùng với một số loại rau được chọn lọc (tạo kiềm), rong biển, và gia vị – như muối biển, miso, và tương đậu nành chính hiệu (tất cả đều tạo kiềm) – theo quan điểm của tôi, là những thực phẩm tốt nhất để phòng và chống ung thư.

Các tế bào ung thư đều rất âm, kể cả các tế bào ung thư được gọi là dương cũng rất âm. Vì thế, chế độ ăn thực dưỡng cấm ăn các loại trái cây và một số loại rau củ rất âm, ngay cả khi chúng tạo kiềm. Tuy nhiên, để phòng ngừa sự tiến triển của ung thư, thì không chỉ các thực phẩm âm mà cả các thực phẩm dương (tất cả các chế phẩm từ động vật, cá và các chế phẩm từ sữa) đều bị cấm. Vì sao vậy? Lí do trước tiên, vì chúng đều là thực phẩm tạo axit; và lí do thứ hai, chúng rất giàu protein và chất béo. Cả protein và chất béo đều là thực phẩm tạo axit; thêm vào đó, protein còn khiến các tế bào ung thư tăng trưởng vì tế bào được tạo thành từ protein.

Nói chung, ung thư phát triển khi chúng ta cùng lúc tiêu thụ cả đường và các chế phẩm từ động vật, nhóm thứ hai còn cung cấp nguồn protein để hình thành nên các tế bào ung thư và cung cấp chất béo gây ra chứng táo bón và tuần hoàn máu kém. Đường sinh năng lượng. Khi được tiêu thụ riêng biệt, đường và protein không độc hại tới vậy. Chẳng hạn, người Eskimo ăn rất nhiều chế phẩm động vật song lại ăn ít đường, nên không có nhiều trường hợp bị ung thư. Ngược lại, ở Ấn Độ, người dân ăn nhiều đường nhưng lại không ăn nhiều thịt, nên ở Ấn Độ cũng không có nhiều trường hợp bị ung thư.

Dưới đây là các nhóm thực phẩm khi kết hợp với nhau sẽ gây ra ung thư:

Các thực phẩm tạo axit, rất âm, như:

Đường, saccarin, hoặc dấm.

Phụ gia hóa học, chất tạo màu, và chất bảo quản.

Thực phẩm đóng hộp.

Thực phẩm được xử lý mạnh hoặc tinh luyện.

Các thực phẩm tạo axit, dương, như:

Tất cả các loại thịt – thịt gà, thịt bò, thịt lợn, và cá. Các chế phẩm từ sữa.

Các thực phẩm tạo kiềm, rất âm, như:

Tất cả các loại trái cây và nước ép trái cây.

Khoai tây, cà chua, cà tím dài, măng tây, bơ, rau chân vịt, và củ dền (xem Mục I bảng 20)

Tóm lại, dưới đây là lời khuyên của tôi khi muốn phòng ngừa hoặc ngăn chặn sự phát triển của ung thư:

1. Dừng tiêu thụ đường và các chế phẩm từ động vật, trái cây, sữa, và các chế phẩm từ sữa.

2. Tránh ăn các loại đậu, hoặc chỉ ăn 1-2 lần/ tháng, và chỉ ăn xích tiểu đậu.

3. Hoàn toàn tránh xa các thực phẩm tinh luyện hoặc đã qua xử lý hóa chất.

4. Một bữa ăn gồm 50-60% ngũ cốc toàn phần, 25-35% rau củ, và rong biển.

5. Dùng 1-2 cup1 súp miso thực dưỡng mỗi ngày.

6. Dùng các loại đồ uống tạo kiềm, dương như trà Mu, cà phê yannoh, cà phê oshawa, và trà bancha.

7. Chỉ dùng các loại gia vị thuần tự nhiên chính hiệu như miso, tương đậu nành, muối vừng, tương tekka, mận umeboshi,…

8. Nấu ăn theo mùa, theo thời tiết, và theo thể trạng cá nhân.

1 Cup: một đơn vị đo lường của phương Tây. 1 cup tương đương với khoảng 250 ml.

9. Tập thở sâu, hát hoặc tụng kinh, nhưng tránh các bài tập nặng như chạy bộ.

10. Với người có cơ thể béo hoặc trọng lượng nặng, hãy tắm xông hơi hằng ngày. Còn người có cơ thể gầy, cứ hai ngày tắm xông hơi một lần. Xông hơi khô tốt hơn xông hơi ướt.

