Tối thứ Năm ngày 3 tháng Ba
8 giờ 15 phút
Chào cô, Liz.”
Đầu bên kia của điện thoại ngập ngừng trong giây lát.
“Xin chào, G-man. Không phải là anh đang háo hức muốn đến sớm hơn một chút sao?”
“Tôi đang ao ước như vậy đấy. Tôi có chuyện này muốn nói, Elizabeth, tôi phải quay lại bệnh viện và để mắt đến gã Casefikis đó cho đến khi cảnh sát đến. Anh ta có khả năng gặp nguy hiểm, vì vậy chúng tôi phải bảo vệ anh ta, điều đó có nghĩa là tôi chắc chắn sẽ bị trễ hẹn. Cô không phiền khi phải đợi tôi chứ?”
“Không đâu, tôi sẽ không chết đói đâu. Thứ Năm nào tôi cũng ăn trưa với cha tôi và ông ấy vốn là người ăn rất khỏe.”
“Thật tốt quá. Bởi vì cô nên ăn nhiều vào. Cô mảnh dẻ như một làn gió vô hình trong bóng đêm ấy. Tôi vẫn đang cố gắng để thật tình cờ bị dính cúm đây.”
Elizabeth mỉm cười ấm áp. “Hẹn gặp lại anh sau.” Mark đặt điện thoại trở lại giá đỡ và sải bước đến thang máy, nhấn mũi tên chỉ hướng đi lên.
Hi vọng duy nhất của anh lúc này là Cảnh sát Thủ đô đã đến và đang làm nhiệm vụ rồi. Ôi lạy Đấng Cứu Thế. Cái thang máy này cần bao lâu để đưa mình đi lên và rồi lại đưa mình trở lại tầng trệt đây? Bệnh nhân ở đây không chừng sẽ chết khi đợi thang máy mất. Cuối cùng, cánh cửa thang máy cũng mở ra và một linh mục dòng chính thống người Hy Lạp vội vã vượt qua anh ấy. Anh ấy có thể thề rằng đó là một vị linh mục dòng chính thống người Hy Lạp bởi vì người đó đội một chiếc mũ cao, tối màu, áo choàng linh mục vạt dài quét đất với chiếc vòng có cây Thánh giá dòng chính đeo trên cổ anh ta. Mặc dù có điều gì đó lạ lùng ở vị linh mục khiến Mark chú ý nhưng anh không thể nghĩ ra đó là điểm gì. Anh ấy đứng đó, bối rối một thoáng, nhìn chằm chằm vào cái lưng của người vừa đi khuất kia và chỉ vừa kịp nhảy vào thang máy trước khi nó đóng cửa lại. Anh nhấn nút chọn tầng bốn đến vài lần. Thôi nào, nhanh lên, nhanh lên. Chạy đi, đồ khốn khiếp. Nhưng cái thang máy không có tai để lắng nghe Mark hối thúc và vẫn chạy lên phía trên một cách ì ạch, nhởn nhơ đúng như cái tốc độ ốc sên hồi chiều. Nó chẳng thèm đếm xỉa gì đến cuộc hẹn với bác sĩ Elizabeth Dexter của Mark. Cửa thang máy từ từ mở ra, Mark bước ra và băng qua khoảng trống sang phía bên kia hành lang bệnh viện. Anh đi dọc theo hành lang tới phòng 4308 nhưng chẳng thấy có bóng dáng của bất kỳ viên cảnh sát nào. Trên thực tế, hành lang thậm chí còn chẳng có ai. Có vẻ như anh ấy sẽ bị mắc kẹt ở đây một lúc rồi. Anh ấy nhìn chằm chằm qua cửa sổ nhỏ, đưa mắt tìm kiếm hai người đàn ông trong đó, họ đang ngủ trên giường, chiếc TV vô thanh vẫn bật nhưng màn hình chỉ là một ô vuông phát sáng thôi. Mark bỏ đi để tìm một y tá và cuối cùng cũng tìm thấy cô ấy đang rúc vào trong phòng y tá trưởng để nhấm nháp một tách cà phê. Cô ấy có vẻ vui khi thấy anh chàng ưa nhìn hơn trong số hai đặc vụ FBI đã quay lại.
“Có viên cảnh sát nào từ Sở Cảnh sát Thủ đô đến phụ trách bảo vệ cho phòng 4308 chưa?”
“Không có, chẳng thấy ai đến gần nơi này trong tối nay cả. Nơi này im lặng như nhà mồ vậy. Anh đang mong đợi ai đó hay sao?”
“Vâng, chết tiệt thật. Đoán xem, tôi sẽ phải chờ họ. Tôi dùng một chiếc ghế được không? Tôi sẽ phải bám sát xung quanh đây cho đến khi có một sĩ quan đến từ Cảnh sát Thủ đô thế chỗ. Hi vọng tôi không làm phiền cô.”
“Anh không phiền gì tôi đâu. Anh cứ ở đây bao lâu tùy anh. Để tôi xem liệu tôi có thể tìm giúp anh một chiếc ghế ngồi thoải mái hay không.” Cô y tá đặt cốc cà phê xuống và hỏi: “Anh muốn uống cà phê không?”
“Chắc chắn rồi.” Mark quan sát cô y tá kỹ hơn. Anh có thể sẽ phải trải qua tối nay cùng với một cô y tá chứ không phải một cô bác sĩ. Mark quyết định anh nên quay lại và kiểm tra căn phòng trước để trấn an Casefikis nếu anh ta vẫn còn thức và sau đó gọi điện cho Cảnh sát Thủ đô để hỏi xem nhân viên của họ đi đến đâu rồi. Anh bước chầm chậm ra cửa lần thứ hai. Bây giờ anh cảm thấy không cần phải vội nữa. Anh khẽ mở cửa. Căn phòng tối đen như mực, trừ ánh sáng hắt ra từ chiếc TV. Mắt anh chưa quen lắm với bóng tối và không thể nhìn rõ. Anh liếc nhìn hai người bọn họ đang nằm trên giường. Họ nằm im lặng. Mark sẽ không bận tâm tìm kiếm thêm nữa nếu không phải là những tiếng như tiếng nước nhỏ giọt khiến anh chú ý.
Tóc… tóc… tóc…
Nghe như thể tiếng rỉ ra từ vòi nước máy, nhưng anh không thể nhớ nổi nếu như có vòi nước máy thì nó sẽ ở chỗ nào trong căn phòng này.
Tóc… tóc…
Anh đi thật khẽ, lặng lẽ đến bên giường của Angelo Casefikis và liếc nhìn xuống.
Tóc… tóc…
Máu tươi còn ấm đang trào ra trên tấm ga giường. Máu rỉ thành dòng từ miệng của Casefikis. Đôi mắt màu đen thẫm của anh ta lồi ra trên hốc mắt. Lưỡi anh ta rời ra và sưng to. Cổ họng anh ta bị cắt tới tận mang tai, ngay bên dưới viền cằm. Máu đã đọng thành vũng trên sàn nhà và Mark đang đứng trên vũng máu. Anh cảm thấy như hai chân mình muốn khuỵu xuống. Anh chỉ có thể bám vào thành giường để tránh ngã khuỵu xuống sàn nhà. Mark lảo đảo quay sang phía người đàn ông điếc. Đôi mắt anh giờ đây đã quen với bóng tối. Mark ọe lớn tiếng. Đầu của người đưa thư bị cắt rời khỏi phần còn lại của cơ thể; chỉ có màu da của anh ta cho thấy chúng là hai phần đã từng gắn liền với nhau. Mark loạng choạng cố lao ra cửa, tới thẳng chỗ gắn máy điện thoại tính phí, tai nghe thấy tiếng tim mình đập thình thịch điên cuồng trong lồng ngực. Mark có thể cảm nhận làn áo sơ mi dính sát vào da thịt mình. Hai bàn tay anh ấy dính đầy máu. Anh ấy hốt hoảng, lóng ngóng đưa tay lần tìm mấy lần mới thấy mấy đồng 25 xu. Mark quay số đường dây báo tin cho Đội Trọng án26 và tóm tắt lại sự việc đã xảy ra. Thời nay, các cơ quan an ninh sẽ không cử người đi nếu thấy không cần thiết và không chính đáng. Cô y tá trực ca quay trở lại với một cốc cà phê.
