Chiều thứ Sáu, ngày 4 tháng Ba
4 giờ
Mark đói hoa cả mắt. Anh chẳng còn tâm trí đâu để tập trung làm việc được nữa, vậy nên, anh ra khỏi thư viện để kiếm món gì ăn tạm. Thang máy dừng lại, hai cánh cửa mở ra, đập vào mắt anh là cái bảng hiệu ghi tên danh mục liệt kê: ‘Harrison – Y tế’. Một cụm từ ghép nối ngẫu nhiên gợi lên trong tiềm thức của Mark viễn cảnh mời gọi về một cô gái xinh đẹp, hóm hỉnh mà anh ấy vừa mới quen hôm trước. Cô ấy đang đi bộ dọc theo hàng lang, váy đen, áo sơ mi đỏ, gót giày cao gõ xuống những viên gạch lát sàn bệnh viện theo từng nhịp chân. Mark nở một nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt. Thật là ngạc nhiên khi cái ý nghĩ rằng mình có thể gọi cho cô ấy và sắp xếp lại cuộc hẹn lại có thể mang đến nhiều niềm vui đến như thế cho Mark. Niềm vui khác lạ đó chỉ có thể là bởi vì anh đã mong mỏi cuộc hẹn này biết bao.
Mark đã tìm thấy một quán đồ ăn nhanh. Trong khi để hai hàm răng thực hiện nhiệm vụ: nhai trệu trạo một cái bánh mỳ kẹp, tâm trí Mark được thả lỏng để anh có thể nhớ lại tất cả từng câu mà cô gái ấy đã nói, cũng như cách cô ấy đã nhìn trong lúc nói chuyện. Anh đã quyết định gọi đến Trung Tâm Y Tế Woodrow Wilson.
“Tôi xin lỗi, bác sĩ Dexter hôm nay không có ca trực,” một y tá trả lời điện thoại. “Bác sĩ Delgado có thể giúp gì cho anh không?”
“Không, cảm ơn cô,” Mark nói. “Tôi e rằng cô ấy không thể giúp được gì cho tôi.” Anh lấy cuốn sổ tay ghi chép ra và bấm số điện thoại nhà của Elizabeth Dexter, trong lòng vui khấp khởi khi cô ấy bắt máy.
“Chào cô, Elizabeth. Tôi, Mark Andrews đây. Liệu tôi có chút hi vọng nào về việc sẽ được mời cô ăn tối hôm nay không?”
“Hẹn rồi hứa, chẳng lẽ tôi cứ phải chờ đợi và nuôi hi vọng được mời ăn một bữa tối thực sự mới sống được hay sao đây.”
“Đó không phải là một câu nói đùa hài hước đâu.” Mark nói, gần như anh đang nói với chính mình.
“Giọng anh có vẻ hơi khàn rồi Mark. Có lẽ, anh thực sự bị bệnh cúm tóm gáy rồi đấy.”
“Không đâu, chỉ cần nghĩ đến cô thôi, tôi cũng đã thấy khó thở rồi nói chi bị cúm. Có lẽ tôi nên gác máy luôn trước khi sắc mặt tôi chuyển sang sắc xanh43.”
43 Nguyên văn ‘turn blue’: có hai nghĩa một là chuyển sang thất vọng, hai là chuyển sang màu xanh, nghĩa số một thường dùng là nghĩa bóng. Trong trường hợp này Mark chơi chữ để đùa một cách dí dỏm với Liz. Liz có thể hiểu câu này theo hai nghĩa.
Thật tốt khi nghe thấy cô ấy bật cười lớn.
“Tại sao anh không đến đón tôi vào khoảng tám giờ tối nhỉ?”
“Được chứ. Hẹn gặp lại cô khoảng tám giờ tối nay nhé, Elizabeth.”
“Để ý giữ gìn sức khỏe nhé, Mark.”
Anh đặt điện thoại xuống, đột nhiên nhận ra rằng một lần nữa anh lại mỉm cười hết cỡ, khóe môi nhích tới tận mang tai. Mark liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Đã 4 giờ 30 phút chiều. Còn hơn ba giờ làm việc trong thư viện nữa mới tới giờ hẹn, lúc đó anh có thể theo đuổi cô. Anh trở lại với đống tài liệu tham khảo và tiếp tục ghi chú về tiểu sử của sáu mươi hai Thượng Nghị sĩ còn lại trong danh sách.
Anh suy nghĩ miên man chốc lát về bà Tổng thống. Bà Kane không giống như bất kỳ Tổng thống nào khác. Bà ấy là vị nữ Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Nhưng anh có thể học được gì từ vụ ám sát Tổng thống gần đây nhất, vụ ám sát Tổng thống John F. Kennedy. Liệu có Thượng Nghị sĩ nào liên quan đến những cái chết đó không? Hay vụ đó chỉ là cơn bốc đồng tự phát của một kẻ tâm thần, mất trí nào đó? Tất cả các bằng chứng đã biết trong vụ này đều nhắm đến một nhóm tội phạm. Lee Harvey Oswald44 đã chết lâu rồi nhưng vẫn không có lời giải thích thuyết phục về vụ ám sát mà anh ta bị cáo buộc cũng trong tình huống tương tự với vụ ám sát Robert Kennedy45.