11. Nên tắm nước lạnh để kiềm hóa máu và các thể dịch.

12. Nấu ăn bằng khí gas, không nấu bằng điện.

8. Kết luận

Hai nguồn sức mạnh tuy đối kháng song cũng bổ sung cho nhau của thiên nhiên biểu hiện trong các loài thực vật, động vật, và vạn vật ở khắp mọi nơi. Các nhà thông thái cổ đại người Trung Quốc gọi hai biểu hiện đó là âm (yin) và dương (yang), còn khoa học hiện đại gọi chúng là tích cực và tiêu cực, cộng và trừ, electron và proton, giãn và co, quy nạp và diễn dịch, đàn ông và đàn bà, giống đực và giống cái, axit và kiềm.

Axit và kiềm đến từ đâu? Nguồn gốc của chúng là gì? Nếu hiểu được những điều này, bạn sẽ có một cái nhìn hoàn toàn khác về thế giới.

Trong Thiền Tông (Zen) có một công án1: “Âm thanh của một bàn tay sẽ thế nào?” Cần cả hai bàn tay mới tạo ra được âm thanh, bạn không thể vỗ tay chỉ bằng một tay. Những môn sinh Thiền Tông phải trả lời câu hỏi này. Tương tự như vậy, bạn không thể biết được nguồn gốc của axit và kiềm. Cái mà bạn nhìn thấy là những hiện thân của chúng trong vạn vật dưới dạng axit hoặc kiềm. Axit và kiềm được bắt nguồn từ nơi không hề có axit hay kiềm – tức là, nơi không có âm thanh, ánh sáng, chuyển động, màu sắc, không nóng, không lạnh, không axit, không kiềm, không trái, không phải, không già, không trẻ, không có nỗi đau, không có niềm vui… Phật giáo gọi đó là ku, Đạo giáo gọi đó là mu, còn Thần Đạo gọi đó là kami. Đó chính là khởi nguồn của axit và kiềm. Thực phẩm là những vật mang hai nguồn lực ấy, và khi ăn thực phẩm, chúng ta tạo ra các tế bào, cơ, hoóc-môn, enzyme, gien, cơ quan và trạng thái tinh thần – vừa đối kháng vừa tương trợ cho nhau.

1 Công án: nguyên nghĩa là một án công khai, quyết định phải trái trong quan phủ. Trong Thiền tông, thuật ngữ quan trọng này chỉ một phương pháp tu tập thiền định đặc biệt. Công án có thể là một đoạn kinh, một kinh nghiệm giác ngộ, một câu chuyện về một vị sư, một cuộc đàm thoại, vấn đáp hay một cuộc pháp chiến. Nhưng chúng có chung một điều là đề cập đến thể tính của vạn vật. (Nguồn: wikipedia)

Bởi vì cuộc sống của chúng ta là hiện thân của hai nguồn lực đó, nên mọi hành động, lối sống và suy nghĩ của chúng ta đều mang tính đối kháng và mâu thuẫn. Tuy nhiên, có đối kháng ắt sẽ có tương hỗ. Vì thế, bài học quan trọng nhất từ axit và kiềm là hãy chấp nhận sự đối kháng bất kể khi nào bạn gặp phải nó, và biến nó thành yếu tố tương trợ cho cuộc sống của bạn.

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 11
  • 12
  • 13
  • Sau