26 Bộ phận phụ trách điều tra, xử lí các vụ án mạng.
“Anh ổn không? Nhìn anh tái nhợt rồi.” Cô ấy hỏi và rồi hét lên kinh hãi khi nhìn thấy hai bàn tay dính đầy máu của Mark.
“Đừng vào phòng 4308 bất kể lí do gì. Đừng để ai đi vào căn phòng đó trừ khi tôi đồng ý. Tìm giúp tôi một bác sĩ ngay lập tức.”
Cô y tá nhét tách cà phê vào tay Mark, buộc anh ấy phải đón lấy nó và chạy xuống hành lang. Mark quay trở lại Phòng 4308, mặc dù sự có mặt của anh ấy ở trong đó giờ đã không thích hợp. Anh ấy không thể làm gì khác ngoài chờ đợi. Anh bật đèn lên và đi tới phòng vệ sinh. Anh ấy cố gột bỏ những vết bẩn từ hỗn hợp máu me lẫn tạp chất do nôn ọe dính trên da cũng như trên quần áo. Mark nghe tiếng cửa ra vào chuyển động, anh vội vã quay trở lại căn phòng. Một nữ bác sĩ trẻ khoác áo choàng trắng khác. “Bác sĩ Alicia Delgado.” Mark đọc thẻ tên bằng nhựa mà cô ấy cài trên áo.
“Đừng chạm vào bất cứ thứ gì.” Mark nói.
Bác sĩ Delgado nhìn đăm đăm vào anh ta rồi tới các thi thể và khẽ kêu lên.
“Đừng chạm vào bất cứ thứ gì,” Mark lặp lại, “cho đến khi người của Đội Trọng án đến. Họ sẽ có mặt ngay thôi.”
“Anh là ai?” Cô ấy hỏi.
“Đặc vụ Mark Andrews của FBI.” Anh lấy ví và giơ phù hiệu ra theo bản năng cho cô bác sĩ xem.
“Chúng ta chỉ đứng đây nhìn nhau thôi sao, hay anh có thể cho phép tôi làm gì đó với khung cảnh hỗn độn này không?”
“Không, đừng làm gì cả, cho đến khi Đội Trọng án đến để hoàn tất các thủ tục điều tra của họ và dọn dẹp sạch sẽ để trả lại căn phòng cho bệnh viện. Chúng ta ra khỏi đây thôi.” Anh vượt lên trước cô bác sĩ và đẩy cửa bằng vai, tuyệt đối không chạm vào bất cứ thứ gì.
Họ trở lại và tiếp tục chờ đợi trong hành lang.
Mark yêu cầu bác sĩ Delgado chỉ đợi bên ngoài cửa và không cho phép ai khác vào phòng trong khi anh gọi điện lại cho Cảnh sát Thủ đô lần nữa.
Cô bác sĩ miễn cưỡng gật đầu.
Anh ấy đi về phía chiếc điện thoại tính phí, bỏ vào đó hai đồng 25 xu nữa; anh quay số gọi tới cảnh sát Thủ đô và yêu cầu gặp Trung úy Blake.
“Trung úy Blake đã về nhà khoảng một giờ trước. Tôi có thể giúp gì cho anh không?”
“Các anh dự định khi nào mới cử người đến gác và bảo vệ Phòng 4308 tại Trung tâm Y tế Woodrow Wilson đây?”
“Xin hỏi, ai đang nói vậy?”
“Đặc vụ Andrews, FBI, Văn phòng Khu vực của FBI thành phố Washington.” Mark kể lại các chi tiết của vụ giết người kép qua điện thoại.
“Chà, người của chúng tôi lẽ ra hiện giờ nên ở đó với anh rồi. Anh ta đã rời văn phòng hơn nửa tiếng trước. Tôi sẽ thông báo cho Đội Trọng án ngay lập tức.”
“Tôi đã báo rồi.” Mark ngắt lời.
Anh đặt điện thoại xuống và ngồi sụp xuống một chiếc ghế gần đó. Hành lang bây giờ đông nghịt những người mặc áo choàng trắng của bệnh viện. Hai chiếc băng ca đang được đẩy lên phòng 4308. Tất cả bọn họ đều đang đợi. Làm gì bây giờ mới là đúng đắn đây?
Hai đồng 25 xu nữa, anh quay số gọi đến nhà của Nick Stames. Điện thoại dường như reo rất lâu. Tại sao anh ấy không trả lời điện thoại vậy? Cuối cùng, cũng có một giọng nữ trả lời điện thoại.
Không được tỏ ra hoảng loạn, Mark tự nhủ trong đầu, tay vẫn cầm ống nghe điện thoại. “Chào buổi tối, cô Stames. Tôi là Mark Andrews. Làm ơn cho tôi nói chuyện với anh Stames được không?” Giọng điệu của Mark rất đều đặn, bình tĩnh và không để lộ bất kỳ dấu hiệu căng thẳng nào.
“Tiếc quá, Nick không có nhà, anh Mark ạ. Anh ấy quay lại văn phòng khoảng hai giờ trước rồi. Chuyện này thật buồn cười, anh ấy nói anh ấy sẽ gặp anh và Barry Calvert ở văn phòng mà.”
“Vâng, chúng tôi đã gặp nhau rồi, nhưng anh ấy rời khỏi văn phòng để trở về nhà khoảng bốn mươi phút trước cơ mà.”
“Ồ, vậy có lẽ anh ấy chưa về đến nhà thôi. Anh ấy nói sẽ chỉ ngồi một lát rồi về ngay. Nhưng đến giờ vẫn chưa thấy anh ấy về. Biết đâu, anh ấy quay lại văn phòng luôn rồi thì sao. Anh thử gọi về văn phòng của anh ấy xem sao?”
“Vâng, tất nhiên rồi. Xin lỗi vì đã làm phiền cô.” Mark cúp máy, nhìn qua để yên tâm rằng không có bất kỳ ai đi vào phòng số 4308. Không ai vào phòng. Anh bỏ thêm hai đồng 25 xu vào máy điện thoại và gọi điện về văn phòng. Polly vẫn đang trực tổng đài.
“Mark Andrews đây. Làm ơn nối máy cho tôi gặp sếp Stames, ngay và luôn nhé.”
“Sếp Stames và đặc vụ Calvert rời khỏi văn phòng khoảng bốn mươi lăm phút trước – để về nhà, tôi nghĩ vậy, anh Andrews ạ.”
“Không thể nào. Không thể như thế được.”
“Đúng là như vậy đấy, tôi tận mắt thấy họ ra khỏi văn phòng, anh Andrews ạ.”
“Polly, cô có thể thử nối máy lại lần nữa được không?”
“Được chứ, nếu anh đã đề nghị như vậy.”