44 Cựu lính thủy quân lục chiến Hoa Kỳ bị cáo buộc tội ám sát Tổng thống John F Kennedy khi Tổng thống đang ngồi trên xe mui trần diễu hành ở Texas. Oswald phủ nhận lời cáo buộc và nói rằng anh ta là một ‘con tốt thế thân’ và sau đó bị bắn chết ngay trước các máy quay đang phát sóng truyền hình trực tiếp trong khi đang bị chuyển từ nhà tù thành phố tới nhà tù quận. Mặc dù các bằng chứng pháp y, đường đi của viên đạn và nhân chứng ủng hộ giả thuyết chỉ có một tay súng duy nhất, các cuộc thăm dò ý kiến công khai qua nhiều năm đã cho thấy phần lớn người Mỹ tin rằng Oswald đã không hành động đơn độc, mà chỉ là một mắt xích trong âm mưu ám sát Tổng thống.
45 Một chính trị gia người Mỹ, một Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ đại diện cho New York từ năm 1965 cho đến khi ông bị ám sát vào năm 1968. Ông đã từng là Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ thứ 64 từ năm 1961-1964, phục vụ dưới quyền anh trai mình, Tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ John F. Kennedy và người kế nhiệm ông, Tổng thống Lyndon B. Johnson. Là một biểu tượng của chủ nghĩa tự do Mỹ hiện đại và là thành viên của Đảng Dân chủ, Kennedy là một ứng cử viên hàng đầu cho đề cử Tổng thống của đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử năm 1968.
Một số người vẫn tin chắc rằng CIA đứng sau cái chết của Tổng thống Kennedy vì ông ta đã đe dọa sẽ làm khó họ vào năm 1961 sau thất bại ở Vịnh Con Lợn46. Những người khác cho rằng Chủ tịch nước Cuba Fidel Castro đã lập mưu ám sát Tổng thống Kennedy để trả đũa. Bằng chứng cho thấy Oswald đã tham gia một cuộc phỏng vấn với Đại sứ Cuba chỉ hai tuần trước thời điểm xảy ra vụ ám sát và CIA thì nắm chắc thông tin đó trong lòng bàn tay từ lâu. Ba mươi năm sau vụ ám sát đó, vẫn không ai dám chắc chắn về những kẻ chủ mưu.
46 CIA đã huấn luyện những người lính Cuba lưu vong để xâm chiếm miền nam Cuba với sự hỗ trợ của quân đội chính phủ Hoa Kỳ, nhằm lật độ chính phủ của Fidel Castro ở Cuba. Kế hoạch được tiến hành vào tháng 4 năm 1961, chưa đầy ba tháng kể từ khi John F. Kennedy lên nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ. Nhưng sau đó, đội quân lưu vong này đã bị quân đội Cuba đánh bại trong vòng 3 ngày. Thất bại này đẩy quan hệ Cuba – Hoa Kỳ đi vào khủng hoảng.
Một anh chàng thông minh đến từ Los Angeles tên là Jay Sandberg, bạn cùng phòng với Mark ở trường Luật Yale, luôn tin rằng âm mưu này phải có sự liên thủ từ trên xuống dưới, thậm chí có liên quan đến các nhân vật cao cấp nhất của FBI: họ biết sự thật nhưng họ giữ im lặng.
Có khi nào Tyson và Rogers là hai trong số những người biết rõ sự thật và họ phái anh ta đi xử lí những việc vụn vặt, vô dụng để kìm chân anh ta và kéo dài thời gian hay không? Anh ấy đã không thể nói cho ai biết chi tiết về các sự kiện xảy ra trong ngày hôm qua, ngay cả với Grant Nanna.
Nếu đúng là có một âm mưu thực sự, thì anh ta có thể nhờ cậy và tin tưởng ai đây? Chỉ có một người có lẽ sẽ lắng nghe anh ấy nhưng đó lại chính là Tổng thống và anh thì không có cách nào để tiếp cận bà ấy. Anh có lẽ phải gọi cho Jay Sandberg, cậu ấy đã từng thực hiện một nghiên cứu về các vụ ám sát Tổng thống. Nếu có ai đó có thể lập luận để đưa ra một giả thuyết cho vụ này thì đó chỉ có thể là Sandberg. Mark quay lại chỗ điện thoại trả tiền, kiểm tra số điện thoại nhà của Sandberg ở New York và quay mười chữ số. Một giọng phụ nữ trả lời cuộc gọi của anh ấy.
“Xin chào,” giọng nữ trả lời một cách điềm đạm. Mark có thể hình dung làn khói cần sa bồng bềnh phả ra từ đôi môi vừa phát ra lời chào kia.
“Xin chào, tôi đang gọi đến để tìm anh Jay Sandberg.”
“Ồ.” Lại phả khói thêm, nhiều hơn. “Anh ấy vẫn đang ở chỗ làm.”
“Tôi có thể xin số điện thoại chỗ làm của anh ấy được không?” Mark hỏi.
Sau một lần nhả khói nữa, người phụ nữ kia đọc số điện thoại chỗ làm của Jay cho Mark, rồi mới gác máy.
Khỉ thật, Mark tự nhủ, đúng là phụ nữ vùng Thượng Đông Manhattan.
Một giọng nói có âm vực khác hẳn, giọng của một người Mỹ gốc Ailen, ấm áp, trả lời cuộc điện thoại tiếp theo của Mark.
“Công ty Luật Sullivan và Cromwell xin nghe.” Mark nhận ra đó là công ty luật uy tín ở New York. Những người đó đã dẫn trước trên con đường chinh phục thế giới.
“Tôi có thể nói chuyện với anh Jay Sandberg không?”
“Tôi sẽ kết nối cho anh, thưa anh.”