Mark chờ đợi, với anh ấy lúc này, thời gian chờ dường như là vô tận. Anh ấy nên làm gì? Chỉ có một mình anh ấy ở đây, còn những người khác đâu rồi? Mọi người thường làm gì khi họ ở vị trí của anh ấy? Chúa ơi, không có bài học nào trong khóa đào tạo của anh ấy nói về trường hợp này – nhân viên FBI nên có mặt sau hai mươi bốn giờ khi phát hiện một vụ án hình sự, chứ không phải như thế này.
“Không ai bắt máy, anh Andrews ạ.”
“Cảm ơn, Polly.”
Mark nhìn lên trần nhà một cách tuyệt vọng và không biết mình nên làm gì tiếp theo. Anh đã nghe mệnh lệnh ngắn gọn của sếp Stames là không được nói cho ai biết về những chuyện đã phát hiện trong tối nay, không được hé răng một lời với bất cứ ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào cho đến sau khi Stames nói chuyện với Giám đốc Cục FBI. Phải tìm Stames và Calvert thôi. Anh ta phải tìm ai đó mà anh ta có thể nói chuyện. Thêm hai đồng 25 xu nữa. Mark thử gọi cho Barry Calvert. Chỉ có tiếng chuông điện thoại reo và cứ reo liên hồi. Không có ai bắt máy ở căn hộ của chàng cử nhân đó. Hai đồng 25 xu như thế nữa. Anh lại gọi cho Norma Stames. “Cô Stames, tôi là Mark Andrews đây. Xin lỗi đã làm phiền cô thêm một lần nữa. Phiền cô báo sếp Stames và đặc vụ Calvert gọi cho tôi theo số của Trung tâm Y Tế Wood Wilson ngay khi hai người họ về đến nhà nhé.”
“Vâng, tôi sẽ nói với Nick ngay khi anh ấy về đến. Có lẽ họ đã dừng lại đâu đó trên đường đi chăng.”
“Vâng, tất nhiên rồi, tôi đã không nghĩ đến chuyện đó. Có lẽ tốt nhất là tôi nên quay trở lại trung tâm thành phố ngay sau khi có người chi viện nhiệm vụ. Vì vậy, họ có thể gọi về đó cho tôi. Cảm ơn, cô Stames.” Anh cúp máy.
Khi vừa đặt ống nghe điện thoại xuống, Mark nhìn thấy một viên cảnh sát từ Sở Cảnh sát Thủ đô đang thong dong đi xuyên qua hành lang giờ đã trở nên đông đúc và tiến về phía anh. Trong tay anh ta là một cuốn tiểu thuyết của Ed McBain. Mark đã nghĩ về việc phê bình anh ta vì tội đến muộn, nhưng làm thế để làm gì nhỉ. Kêu khóc trong một vụ đổ máu chả có tác dụng gì cả, anh ấy nghĩ, thậm chí còn bệnh hoạn nữa và anh lại cảm thấy buồn nôn… Mark kéo anh chàng cảnh sát sang một bên và tóm tắt cho anh ta về vụ giết người kép vừa rồi, nhưng không đề cập đến lí do tại sao hai nạn nhân đó lại quan trọng mà chỉ mô tả những gì đã xảy ra. Anh yêu cầu anh ta báo cáo cho Thủ trưởng của mình và bổ sung thêm là Đội Trọng án đang trên đường tới hiện trường. Tất nhiên, cũng không hé lộ thêm chút thông tin nào khác. Viên cảnh sát gọi điện về trụ sở cho sĩ quan trực ca đơn vị của mình và báo cáo lại chính xác tất cả những gì anh ấy vừa được nghe. Sở Cảnh sát Thủ đô thành phố Washington xử lí tới 600 vụ giết người mỗi năm.
Tất cả các nhân viên y tế đều nóng ruột chờ đợi - chắc hẳn họ còn phải chờ lâu. Nhịp độ hối hả trong công việc của họ đã thay thế nỗi hoảng sợ ban đầu. Mark vẫn hoang mang không biết phải làm gì tiếp theo. Sếp Stames đi đâu mới được? Lại thêm cả Calvert nữa? Họ đang ở chỗ chết tiệt nào không biết.
Anh đi lại chỗ viên cảnh sát một lần nữa. Anh chàng cảnh sát đang giải thích chi tiết lí do tại sao không ai được vào trong căn phòng đó... Mặc dù những lời giải thích đó không được thuyết phục cho lắm nhưng họ vẫn tiếp tục chờ đợi. Mark nói với viên cảnh sát đó rằng anh sẽ trở về Văn phòng Khu vực FBI thành phố Washington và không quên giữ bí mật về việc tại sao nạn nhân mang họ Casefikis đó lại quan trọng như vậy. Viên cảnh sát Thủ đô cảm thấy anh ta vẫn kiểm soát được tình hình. Đội Trọng án sẽ đến đó bất cứ lúc nào, nên viên cảnh sát nhắc nhở Mark rằng họ có thể sẽ muốn nói chuyện với anh ấy ngay trong đêm nay. Mark gật đầu và chia tay anh ta để về văn phòng.
Khi đi tới xe hơi của mình, Mark lấy đèn hiệu màu đỏ nhấp nháy từ bên hông xe rồi gắn lên nóc xe, gạt công tắc vào vị trí đặc biệt. Anh sẽ lái xe về nhanh nhất có thể, để tìm những người anh biết, những người hiểu rõ tình huống câu chuyện và cũng là những người có thể giải mã phần nào cơn ác mộng của anh đêm nay.
Mark bật điện đàm trên xe hơi. “Đặc vụ số 180 WFO27 đang thi hành nhiệm vụ. Vui lòng tìm và xác định vị trí của ông Stames và ông Calvert. Tình huống khẩn cấp. Tôi đang quay trở lại Văn phòng Khu vực ngay lập tức.”
27 Văn phòng Khu vực FBI tại thành phố Washington.
“Rõ, đặc vụ Andrews.”
“Đặc vụ số 180 WFO, báo cáo hết.”
Mười hai phút sau, Mark đã về đến Văn phòng Khu vực và đậu xe xong. Anh lao ngay tới chỗ thang máy. Người điều phối đưa anh ta lên tầng trên. Anh vội vàng chạy ra khỏi thang máy khi vừa đến nơi.
“Aspirin, Aspirin. Gã quái nào trực ca đêm nay vậy?”
“Ta là người trực ca duy nhất đêm nay, con trai.”
Ông nói, “Ta ở đây một mình.” Aspirin nhìn Mark qua cặp kính của mình, trông khá buồn chán, ông trả lời. “Đã xảy ra chuyện gì vậy?”
“Sếp Stames đang ở đâu? Calvert nữa, anh ta đâu rồi?” Mark khẩn khoản.
“Họ vừa về nhà cách đây gần một giờ đồng hồ rồi.”
Ôi trời đất ơi, chuyện quái quỷ gì thế nhỉ. Mình nên làm gì bây giờ đây. Aspirin không phải là người để anh trút bầu tâm sự, nhưng ông ấy lại là người duy nhất mà Mark có thể hỏi xin một lời khuyên. Và mặc dù Stames đã cẩn thận dặn dò anh ấy không được kể chi tiết câu chuyện kia với bất kỳ ai cho đến khi họ đã họp xong với Giám đốc Cục, thì đây vẫn là một tình huống khẩn cấp. Anh ấy sẽ không để lộ bất kỳ chi tiết nào cho ai nhưng anh ấy muốn biết một nhân viên đặc vụ FBI - một người đứng trong hàng ngũ của Hoover - phải làm những gì trong trường hợp này.
“Cháu phải tìm Stames và Calvert, bất kể họ đi đâu. Bác có gợi ý nào không?”
“Chà, trước hết, cậu đã thử dò tìm qua tín hiệu các đài phát thanh xe hơi chưa?” Aspirin hỏi Mark.
“Cháu đã yêu cầu Polly kiểm tra. Cháu sẽ nói cô ấy thử dò tìm lại lần nữa.”
Mark nhấc chiếc điện thoại gần nhất. “Polly, cô đã tìm được vị trí của sếp Stames hay đặc vụ Calvert bằng cách dò sóng của đài phát thanh xe hơi chưa?”
“Tôi vẫn đang cố gắng dò tìm đây, anh Andrews.” Mark cảm thấy thời gian dường như ngừng trôi, sự chờ đợi của anh ấy dường như vô tận, nhưng vẫn không phát hiện ra điều gì. “Thế nào rồi, Polly, có tìm thấy gì không?”
“Tôi đang cố gắng hết sức có thể, anh Andrews. Nhưng tín hiệu thu được chỉ là một âm thanh ù ù… khó hình dung.”
“Hãy thử dò tìm trên kênh Một, Hai, Ba hoặc Bốn. Hãy áp dụng bất kể cách gì có thể cho dù phải thử lại bao nhiêu lần. Hãy dò tìm từng trạm bắt sóng một xem sao.”
“Rõ, đặc vụ Andrews. Tôi chỉ có thể dò từng trạm một. Có tất cả bốn trạm nhưng tôi chỉ có thể dò từng trạm trong một thời điểm cụ thể.”
Mark nhận ra anh đang hoảng loạn. Lúc này anh cần ngồi xuống và suy nghĩ thấu đáo mọi điều. Vẫn chưa phải là ngày tận thế mà - hay chính là ngày đó đã đến?
“Họ không có trên kênh Một, anh Andrews ạ. Không có trên trạm Hai. Tại sao họ lại ở trên kênh Ba hoặc Bốn vào giờ này trong đêm nhỉ? Họ chỉ đang trên đường về nhà thôi mà.”
“Tôi không quan tâm họ sẽ đi đâu. Tôi chỉ cần tìm thấy họ. Cô thử dò tìm lại được không.”
“Được thôi. Không sao cả.” Polly lại thử dò tìm trên kênh Ba. Cô lại lần nữa thử dò tìm trên kênh Bốn. Phải có quyền truy cập bằng mật khẩu thì cô mới dò tìm trên kênh Năm hoặc kênh Sáu được. Mark nhìn Aspirin. Chỉ nhân viên phụ trách ca trực mới được ủy quyền truy cập mật khẩu.
“Đây là một tình huống khẩn cấp. Cháu xin thề với bác, đó là một tình huống khẩn cấp.”
Aspirin bảo Polly thử dò tìm trên kênh Năm và kênh Sáu - hai kênh kết nối qua tần số radio của Ủy ban Truyền thông Liên bang28 với FBI. Chúng thường được biết đến với tên viết tắt là KGB29: Thật buồn cười là các nhân viên FBI lại lấy KGB làm mã gọi điện đàm trong mạng lưới của họ. Nhưng tại thời điểm đó chuyện này chẳng có vẻ gì là đặc biệt buồn cười. Tín hiệu dò tìm mong muốn không xuất hiện trên Trạm KGB 5. Sau đó, trạm KGB 6 đã được dò tìm nhưng cũng chỉ có kết quả tương tự, không dò được tín hiệu mong muốn. Giờ thì biết làm sao đây? Chúa ơi, con biết làm gì bây giờ? Anh ấy đã rẽ vào đâu vậy trời? Aspirin nhìn Mark với rất nhiều câu hỏi trong đầu, nhưng không thực sự muốn tham gia sâu vào việc này.
28 Ủy ban Truyền thông Liên bang là một cơ quan độc lập trong Chính phủ Hoa Kỳ chuyên môn về những vấn đề truyền thông. Cơ quan này do đạo luật Quốc hội thành lập và trao quyền và đa số ủy viên được Tổng thống bổ nhiệm. Ủy ban hoạt động theo sáu mục đích chiến lược trong các khu vực truyền không dây (broadband), cạnh tranh, các khối tần số radio, báo chí, an toàn công cộng và nội an và hiện đại hóa Ủy ban.
29 KGB là cơ quan mật vụ ở trong cũng như ngoài nước tương tự của Liên Xô.
“Hãy luôn luôn ghi nhớ, con trai, C-Y-A30. Đó là chính là tấm vé vào cửa của con. Nhớ nhé C-Y-A.”
30 Trùng âm với CIA- Tên viết tắt của Central Intelligence Agency: Cục Tình Báo Trung Ương Hoa Kỳ.
“Cả những cái mã truy cập thổ tả của bác cũng không giúp cháu tìm ra sếp Stames đang ở đâu.” Mark nói, cố nén lòng để nói một cách bình tĩnh. “Thôi kệ, Aspirin, bác chơi tiếp trò giải ô chữ của mình đi.”
Mark bỏ lại Aspirin ở đó và đi vào phòng vệ sinh nam. Anh khum bàn tay hứng dưới vòi nước và vốc nước súc miệng - anh vẫn còn ám ảnh bởi mùi nôn mửa và mùi máu. Anh cố gắng loại bớt mùi khó chịu càng nhiều càng tốt. Anh trở lại Phòng Hình sự, ngồi xuống và từ từ đếm đến mười một cách chậm rãi. Anh phải quyết định mình sẽ làm gì tiếp và sau đó phải thực hiện những việc đó, cho dù có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa. Chắc hẳn sếp Stames và Calvert đã gặp phải chuyện gì đó rồi. Anh biết điều đã xảy ra với người đưa thư da đen và anh chàng người Hy Lạp. Có lẽ anh nên thử liên lạc với Giám đốc Cục, mặc dù đó là trường hợp bất đắc dĩ. Một người ở cấp bậc của Mark, một đặc vụ tập sự mới được hai năm, sẽ không thể chỉ cần nhấc điện thoại lên và gọi thẳng tới để xin được nói chuyện với Giám đốc Cục. Dù sao đi nữa thì anh ấy vẫn có thể giữ cuộc hẹn của Stames với Giám đốc vào lúc 10 giờ 30 phút sáng mai. Còn khoảng nửa ngày nữa mới đến lúc đó. Những hơn mười hai giờ đồng hồ ngồi chờ đợi trong khi không biết mình phải làm gì tiếp theo. Mười hai giờ đồng hồ chỉ ngồi ôm và giữ kín một một bí mật mà anh ấy không thể thảo luận với bất cứ ai. Mười hai giờ đồng hồ chỉ ngồi không với những thông tin mà anh không thể để cho bất cứ người nào khác biết.
Chuông điện thoại reo và anh nghe thấy giọng nói của Polly. Anh cầu nguyện rằng cô ấy gọi để báo tin đã tìm thấy Stames, nhưng Chúa đã không đáp lại lời cầu nguyện của anh ấy.
“Này, đặc vụ Andrews, anh còn ở đó không? Đội Trọng án đang gọi đến trên đường dây. Đại úy Hogan muốn nói chuyện với anh.”
“Anh Andrews phải không?”
“Vâng! Tôi đây, ngài Đại úy.”
“Anh có muốn nói với tôi điều gì không?”
Mark đã báo cáo một cách trung thực rằng Casefikis là một người nhập cư bất hợp pháp, anh ta đã trì hoãn việc điều trị cho vết thương ở chân của mình và cũng nói dối rằng Casefikis đã khẳng định anh ta đã bị một kẻ lừa gạt bắn, một gã tống tiền đe dọa sẽ khai ra anh ta là người nhập cư trái phép vào Hoa Kỳ. Một báo cáo đầy đủ bằng văn bản sẽ được gửi đến văn phòng của anh trong vòng buổi sáng ngày mai.