“Tôi, Sandberg xin nghe.”
“Chào cậu, Jay, Mark Andrews đây. Thật mừng vì đã gọi được cho cậu. Tôi đang gọi từ Washington.”
“Chào Mark, rất vui vì cậu đã gọi cho tôi. Sự nghiệp đặc vụ FBI của cậu sao rồi? Chắc là tối ngày nhả đạn pằng – pằng – pằng chứ hả?”
“Có thể đấy,” Mark nói, “ừ thì đôi khi đúng là như thế. Jay, tôi muốn nhờ cậu gợi ý cho tôi chỗ tìm một vài dữ liệu về các âm mưu ám sát chính trị, đặc biệt là vụ xảy ra ở Massachusetts năm 1979, cậu nhớ vụ đó chứ?”
“Đương nhiên rồi. Ba người đã bị bắt trong vụ đó. Để tôi nhớ lại xem.” Sandberg dừng lại một chút. “Tất cả bọn họ đều được phóng thích vì được chứng minh là vô tội. Sau đó, một người đã chết trong một vụ tai nạn ô tô năm 1980. Một người khác bị đâm trong một vụ cãi lộn ầm ĩ ở San Francisco rồi qua đời vào năm 1981 và người còn lại bị mất tích một cách bí ẩn vào năm ngoái. Tôi đã nói với cậu là có một âm mưu khác mà.”
“Lần này bọn chúng có khả năng nhắm vào ai?”
“Mafia đều muốn loại bỏ Edward Kennedy vào năm 1976 để chúng có thể tránh được cuộc điều tra mà ông đang thúc ép sau cái chết của hai tên du côn Sam Giancana và John Rosselli. Giờ thì họ không ưa Tổng thống Kane vì bà ấy đang tiến hành các nỗ lực để thông qua Dự thảo luật Kiểm soát Súng.”
“Mafia sao? Dự thảo luật Kiểm soát súng à? Tôi có thể bắt đầu tìm kiếm các dữ liệu ở đâu?” Mark hỏi.
“Tôi có thể đảm bảo với cậu rằng cậu sẽ không tìm thấy gì trong Báo cáo Ủy ban Warren hay bất kỳ tài liệu điều tra nào sau đó. Cược với cậu, cậu có thể tìm thấy nhiều nhất và hiệu quả nhất trong cuốn tiểu thuyết The Yankee and Cowboy wars47 của Carl Oglesby – mọi dữ liệu đều nằm trong đó.”
47 Cuốn tiểu thuyết nói về sự liên kết đáng kinh ngạc giữa vụ ám sát JFK và việc hạ bệ Nixon. Một âm mưu bắt đầu từ Dallas đến Watergate và Beyond. Cuốn tiểu thuyết gợi ý phải nhìn sự việc bằng một con mắt khác, cách nhìn khác để hiểu phần chìm của tảng băng nổi trong vụ ám sát đó.
Mark ghi chú lại.
“Cảm ơn nhé Jay, tôi sẽ gọi lại nếu cuốn đó không cung cấp đủ thông tin tôi cần. Cuộc sống ở New York thế nào?”
“Ồ, cũng tốt, nói chung là tốt. Tôi chỉ là một trong số một triệu luật sư chuyên giải thích hiến pháp với mức phí cắt cổ. Cùng tham gia sớm nhé Mark.”
“Chắc rồi, sau khi kết thúc công việc này, tôi sẽ đến New York.”
Trong đầu đầy suy tư, Mark quay lại thư viện. Có thể là CIA, mà cũng có thể là Mafia, cũng có thể là một vài kẻ thuộc danh sách đen những kẻ quấy nhiều, có thể là bất cứ ai - thậm chí cả Halt Tyson. Mark đã hỏi cô gái thủ thư về cuốn sách của Carl Oglesby. Cô đưa cho anh một cuốn sách cũ có vô số vết sờn, rời rạc như sắp rơi ra khỏi cái bìa – hẳn là có nhiều người đã đọc nó. Được in tại Công ty Sheed Andrews & McMeel, 6700 Đường Squibb, Mission, Kansas, trên sách ghi như vậy. Cuốn sách này có vẻ thú vị đây, nhưng giờ thì Mark phải quay lại với tiểu sử của các Thượng Nghị sĩ. Mark dành hơn hai tiếng đồng hồ nữa để cố gắng loại bỏ thêm một số Thượng Nghị sĩ và tìm ra động cơ thủ tiêu bà Tổng thống Kane, nếu có, của bất kỳ người nào trong số đó. Có điều, kết quả anh thu được không đáng là bao.
“Anh phải về thôi, thưa anh,” một thủ thư trẻ tuổi, ôm theo một chồng sách như thể cô ấy muốn về nhà. “Tôi e rằng Thư viện phải khóa cửa lúc 7 giờ rưỡi tối.”
“Cho tôi thêm hai phút thôi nhé. Tôi sắp xong rồi.”
“Tôi đoán vậy.” Cô ấy nói trong khi loạng choạng bê đi một chồng Báo cáo Thượng viện từ năm 1971 đến năm 1973 và sửng sốt bởi vì ngoại trừ cô ấy, chưa từng có ai có thể xử lí được từng đấy tài liệu.