Vị thám tử có vẻ không tin vào câu chuyện của Mark cho lắm.
“Cậu đang giấu giếm tôi chuyện gì đó phải không anh chàng đặc vụ? Thế lúc đầu FBI làm gì ở đó? Sẽ có một cảnh tượng địa ngục trần gian nếu tôi phát hiện ra cậu đang ém thông tin. Tôi có thể không ngần ngại bắt cậu nếm trải lò than kinh khủng nhất ở Washington đấy.”
Mark nghĩ về việc Stames đã nhắc đi nhắc lại chỉ thị về việc phải giữ thông tin bí mật.
“Không đâu, tôi không giữ lại bất kỳ thông tin nào cả.” anh lên giọng tuyên bố. Anh biết mình đang run và giọng nói hầu như khá kém thuyết phục. Vị thám tử đến từ tổ Trọng án lầm bầm gì đó không nghe rõ lắm và hỏi thêm vài câu nữa rồi cúp máy. Mark đặt điện thoại xuống. Người anh đã rịn mồ hôi lấm tấm, quần áo vẫn dính sát vào da thịt anh. Anh đã thử gọi cho Norma Stames một lần nữa. Sếp Stames vẫn chưa về tới nhà. Anh lại gọi cho Polly và yêu cầu cô rà soát lại toàn bộ các kênh điện đàm theo tần số radio thêm một lần nữa nhưng vẫn không có thêm thông tin gì ngoại trừ một âm thanh kêu ù ù trên kênh Một. Cuối cùng, Mark từ bỏ chiếc điện thoại và nói với Aspirin rằng anh sẽ rời văn phòng. Aspirin dường như không bận tâm lắm đến anh.
Mark đi phăm phăm về phía thang máy rồi bước nhanh đến xe hơi riêng của anh ta. Phải về nhà đã, sau đó mới gọi điện cho Giám đốc Cục. Một lần nữa anh lại nhấn ga, chạy tốc độ nhanh qua những con đường hướng về nhà mình.
Nơi Mark ở không phải là khu phố xa xỉ nhất, nhưng góc phía Tây Nam của thành phố Washington sau khi được cải tạo đã trở thành nơi ở của nhiều người lao động có trình độ, trẻ tuổi và độc thân. Nó nằm trên khu bến tàu trên bờ sông, gần Sân khấu Arena, chiếm giữ một vị trí thuận tiện ngay cạnh ga tàu điện ngầm Metro. Một không gian sống dễ chịu, sôi nổi và không quá đắt đỏ - một chỗ phù hợp hoàn hảo với Mark.
Ngay khi vừa về đến căn hộ của mình, Mark chạy lên cầu thang, xông qua cửa và nhấc điện thoại lên. Sau vài hồi chuông reo, người thuộc văn phòng Cục FBI đã nhấc máy điện thoại và trả lời: “Văn phòng Giám đốc cục FBI. Sĩ quan trực ca đang nghe máy.”
Mark hít một hơi thật sâu.
“Tôi là đặc vụ Andrews, Văn phòng FBI khu vực Washington.” Mark bắt đầu một cách chậm rãi. “Tôi cần nói chuyện với Giám đốc, trường hợp ưu tiên và ngay lập tức.”
Giám đốc hình như đang ăn tối với bà Bộ trưởng Tư pháp tại nhà bà ấy. Mark xin số điện thoại tư gia bà Bộ trưởng. Liệu anh có thẩm quyền đặc biệt để liên lạc được với Giám đốc vào thời điểm này trong đêm không? Anh ấy có thẩm quyền đặc biệt, anh ấy có một cuộc hẹn với ông ấy vào lúc 10 giờ rưỡi sáng mai và vì thế, ơn Chúa, anh ấy có thẩm quyền đặc biệt đó.
Người đàn ông chắc chắn đã cảm nhận được Andrews đang tuyệt vọng đến mức nào.
“Tôi sẽ gọi lại cho anh ngay nếu anh để lại cho tôi số điện thoại của anh.”
Andrews biết rất rõ rằng việc đó chỉ đơn giản là để kiểm tra xem Mark có thực sự là đặc vụ FBI hay không và có đúng là anh đã có lịch hẹn gặp Giám đốc Cục vào buổi sáng mai hay không. Sau một phút, điện thoại của anh ấy reo lên, viên sĩ quan trực ca đã gọi lại.
“Giám đốc vẫn đang ở nhà bà Bộ trưởng Tư pháp. Số nhà riêng của bà ấy là 761-4386.”
Mark đã quay số đó.
“Tư gia bà Edelman xin nghe.” Một giọng nói nghiêm túc trả lời điện thoại.
“Tôi là đặc vụ Mark Andrews.” Anh bắt đầu. “Tôi cần nói chuyện với Giám đốc Cục Điều tra Liên bang.”
Mark nói một cách từ tốn và rõ ràng, mặc dù anh vẫn còn run. Câu trả lời mà một người đàn ông đang mang trong mình nỗi lo lắng lớn chưa từng có đêm hôm đó nhận lại được có vẻ trớ trêu: Bữa ăn tối kéo dài hơn dự kiến.
“Xin vui lòng giữ máy trong giây lát, thưa anh?” Anh đợi, tiếp tục đợi và lại tiếp tục đợi máy nữa.
Một giọng nói khác trả lời điện thoại: “Tôi, Tyson đang nghe đây.”
Mark hít lấy một hơi thật sâu và đi thẳng vào câu chuyện.
“Tôi là đặc vụ FBI Mark Andrews. Tôi có hẹn để gặp Sếp cùng với Giám đốc Văn phòng FBI khu vực Washington Stames và đặc vụ FBI Calvert vào lúc 10 giờ 30 sáng mai. Có lẽ ông không rõ chi tiết, thưa sếp, bởi vì lịch hẹn được xác nhận thông qua bà McGregor sau khi ông đã rời khỏi văn phòng. Tôi phải nói chuyện với ông ngay lập tức. Sếp có lẽ sẽ muốn gọi lại cho tôi sau. Tôi đang ở nhà riêng.”
“Được rồi, Andrews.” Ông Tyson nói. “Tôi sẽ gọi lại cho cậu, đọc số điện thoại nhà cậu cho tôi đi.”
Mark đọc số điện thoại cho ông Giám đốc FBI.
“Chàng trai trẻ,” Tyson nói, “việc này chắc chắn nên được ưu tiên phải không.”
“Chính xác là như thế, thưa sếp.”
Mark lại đợi. Một phút trôi qua, rồi lại một phút nữa. Liệu rằng có phải ông Giám đốc Cục FBI - Tyson - đã gạt bỏ anh ta như một gã ngốc không? Chuyện gì đang xảy ra vậy? Ba phút. Bốn phút. Rõ ràng ông ấy đang kiểm tra kỹ lưỡng hơn cả viên sĩ quan trực ca của mình lúc trước.
Điện thoại reo. Mark chồm lên chụp lấy ống nghe. “Xin chào, Mark. Roger đây. Anh muốn ra ngoài uống bia không?”
“Không phải bây giờ, Roger, không phải bây giờ.” Anh dập điện thoại xuống.
Điện thoại lại reo lên, ngay lập tức.
“Phải rồi, Andrews, anh có điều gì phải nói với tôi đúng không? Anh nói ngay đi và tập trung vào điểm mấu chốt của câu chuyện.”