Mark nhìn lướt nhanh qua các ghi chú của mình. Có một vài cái tên nổi lên trong số sáu mươi hai Thượng Nghị sĩ tình nghi. Những người như Alan Cranston từ California, thường được mô tả như là “Nghị sĩ Thư ký Đảng Tự do” của Thượng viện; Ralph Brooks từ Massachusetts, người mà Florentyna Kane đã đánh bại trong Hội nghị của Đảng Dân chủ; Lãnh tụ đa số Kobert C. Byrd từ Tây Virginia. Henry Dexter của Connecticut, cha của Elizabeth, Mark nhún vai nghĩ thầm. Sam Nunn, Thượng Nghị sĩ được kính trọng ở Georgia, Robert Harrison của Nam Carolina - một người có học vấn, lịch thiệp rất nổi tiếng về kỹ năng nghị trường; Marvin Thornton, người đã chiếm vị trí bỏ trống của Edward Kennedy vào năm 1980; Mark O. Hatfield, thành viên Đảng Cộng hòa tự do và sùng đạo đến từ Oregon; Hayden Woodson của Arkansas, một trong những dòng dõi mới của Đảng Cộng hòa miền Nam; William Cain ở Nebraska, một người bảo thủ trung thành, từng độc lập vận động bầu cử trong cuộc bầu cử năm 1980; và Birch Bayh ở bang Indiana, người đã tránh Ted Kennedy khỏi một vụ tai nạn máy bay năm 1967 và có lẽ hành động đó đã cứu mạng ông ấy. Sáu mươi hai người đàn ông thuộc diện nghi ngờ, Mark nghĩ. Và chỉ có sáu ngày để tìm ra sự thật. Thêm nữa, phải có bằng chứng xác thực, không thể phủ nhận và có sức thuyết phục nặng như chì. Cho đến ngày đó, anh chỉ có thể tiến thêm tí chút với nhiệm vụ hiện tại.
Tất cả các tòa nhà Chính phủ đều đang đóng cửa. Anh chỉ còn mỗi hi vọng là ông Giám đốc sẽ nhìn bao quát hết mức để loại trừ bớt dần và nhanh chóng đưa con số sáu mươi hai xuống một con số khả dĩ hơn. Sáu mươi hai cái tên, sáu ngày điều tra.
Anh quay trở lại chỗ đậu xe hơi của mình trong bãi đậu xe công cộng. Sáu đô-la một ngày là mức hỗ trợ quyền lợi ưu tiên cho đặc vụ nghỉ phép. Anh trả tiền cho người giữ xe và từ từ lái chiếc xe chạy ra Đại lộ Pennsylvania, rồi đi xuống trở lại đường Số 9 hướng về phía căn hộ của mình ở đường N, Tây Nam, bỏ lại quãng đường tắc nghẽn trong giờ cao điểm tồi tệ nhất ở phía sau. Simon đã chờ sẵn ở đó và Mark ném chìa khóa xe cho anh ta. “Thay đồ xong, tôi sẽ lại phải đi ra ngoài.” Mark gọi với qua vai anh trong khi đi lên căn hộ ở tầng tám của mình.
Mark tắm và cạo râu thật nhanh, sau đó anh mặc một bộ trang phục trông giản dị hơn nhiều so với cái bộ mà anh đã mặc đi gặp Giám đốc Cục. Giờ mới đến phần đáng mong đợi nhất trong ngày hôm nay đây.
Khi Mark quay xuống lấy xe, chiếc xe đã được quay đầu sẵn để Mark dễ dàng đi ra khỏi bãi đỗ xe, như Simon vẫn nói. Anh lái xe đến Georgetown, rẽ phải vào đường Số 30 và đỗ xe bên ngoài ngôi nhà của Elizabeth Dexter. Một căn nhà nhỏ kiểu dáng phố thị, xây bằng gạch đỏ rất sang trọng và thanh lịch. Hoặc là cô ấy đã đối xử rất tốt với bản thân mình hoặc cha cô đã mua căn nhà cho cô ấy. Cha cô ấy, Mark không thể nào ngăn mình khỏi nhớ đến việc tên ông ấy có trong danh sách sáu mươi hai Thượng Nghị sĩ tình nghi kia…
Cô ấy thậm chí còn xinh đẹp hơn cả trong tưởng tượng của Mark khi xuất hiện trên bậc cửa nhà mình. Tuyệt diệu. Cô ấy mặc một chiếu đầm đỏ dài, cổ cao. Bộ trang phục tôn lên dáng vẻ xinh đẹp của cô nàng cùng với mái tóc sẫm màu và đôi mắt nâu, long lanh, đẹp hút hồn.
“Anh có đi vào không, hay chỉ tới đây để đứng đó trông giống như một anh chàng giao hàng vậy?”
“Tôi sẽ chỉ đứng đây để ngắm nhìn cô thôi,” anh nói. “Cô biết đấy, bác sĩ. Tôi luôn bị mê hoặc bởi những phụ nữ xinh đẹp và thông minh. Cô có thấy điều đó chứng tỏ điều gì đó về con người tôi không?”
Cô phá lên cười và dẫn anh bước vào căn nhà nhỏ xinh của mình.
“Mời anh vào nhà chơi đã, trông anh có vẻ như đang cần uống chút gì đó.” Cô rót cho anh loại bia anh yêu cầu. Khi cô ấy ngồi xuống, đôi mắt cô ấy trở nên nghiêm túc.
“Tôi đoán anh không định gặp tôi để nói về câu chuyện rùng rợn đã xảy ra với anh chàng bưu tá da đen chỗ tôi chứ.”
“Không.” Mark trả lời. “Tôi không muốn nói về chuyện đó, vì một số lí do.”
Nét mặt cô ấy biểu lộ rõ sự thấu hiểu và thông cảm.
“Tôi hi vọng anh sẽ bắt được tên khốn đã giết anh ta.” Một lần nữa, tia sáng lóe lên trong đôi mắt nâu của cô ấy bắt gặp ánh mắt của Mark. Cô đứng dậy và bật bản nhạc thu âm trên giàn âm thanh nổi. “Anh có thích thể loại nhạc này không?” Cô hỏi một cách ý tứ, nhẹ nhàng.
“Tôi không biết nhiều về Haydn,” anh nói. “Tôi ái mộ Mahler, Beethoven và cả Aznavour. Cô thì sao?”
Elizabeth hơi ngượng ngùng, đỏ mặt.
“Tối hôm qua khi không thấy anh đến, tôi đã gọi đến văn phòng của anh để xem anh còn ở đó hay không.”
Mark rất ngạc nhiên và cảm thấy vui trong lòng.
“Cuối cùng, tôi cũng nối máy được với một cô gái làm việc cùng phòng với anh. Anh đã ra ngoài và thêm nữa, cô ấy nói anh có vẻ rất khẩn trương và bối rối, vì thế tôi đã không để lại lời nhắn.”
“Đó là Polly,” Mark nói. “Cô ấy rất quan tâm lo lắng cho người khác.”
“Và xinh đẹp nữa chứ?” Cô mỉm cười với thái độ tự tin của một người biết rất rõ về vẻ ưa nhìn của mình.
“Nhìn xa thì vậy chứ nhìn gần thì khác lắm.” Mark đáp lại. “Mà thôi, đừng nói về Polly nữa. Thôi nào, giờ này mà cô chưa thấy đói sao, tôi sẽ không mời cô ăn món bít tết như tôi đã hứa đâu. Tôi đã đặt bàn vào lúc chín giờ tối ở nhà hàng Tio Pepe rồi đó.”
“Hấp dẫn đấy,” cô nói. “Với cả, anh đã có chỗ đỗ xe rồi, vậy sao chúng ta lại không đi bộ nhỉ?”
“Ý tưởng tuyệt đấy!”
Thật là một buổi tối trong lành và mát mẻ. Mark tận hưởng bầu không khí trong lành đó. Chỉ có một điều duy nhất mà anh không thích, đó là có một sự thôi thúc liên tục nhắc nhở anh nhìn qua nhìn lại, cảnh giác không ngừng.
Elizabeth trêu chọc anh, “Thử ngó nghiêng xung quanh xem có còn cô gái xinh đẹp nào khác chăng?”
“Đâu có,” Mark nói. “Sao tôi lại phải xem có thêm ai khác nữa không chứ?” Anh ấy nói một cách nhẹ nhàng, nhưng anh ấy biết rõ, mình hoàn toàn mong muốn một mối quan hệ nghiêm túc với cô gái này. Đột nhiên, anh thay đổi chủ đề: “Cô có thích công việc của mình không?”
“Công việc của tôi ư?” Elizabeth dường như có chút ngạc nhiên, như thể cô ấy chưa từng nghĩ đến câu trả lời theo khía cạnh này vậy. “Cuộc sống của tôi ư? Ý anh là như thế à? Đó gần như toàn bộ cuộc sống của tôi. Hoặc, ít nhất đã là như vậy cho đến thời điểm này.”
Cô liếc nhìn Mark, nét mặt lộ rõ vẻ ủ ê, ảm đạm. “Tôi ghét bệnh viện. Bệnh viện là một bộ máy quan liêu lớn, cũ nát, bẩn thỉu và quá đông đúc, những quy trình theo kiểu hành chính nhỏ mọn và không thực sự quan tâm đến việc giúp đỡ mọi người. Đối với họ, công việc ở đó chỉ là một cách khác để kiếm sống thôi. Chỉ mới hôm qua, tôi đã phải đe dọa nghỉ việc để thuyết phục Ủy ban Sử dụng cho phép một ông già lưu trú lại bệnh viện. Ông ấy thậm chí không có nhà để trở về.”
Họ đi bộ xuống đường Số 30 và Elizabeth tiếp tục kể cho anh nghe về công việc của cô ấy. Cô như đang rút ruột trải lòng mình và Mark lấy làm mừng vì được lắng nghe cô ấy tâm sự. Cô ấy tỏ ra tự tin một cách thoải mái và dễ thương khi cô ấy kể với anh chuyện về một người Nam Tư rất sâu sắc, người có thể hát lên những bài ca về tình yêu và nỗi nhớ mong bằng ngôn ngữ Xla-vơ48 khó hiểu trong khi cô kiểm tra cái nách bị lở loét của anh ta; rồi cuối cùng anh ta bộc lộ niềm đam mê bằng một cử chỉ không đúng mực đó là chụp lấy tai trái của cô và liếm nó.
48 Ngôn ngữ hệ Ấn-Âu bao gồm tiếng Nga, Ba Lan và Bulgaria.
Mark cười lớn và nắm lấy tay cô khi anh dẫn đường cho cô đi vào nhà hàng. “Cô nên yêu cầu được bồi thường bằng chiến phí.” Anh nói.
“Ồ, tôi lẽ ra sẽ không phàn nàn gì, ngoại trừ việc nên nói với anh ấy rằng anh ta toàn hát lạc giọng thôi.”