“Tôi muốn gặp sếp bây giờ, thưa sếp. Tôi xin ông 15 phút thôi và tôi cần sếp nói cho tôi biết tôi phải làm cái quái gì ngay bây giờ.”
Mark hối hận ngay lúc anh bật ra cụm từ cái quái gì.
“Được chứ, nếu đó là trường hợp khẩn cấp. Cậu có biết địa chỉ tư gia của bà Bộ trưởng Tư pháp không?”
“Không, thưa ông.”
“Vậy cậu ghi lại đi: Số 2942 phố Edgewood, Arlington.”
Mark đặt ống nghe điện thoại xuống, viết lại địa chỉ một cách cẩn thận bằng chữ in hoa vào bên trong một cuốn sổ bìa cứng có khóa bấm - một sản phẩm quảng cáo bảo hiểm nhân thọ - và gọi điện cho Aspirin - người không bao giờ giải được đủ bảy ô đố chữ trên tờ báo.
“Nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra, ông có thể tìm tôi theo tần số radio của điện đàm, tôi sẽ giữ cho điện đàm luôn mở trên trên kênh Hai. Kênh Một bị trục trặc gì đó.”
Aspirin sụt sịt. Các đặc vụ trẻ ngày nay hay quan trọng hóa quá mức mọi chuyện. Sẽ chẳng bao giờ có chuyện đó dưới thời J. Edgar Hoover và cũng không nên được phép xảy ra trong thời buổi bây giờ. Dù sao thì cũng chỉ còn một năm nữa là ông nghỉ hưu rồi. Ông quay trở lại trò chơi ô chữ. Bảy ô chữ, mười chữ cái: Tập hợp những người ủng hộ hành động của một chính khách gian hùng là gì? Aspirin bắt đầu suy đoán để giải câu đố.
Mark Andrews cũng đang suy nghĩ khi anh vội vã bước vào thang máy, rồi băng nhanh ra đường. Anh ngồi vào xe của mình và chạy với tốc độ cao đến khu Arlington. Anh phi thẳng đến East Basin Drive rồi chạy sang Đại lộ Độc Lập, qua Đài tưởng niệm Lincoln để đến cầu Tưởng Niệm. Mark lái với tốc độ nhanh nhất so với từ đầu buổi tối đến giờ. Anh vừa lái xe vừa nguyền rủa những người đang thong thả đi dạo, vơ vẩn qua lại dọc đường trong không khí ôn hòa và dễ chịu tối nay. Anh cũng nguyền rủa cả những người không chú ý đến cái đèn hiệu nhấp nháy ánh sáng màu đỏ mà anh đã gắn lên nóc xe. Mark nguyền rủa suốt cả đường đi. Stames ở đâu? Barry đã ở đâu? Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra với họ? Giám đốc liệu có nghĩ rằng anh ta bị điên?
Anh lái xe băng qua cầu Tưởng Niệm và đi theo lối ra đại lộ G.W. Một đoạn tắc nghẽn giao thông. Anh không thể di chuyển tiếp dù chỉ một xăng-ti-mét. Có lẽ đã xảy ra một vụ tai nạn. Sao mà một vụ tai nạn chết tiệt có thể xảy ra ngay đúng lúc này cơ chứ. Chỉ bấy nhiêu thôi là đủ làm hỏng việc của anh. Anh ấy nhích dần sang làn đường trung tâm và tận dụng đèn hiệu hú còi trên xe của mình. Đa số mọi người đều cho rằng anh ấy thuộc đội cảnh sát cứu hộ và hầu hết đều nhường đường để anh ấy đi qua. Cuối cùng anh ấy cũng đến được chỗ tập trung xe cảnh sát và xe cứu thương của đội cứu hộ. Một cảnh sát trẻ thuộc Cảnh sát Thủ đô tới gần xe của Mark và hỏi. “Anh có phụ trách gì trong vụ này không?”
“Không. Tôi thuộc FBI. Tôi đang trên đường đi Arlington. Trường hợp khẩn cấp.”
Mark rút và trình nhanh phù hiệu của mình. Viên cảnh sát mở đường cho anh đi qua. Anh chạy nhanh để thoát khỏi vụ tai nạn. Vụ tai nạn khốn kiếp. Khi anh đã ra khỏi đoạn đường ùn tắc vì vụ tai nạn, mật độ giao thông trở nên thưa thớt, dễ chịu. Mười lăm phút sau, anh đã đến được địa chỉ số 2942 Phố Edgewood, Arlington. Mark gọi để kiểm tra lần cuối xem Polly tại Văn phòng trụ sở Washington đã dò được tần số điện đàm trên xe của Stames và Calvert hay chưa. Vẫn chưa, cả Stames lẫn Calvert đều không gọi về văn phòng.
Mark nhảy ra khỏi xe. Trước khi anh ấy kịp tiến thêm một bước, một nhân viên mật vụ đã ngăn anh ấy lại. Mark rút phù hiệu FBI cho anh ta xem và thông báo anh có hẹn với Giám đốc Cục. Nhân viên Sở Mật vụ lịch sự yêu cầu anh chờ tại xe của mình. Sau khi xác nhận lại, Mark được dẫn vào một căn phòng nhỏ ngay bên phải hội trường. Một căn phòng được sử dụng dành cho mục đích nghiên cứu học tập. Giám đốc bước vào phòng. Mark đứng lên.
“Chào buổi tối, thưa Giám đốc.”
“Chào buổi tối, cậu Andrews. Cậu đã làm gián đoạn một bữa tối rất quan trọng. Tôi hi vọng cậu biết rõ mình đang làm gì.”
Giám đốc Cục nói một cách rất lạnh lùng và ngắn gọn, lộ rõ thái độ không hài lòng vì bị một đặc vụ cấp dưới mà ông không biết đưa vào một cuộc họp khẩn.
Mark kể lại một lượt các chi tiết trong toàn bộ câu chuyện từ cuộc gặp đầu tiên với Stames cho đến quyết định báo cáo vượt cấp của anh ấy. Vị Giám đốc vẫn giữ nét mặt bình tĩnh, không chút biến động trong suốt quá trình tường thuật của Mark và vẫn không có chút biểu lộ nào khác khi Mark đã kết thúc câu chuyện. Suy nghĩ duy nhất xuất hiện trong đầu của Mark khi đó là: Mình đã sai rồi. Lẽ ra anh ấy nên tiếp tục cố gắng tìm bằng được Stames và Calvert. Bây giờ, có lẽ họ đã về đến nhà rồi cũng nên. Anh ấy chờ đợi, trán rịn mồ hôi lấm tấm. Có lẽ đây là ngày cuối cùng của anh ấy trong hàng ngũ nhân viên FBI. Nhưng những lời đầu tiên mà Giám đốc nói đã khiến anh bất ngờ.
“Cậu đã thực hiện rất chính xác những điều cần phải làm, Andrews ạ. Tôi cũng sẽ quyết định hành động tương tự nếu tôi ở vị trí của cậu. Chắc chắn là cậu đã phải lấy hết dũng khí và quyết tâm mới đến đây gặp tôi để báo cáo hết mọi chuyện như thế này.” Ông ấy nhìn Mark với ánh mắt cương nghị và rắn rỏi. “Cậu chắc là chỉ có Stames, Calvert, cậu và tôi biết rõ các chi tiết của vụ việc xảy ra tối nay chứ? Cậu đảm bảo không còn ai khác bên Sở Mật vụ hay Sở Cảnh sát Thủ đô biết việc này chứ?”
”Đúng vậy, thưa sếp, không ai ngoài bốn chúng ta.”