Một nữ phục vụ dẫn họ lên gác, tới chiếc bàn ở trung tâm căn phòng, khá gần với sân khấu biểu diễn. Mark từ chối và chọn một bàn ở góc xa. Anh không hỏi Elizabeth xem cô thích ngồi đâu hơn. Anh ngồi dựa lưng vào tường, biện bạch yếu ớt với cái cớ là muốn tránh tiếng ồn, để anh ấy có thể nói chuyện với cô. Mark chắc chắn là cô gái này không dễ bị thuyết phục bởi vài lời tán tỉnh đường mật đó. Cô ấy biết có chuyện gì đó không đúng và cảm nhận được sự lo lắng của anh, nhưng cô ấy không muốn soi mói chuyện đó.
Một người phục vụ trẻ tuổi mời họ chọn cocktail nếu họ muốn dùng. Elizabeth chọn Margarita49 còn Mark chọn một ly Spritzer50.
49 Margarita là loại cocktail có lịch sử lâu đời và được thế giới biết đến như một đại diện cho các món cocktail. Loại cocktail này là sự kết hợp giữa rượu Tequila với Triple Sec hoặc Cointreau hay bất cứ loại rượu nào có hương cam nào khác cùng với nước chanh tươi.
50 Spritzer là một thức uống vị mạnh, ướp lạnh, thường được làm bằng rượu vang trắng và nước có ga hoặc nước khoáng lấp lánh.
“Spritzer là loại cocktail nào thế?” Elizabeth hỏi.
“Không hẳn đậm chất Tây Ban Nha lắm, một nửa vang trắng, một nửa sô-đa, nhiều đá. Khuấy đều nhưng không lắc. Một công thức bùng nổ mùi vị tuyệt đỉnh được ví như lấy ra từ sách Poor man’s James Bond51 vậy.”
51 Một series sách hạn chế xuất bản chủ yếu nói về các công thức tạo ra cơ chế phát nổ có tỉnh hủy diệt thủ công (có tác dụng như vũ khí quân sự).
Bầu không khí dễ chịu của nhà hàng đã giúp Mark giải tỏa được một chút căng thẳng - lần đầu tiên anh cảm thấy thư giãn chút ít trong vòng hai mươi bốn giờ qua. Họ trò chuyện về phim ảnh, âm nhạc và sách, rồi về trường Yale. Khuôn mặt của cô ấy, thường tràn đầy sức sống, đôi khi lại tỏ ra bình thản, nhưng luôn luôn dễ thương dưới ánh nến. Mark đã bị cô ấy mê hoặc. So với trí thông minh và tính tự lập của mình, vẻ mong manh và nữ tính của cô ấy còn dễ lay động trái tim hơn nữa.
Khi họ bắt đầu thưởng thức món cơm thập cẩm Tây Ban Nha, Mark đã hỏi Elizabeth tại sao cha cô lại trở thành một Thượng Nghị sĩ, rồi hỏi về sự nghiệp của ông ấy và thời thơ ấu của cô ở Connecticut. Chủ đề này dường như khiến cho cô ấy cảm thấy không thoải mái. Mark không thể quên được việc tên cha cô ấy vẫn còn trong danh sách tình nghi của anh. Anh cố gắng chuyển hướng cuộc trò chuyện sang mẹ cô ấy. Elizabeth lảng tránh ánh mắt của anh và thậm chí, đúng như anh ấy nghĩ, sắc mặt cô ấy có vẻ tái đi. Một gợn nhỏ băn khoăn đầu tiên làm xáo trộn sự yêu mến của anh đối với Elizabeth và khiến anh lo lắng trong giây lát. Cô ấy là điều đẹp đẽ đầu tiên xuất hiện trong một quãng thời gian khá dài và anh không muốn phải nghi ngờ cô ấy. Liệu có thể không? Liệu cô ấy có dính dáng gì không? Không, tất nhiên là không rồi. Anh cố gắng gạt suy nghĩ đó ra khỏi tâm trí mình.
Màn trình diễn âm hưởng Tây Ban Nha bắt đầu diễn ra sôi nổi và cuồng nhiệt. Mark và Elizabeth lắng nghe và xem chăm chú các tiết mục. Họ không thể nói gì với nhau trong tiếng nhạc ồn ào. Được ngồi gần bên cô ấy đã khiến Mark hạnh phúc lắm rồi. Khuôn mặt cô quay nghiêng khi cô nhìn vào các vũ công. Khi buổi biểu diễn kết thúc, cả hai đã ăn xong món cơm thập cẩm Tây Ban Nha từ lâu. Họ gọi món tráng miệng và cà phê.
“Cô muốn hút xì gà không?”
Elizabeth mỉm cười. “Không, cám ơn. Chúng ta không cần phải bắt chước các thói quen tệ hại lẫn lành mạnh của đàn ông làm gì cả.”
“Vậy sao,” Mark phụ họa. “Cô sẽ trở thành nữ Tổng y sĩ Hoa Kỳ đầu tiên, tôi đoán là như vậy, đúng không?”
“Không đâu, tôi không đủ khả năng,” cô nói một cách từ tốn. “Có lẽ thứ hai hoặc thứ ba thì được.”
Mark lại phá lên cười. “Có lẽ tôi nên quay lại Cục và cố gắng hoàn thành nhiệm vụ lớn nào đó. Chỉ để theo kịp với cô thôi nhỉ.”
“Nhưng cô ấy cũng có thể là một phụ nữ ngáng đường, cản trở con đường thăng tiến lên chức Giám đốc Cục FBI của anh đấy.” Elizabeth bổ sung thêm.