“Và cả ba người đã đặt lịch hẹn gặp tôi vào lúc 10 giờ rưỡi sáng ngày mai, đúng không?”
“Vâng, thưa sếp.”
“Tốt. Ghi chú lại những lời tôi nói sau đây.”
Mark lấy ra một tập ghi chú từ một cái túi ở bên trong áo khoác.
“Cậu có số điện thoại tư gia bà Bộ trưởng Tư pháp ở đây không?”
“Có, thưa sếp.”
“Số điện thoại nhà riêng của tôi là 721-4069. Hãy học thuộc nó và sau đó hủy bỏ hết mấy tờ ghi chú đi. Bây giờ tôi sẽ nói cho cậu biết chính xác cậu cần làm gì tiếp theo. Đầu tiên, hãy quay trở lại Văn phòng FBI Khu vực Washington. Tìm kiếm Stames và Calvert thêm một lần nữa. Hãy gọi đến các nhà xác, gọi cho các bệnh viện, gọi tới các bốt cảnh sát đường cao tốc. Nếu không có thêm manh mối nào, tôi sẽ gặp lại cậu trong văn phòng của tôi lúc 8 giờ 30 phút sáng mai, 8 giờ 30 phút chứ không phải 10 giờ 30 phút. Đó là nhiệm vụ đầu tiên của cậu. Tiếp theo, nhiệm vụ thứ hai là thu thập danh sách tên của các nhân viên cảnh sát trong Đội Trọng án – những người đã xử lí vụ giết người tại bệnh viện cùng với Sở Cảnh sát Thủ đô và báo cáo lại cho tôi. Bây giờ, hãy nói cho tôi biết – nếu tôi có quyền được biết - cậu đã không nói với họ về lí do mà cậu tới tìm gã Casefikis đó chứ?”
“Không một chi tiết nào, thưa sếp.”
“Tốt.”
Bà Bộ trưởng Tư pháp ghé đầu vào cửa phòng. “Mọi chuyện vẫn ổn chứ, ông Halt?”
“Vẫn ổn, cảm ơn cô, Marian. Tôi đoán cô chưa từng gặp đặc vụ Andrews của Văn phòng FBI Khu vực Washington.”
“Vâng. Rất vui được biết anh, anh Andrews.”
“Chào buổi tối, thưa bà.”
“Ông cần nói chuyện lâu không, ông Halt?”
“Không đâu, tôi sẽ quay lại ngay sau khi tôi dặn dò ngắn gọn anh Andrews vài điều.”
“Có chuyện gì đặc biệt không ông Halt?”
“Không, không có gì đáng lo cả.”
Giám đốc rõ ràng đã quyết định không ai được biết về câu chuyện cho đến khi chính ông ấy điều tra rõ ngọn ngành.
“Tôi đã nói đến đâu rồi nhỉ?”
“Sếp bảo tôi trở về Văn phòng FBI Khu vực Washington và tiếp tục kiểm tra để tìm xem được Stames và Calvert đang ở đâu.”
“Đúng rồi.”
“Và sau đó gọi điện đến các nhà xác, bệnh viện và bốt cảnh sát đường cao tốc.”
“Đúng.”
“Và ông yêu cầu tôi lấy danh sách tên các sĩ quan trong Đội Trọng án liên quan đến vụ Casefikis.”
“Đúng. Cậu tiếp tục ghi chú lại như sau: kiểm tra tên của tất cả nhân viên bệnh viện và khách đến thăm, cũng như bất kỳ người nào khác có thể được xác định là đã ở trong vùng lân cận căn phòng số 4308 trong khoảng thời gian hai người kia vẫn được biết là còn sống cho tới thời điểm cậu phát hiện ra họ đã chết. Kiểm tra tên của hai nạn nhân bị giết thông qua NCIC31 và danh mục hồ sơ của Cục để thu thập các thông tin cơ bản mà biết đâu chúng ta đã có. Lấy dấu vân tay của tất cả những người làm nhiệm vụ, khách đến thăm và tất cả những người khác có thể xác định được là đã xuất hiện ở gần phòng 4308. Đừng quên dấu vân tay của hai nạn nhân đã chết. Chúng ta cần những dấu vân tay này cho hai mục đích: một là loại bỏ và hai là nhận dạng những kẻ tình nghi.
31 Trung tâm thông tin tội phạm quốc gia, hay NCIC, được gọi là huyết mạch của cơ quan thực thi pháp luật, một cơ sở xử lí dữ liệu tội phạm có thể được khai thác bởi hầu như mọi cơ quan tư pháp hình sự trên toàn quốc, 24 giờ một ngày, 365 ngày một năm.
Nếu cậu không tìm thấy Stames và Calvert, như tôi đã nói, hãy gặp tôi lúc 8 giờ 30 phút tại văn phòng của tôi vào sáng mai. Nếu có bất cứ điều gì khác phát sinh trong tối nay, cậu hãy gọi cho tôi ở đây hoặc ở nhà tôi. Đừng ngần ngại. Nếu sau 11 giờ 30, tôi chắc chắn đã ở nhà. Nếu gọi cho tôi qua điện thoại, hãy sử dụng một cái tên bí mật – để tôi nghĩ xem - Julius32 – chúng ta hãy hi vọng rằng đó không phải là một lời tiên tri và cho tôi số điện thoại của cậu. Hãy chắc chắn rằng chỗ cậu có dùng điện thoại tính phí và tôi sẽ gọi lại cho cậu ngay lập tức. Đừng làm phiền tôi trước 7 giờ 15 phút sáng, trừ khi có việc gì đó thực sự quan trọng. Cậu đã hiểu và nắm rõ tất cả những điều đó chưa?”
32 Julius Caesar: một nhà lãnh đạo quân sự, nhà chính trị và tác giả văn xuôi latin lớn của La Mã cổ đại. Ông đóng vai trò then chốt trong sự chuyển đổi Cộng hòa La Mã thành Đế chế La Mã. Các thành công quân sự lớn lao của Caesar đã mang lại cho ông quyền lực quân sự tối thượng; đe dọa đến chỗ đứng của Pompey, người đã ngả về phe của Viện Nguyên lão sau khi Crassus mất trong trận Carrhae năm 53 TCN.
“Rõ, thưa sếp.”
“Được rồi. Tôi nghĩ tôi sẽ quay trở lại với bữa tối.” Mark đứng dậy và sẵn sàng rời đi. Giám đốc đặt một tay lên vai anh.
“Đừng lo lắng, chàng trai trẻ. Những việc này đôi khi cũng vẫn xảy ra. Cậu đã quyết định đúng. Cậu đã thể hiện tính tự chủ rất cao trong một tình huống khó khăn. Bây giờ thì hãy bắt tay vào việc đi.”
“Rõ, thưa sếp.”
Mark cảm thấy như vơi bớt được gánh nặng trong lòng vì có một người hiểu được những gì anh đã phải trải qua - một người nắm giữ trọng trách lớn hơn và có khả năng bảo vệ tốt hơn đã ở đó để chia sẻ với anh.
Trên đường quay lại văn phòng trụ sở, anh nhấc micro trên xe hơi và gọi: “WFO 180 đang gọi. Có tin gì về anh Stames chưa?”
“Chưa có tin gì, WFO 180, nhưng chúng tôi sẽ tiếp tục dò tìm.”
Aspirin vẫn ở đó khi anh về lại văn phòng mà không biết rằng Mark vừa nói chuyện với Giám đốc Cục FBI. Aspirin đã gặp cả bốn Giám đốc tại các bữa tiệc cocktail, mặc dù vậy, có lẽ chắc hẳn không ai trong số họ còn nhớ tên ông ấy.