“Không đâu, điều cản trở tôi phấn đầu trở thành Giám đốc FBI sẽ không phải là một người phụ nữ đâu.” Mark nói nhưng anh không giải thích gì thêm.
“Cà phê của quý vị, senorita, senor52.”
52 ‘senorita, senor’: đại từ nhân xưng trong tiếng Tây Ban Nha tương đương quý cô, quý tiểu thư (Miss), quý ông, quý ngài (Mister).
Nếu Mark đã từng mong muốn được ngủ với một người phụ nữ ngay trong buổi hẹn hò đầu tiên, thì đây chính là một dịp như thế, nhưng anh biết chuyện đó sẽ không xảy ra hôm nay.
Anh thanh toán hóa đơn, để lại tiền hoa hồng hậu hĩnh cho người phục vụ và chúc mừng các cô gái biểu diễn đang ngồi uống cà phê ở một góc phòng.
Mark cảm nhận được chút không khí ớn lạnh của ban đêm khi họ ra khỏi nhà hàng. Một lần nữa, anh lại lo lắng nhìn quanh cảnh giác, cố gắng không để Elizabeth nhận ra. Anh nắm lấy bàn tay Elizabeth khi họ cùng nhau sang đường, nhưng vẫn không buông tay cô ấy khi họ đã tới đích. Họ bước đi, trò chuyện ngập ngừng, cả hai đều hiểu chuyện gì đang diễn ra. Mark muốn ôm chặt lấy cô ấy. Gần đây, anh đã gặp gỡ rất nhiều phụ nữ, nhưng chẳng ai trong số họ khiến anh muốn được cầm tay, dù là trước hay sau cuộc hẹn. Tự nhiên, tâm trạng của anh dần dần nặng nề trở lại. Có lẽ nỗi sợ hãi đã khiến anh trở nên quá đa cảm.
Một chiếc xe đang tiến đến phía sau họ. Các cơ và dây thần kinh của Mark căng cứng trong trạng thái đề phòng. Elizabeth dường như không chú ý đến chiếc xe. Nó chạy chậm lại dần khi từ từ tới gần họ, rồi dừng lại ngay bên cạnh họ. Mark cởi nút giữa áo khoác và bồn chồn, anh lo lắng cho Elizabeth hơn là cho chính mình. Cánh cửa xe bật ra và bất ngờ, bốn thiếu niên, hai nam hai nữ nhảy ra khỏi xe. Chúng lao như tên bắn vào một tiệm ăn Hamburger Heaven. Mồ hôi rịn ra trên trán Mark. Anh lắc mình tránh cái đụng chạm của Elizabeth. Cô nhìn chằm chằm vào anh. “Có chuyện gì không ổn lắm đúng không, Mark?”
“Đúng vậy,” anh nói. “Nhưng cô đừng hỏi gì thêm về chuyện đó nhé.”
Cô đưa tay tìm bàn tay Mark và nắm thật chặt, rồi họ lại tiếp tục bước đi. Áp lực dồn nén mà Mark phải chịu đựng từ những sự việc rùng rợn hôm trước không ngừng quấy nhiễu khiến anh chán nản và không muốn nói lại chuyện đó nữa. Khi họ về đến cửa trước nhà Elizabeth, anh lại trở về với câu chuyện đời thực, cái chỉ được chia sẻ giữa anh và hình bóng mờ ảo, to lớn của ông Halt Tyson.
“Chà, tối nay anh thực sự lôi cuốn chưa từng thấy đấy, nhất là khi anh thực sự đứng ở đây lúc này.” Cô mỉm cười và nói.
Mark lắc nhẹ vai. “Tôi thực sự xin lỗi.”
“Anh có muốn vào nhà và uống thêm chút cà phê không?”
“Có mà lại không. Tôi có thể lại xin hoãn tận hưởng lời mời đó không? Tôi cảm thấy bầu bạn gần gũi ngay lúc này chưa thích hợp lắm.”
Anh vẫn còn vài việc phải làm trước khi gặp lại Giám đốc Cục lúc bảy giờ sáng mai, mà giờ thì đã quá nửa đêm. Hơn nữa, trong một ngày rưỡi qua, anh vẫn chưa được ngủ một cách đúng nghĩa.
“Tôi có thể gọi lại cho cô vào ngày mai không?”
“Tôi sẽ chờ,” cô ấy nói. “Hãy chắc chắn anh vẫn giữ liên lạc với tôi cho dù có bất cứ chuyện gì xảy ra đi chăng nữa nhé.”
Mark sẽ luôn nhớ những gì cô nói trong vài ngày tới như một câu thần chú hộ mệnh. Anh có thể nhớ lại từng lời và từng cử chỉ của cô khi cô nói những lời đó. Liệu có phải là cô ấy đang vui nên mới nói như vậy hay không? Hay cô ấy đang nghiêm túc? Có khi nào cô ấy chỉ nói thế để trêu đùa anh không? Thời gian gần đây, yêu đương không còn là mốt nữa. Chỉ một số ít những người yêu nhau có thể tiến tới hôn nhân, nhưng lại có quá nhiều cặp đôi ly hôn. Liệu có phải anh ấy đã thực sự mắc vào lưới tình và yêu cuồng si giữa lúc này, giữa câu chuyện kinh khủng này không?
Anh hôn lên má cô rồi quay đi, mắt anh lại đảo nhanh như chớp dọc cả con đường. Cô thì thầm phía sau anh:
“Tôi hi vọng anh sẽ tìm ra kẻ đã giết người đưa thư của tôi và người Hy Lạp của anh.”
Người Hy Lạp của anh, người Hy Lạp của anh, linh mục dòng Chính Hy Lạp, Cha xứ Gregory. Lạy Chúa trên cao, tại sao anh không nghĩ ra điều này trước đó nhỉ? Trong một khoảnh khắc, anh đã quên mất Elizabeth khi anh bắt đầu lao về phía xe của mình. Anh quay lại để vẫy tay chào. Cô ấy đang nhìn chằm chằm vào anh với nét mặt đầy vẻ hoang mang, băn khoăn không biết mình có nói sai gì không. Mark nhảy vào trong xe và lái xe, chạy hết tốc lực về căn hộ của mình. Anh phải tìm số điện thoại của Cha xứ Gregory. Vị linh mục dòng Chính thống Hy Lạp, ông ta trông như thế nào nhỉ, người bước ra từ thang máy, ông ta trông như thế nào. Tâm trí anh chạy lùi lại về quá khứ cái lúc mà anh cảm thấy có gì đó khác lạ: Cái quái gì vậy nhỉ? Trang phục? Không, cũng ổn mà. Khuôn mặt chăng? Khuôn mặt của người đó có gì đó không đúng lắm. Tất nhiên. Tất nhiên rồi. Làm sao mà anh có thể ngu ngốc và ngớ ngẩn đến mức đó nhỉ? Khi về đến nhà, anh đã gọi cho Văn phòng Khu vực FBI Washington ngay lập tức. Polly đang trực tổng đài, rất ngạc nhiên khi nghe thấy giọng anh trên điện thoại.
“Không phải anh đang nghỉ phép à?”
“Vâng, thì đại loại như vậy. Cô có số điện thoại của Cha xứ Gregory không?”
“Cha xứ Gregory là ai thế nhỉ?”
“Một linh mục dòng Chính thống Hy Lạp mà Sếp Stames thỉnh thoảng thường liên lạc. Tôi cho rằng ông ấy là linh mục tại địa phương của sếp.”
“À, đúng rồi. Giờ tôi nhớ ra rồi.” Mark chờ đợi.
Polly kiểm tra Rolodex – giá để thẻ các thông tin liên lạc của Stames và đọc số điện thoại cho Mark. Đúng rồi còn gì nữa, không thể khác hơn. Thế quái nào mà mình lại ngu thế nhỉ. Mọi việc đã quá rõ ràng. Đã quá nửa đêm nhưng anh vẫn phải gọi cho cha Gregory. Anh quay số điện thoại. Có tiếng chuông reo vài hồi trước khi ống nghe được nhấc lên:
“Cha Gregory phải không ạ?”
“Vâng, tôi đây.”
“Tất cả những vị linh mục dòng Chính thống Hy Lạp đều để râu quai nón phải không cha?”
“Đúng, đó là giáo luật. Anh là ai mà lại hỏi một câu hỏi vớ vẩn như thế vào lúc nửa đêm thế này?”
Mark xin lỗi, “Con là đặc vụ Mark Andrews. Con là cấp dưới của Nick Stames ạ.”
Người đàn ông ở đầu dây bên kia, nghe có vẻ đang ngủ gật, lập tức tỉnh hẳn dậy. “Tôi hiểu rồi, chàng trai. Tôi có thể làm gì cho anh?”
“Cha Gregory, đêm qua thư ký của ông Stames đã gọi cho cha và nhờ cha đến Trung tâm Y tế Woodrow Wilson để gặp một người Hy Lạp bị đạn bắn vào chân đúng không ạ?”
“Vâng, đúng vậy - tôi vẫn nhớ, anh Andrews ạ. Nhưng khoảng ba mươi phút sau lại có một người khác gọi cho tôi, ngay khi tôi chuẩn bị đi tới đó. Anh ta nói với tôi rằng tôi không cần bận tâm đến chuyện đó nữa vì ông Casefikis đã được xuất viện.”
“Anh ta đã gì cơ?” Giọng của Mark cao dần lên sau mỗi một từ anh nói.
“Xuất viện.”
“Người gọi có giới thiệu anh ta là ai không ạ?”
“Không, người đó không nói thêm bất cứ điều gì khác. Tôi tưởng anh ta làm cùng cơ quan với anh.”
“Cha Gregory, con có thể gặp Cha vào sáng mai lúc tám giờ được không?”
“Tất nhiên, con trai ạ.”
“Và xin Cha đảm bảo giúp con là không nói cho bất kỳ ai biết về cuộc điện thoại này cho dù họ là ai nhé.”
“Được, nếu đó là nguyện vọng của con, con trai.”
“Cảm ơn Cha.”
Mark đặt ống nghe điện thoại xuống và cố gắng tập trung. Hắn cao hơn mình, chắc khoảng một mét tám gì đấy. Da dẻ sẫm màu hay là tại chiếc áo choàng tu sĩ nên trông da hắn có vẻ xỉn màu nhỉ? Không, hắn có tóc màu sẫm, mũi to, mình nhớ rất rõ hắn có cái mũi to, mắt lớn, không, có lẽ mình không rõ mắt hắn như thế nào, nhưng chắc chắn hắn có cái mũi to, một cái cằm mọng thịt, đúng một cái cằm mọng những thịt. Mark viết lại tất cả những điều anh ấy có thể nhớ lại về người đàn ông có mũi to và cái cằm mọng thịt, một cái mũi to và một cái cằm mọng thịt,... Đầu anh gục xuống bàn. Cuối cùng anh ấy cũng đã ngủ được.