“Tình trạng khẩn cấp qua rồi chứ, con trai?”
“Vâng.” Mark nói dối. “Chúng ta có tin gì về Stames hay Calvert chưa ạ?” Anh cố gắng giấu đi sự lo lắng trong giọng nói.
“Không, họ chắc chắn đã rẽ vào đâu đó trên đường về nhà. Không có gì phải lo lắng về chuyện đó. Những chú cừu nhỏ vẫn tìm được đường quay trở lại mà không cần cậu phải túm chặt đuôi chúng.”
Mark thực sự lo lắng. Anh đến văn phòng của mình và nhấc điện thoại lên. Polly vẫn không nghe thấy tín hiệu nào của họ. Vẫn chỉ là tiếng ù ù liên tục trên kênh Một. Anh gọi cho Norma Stames, vẫn không có tin tức gì thêm. Cô Stames hỏi xem chuyện đó có gì đáng lo hay không.
“Không có gì đâu.” Lại một lời nói dối khác. Liệu anh có tỏ ra quá thờ ơ hay chăng? “Chỉ là, chúng tôi không thể tìm ra anh ấy đã tạt vào quán bar nào thôi.”
Cô Stames cười phá lên, nhưng cô biết chắc chắn rằng Nick chưa từng có thói quen lui tới quán bar.
Mark đã thử gọi lại cho Calvert; vẫn không có hồi âm từ căn hộ của anh chàng cử nhân. Từ trong sâu thẳm tiềm thức, Mark biết chắc chắn đã có chuyện gì đó không hay xảy ra. Anh chỉ không biết đó là chuyện gì. Bây giờ thì ít nhất Giám đốc Cục cũng đã gặp anh và ông ấy cũng đã biết tất cả mọi chuyện. Anh liếc nhìn đồng hồ đeo tay: 11 giờ 15 phút. Anh ấy đã định làm gì tối nay nhỉ? Ôi, chết tiệt thật. Anh ấy đã thuyết phục một cô gái xinh đẹp ăn tối cùng. Và đến tận giờ này, anh ấy vẫn chưa báo lại, anh ấy nhấc điện thoại lên. Ít nhất, giờ này cô ấy cũng được an toàn ở nhà, nơi cô ấy lẽ ra nên ở đó.
“Xin chào.”
“Xin chào, Elizabeth, là tôi, Mark Andrews. Tôi thực sự xin lỗi về việc đã không đến chỗ hẹn tối nay. Có vài chuyện đã xảy ra, ngoài tầm kiểm soát của tôi.”
Sự căng thẳng bộc lộ một cách rõ ràng, không thể chối cãi trong giọng nói của anh.
“Đừng lo.” Cô ấy nói một cách nhẹ nhàng. “Anh đã cảnh báo tôi rằng anh không đáng tin tưởng.”
“Tôi hi vọng cô sẽ cho tôi nợ lại lời mời. Mong là, đến sáng mai, tôi có thể sắp xếp ổn thỏa mọi việc. Có lẽ, khi đó, tôi có thể gặp lại cô chăng?”
“Sáng mai ư?” Cô ấy hỏi. “Nếu anh đang nghĩ đến bệnh viện thì sáng mai tôi không có ca trực.”
Mark ngập ngừng, nghĩ thật nhanh xem anh có thể nói những gì một cách thận trọng. “Vậy sao? Thế cũng tốt, tôi e rằng tôi có thông tin không được hay lắm. Casefikis và anh bạn cùng phòng đã bị giết dã man vào tối nay. Cảnh sát Thủ đô đang tiếp nhận và xử lí vụ đó, nhưng chúng tôi vẫn chưa có tiến triển gì mới.”
“Bị giết ư? Cả hai sao? Tại sao? Ai có thể làm việc đó chứ? Casefikis không thể nào bị giết vô cớ được, đúng không?” Cô ấy nói một tràng xối xả như bắn súng liên thanh. “Chuyện này là thế nào vậy? Ôi Chúa ơi, không, anh đừng nói gì cả. Dù sao đi nữa thì, anh chắc chắn cũng sẽ không nói thật với tôi.”
“Tôi lãng phí thời gian nói dối cô để làm gì, Elizabeth? Cô nghĩ xem, tôi thực sự đã phải xử lí một vụ án mạng tối nay và tôi nợ cô một bữa ăn thịnh soạn vì đã trót phá hỏng cả buổi tối của cô. Hôm nào tôi mời lại cô một bữa khác được không?”
“Nhất trí. Tuy nhiên, một vụ án mạng thì không hợp khẩu vị cho lắm. Tôi hi vọng anh sẽ bắt kẻ gây án chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chúng tôi đã từng thấy hậu quả của rất nhiều vụ bạo lực tại Woodrow Wilson, nhưng chuyện đó không thường xuyên lắm ở chỗ chúng tôi.”
“Tôi biết. Tôi xin lỗi đã kéo cô vào chuyện này. Chúc ngủ ngon, Elizabeth. Ngủ ngon nhé.”
“Anh cũng thế, Mark. Nếu anh có thể ngủ được.” Mark đặt điện thoại xuống và ngay lập tức anh lại cảm thấy vô cùng nặng nề sau tất cả những gì đã xảy ra trong ngày hôm nay. Làm gì bây giờ đây? Thực tế mà nói, anh không thể làm gì được trước 8 giờ 30 phút sáng ngày mai, ngoại trừ giữ liên lạc theo tần số điện đàm radio cho đến khi về tới nhà. Thật là vô nghĩa khi chỉ ngồi một chỗ và nhìn ra ngoài cửa sổ với cảm giác bất lực, mệt mỏi và cô đơn. Anh đi đến chỗ Aspirin, nói với ông ấy rằng anh chuẩn bị về nhà và sẽ gọi lại cứ mười lăm phút một lần bởi vì anh ấy vẫn lo lắng và muốn nói chuyện với Stames và Calvert. Aspirin thậm chí còn không ngước nhìn lên.
“Được thôi.” Ông nói, trò chơi giải đoán ô chữ đã chiếm trọn tâm trí ông. Ông ấy đã hoàn thành mười một manh mối, một dấu hiệu cho thấy tối nay là một buổi tối yên tĩnh.
Mark lái xe xuôi theo Đại lộ Pennsylvania về phía căn hộ của mình. Tại vòng xuyến giao thông đầu tiên, một khách du lịch không biết rằng anh ta có quyền ưu tiên nên vô tình cản trở giao thông. Thằng cha chết giẫm, Mark nghĩ. Những du khách ở Washington không biết cách tách ra khỏi vòng xuyến, họ sẽ phải đi vòng không biết bao nhiêu lần mới rẽ được. Cuối cùng, Mark cũng xoay sở được, nương theo vòng xuyến để quay lại Đại lộ Pennsylvania. Anh tiếp tục lái xe chầm chậm về nhà, đến khu căn hộ đảo Tiber. Đầu anh nặng trĩu những suy tư, còn lòng thì đầy bất an. Anh bật radio trên xe để nghe bản tin lúc nửa đêm - phải loại bỏ những suy nghĩ nặng nề của mình bằng cách nào đó thôi. Không có chuyện gì to tát được nói đến trong bản tin đêm đó, giọng đọc của phát thanh viên nghe có vẻ khá buồn chán. Tổng thống đã tổ chức một cuộc họp báo về dự luật Kiểm soát súng và tình hình ở Nam Phi dường như đang trở nên ngày càng tồi tệ hơn. Sau đó là thời lượng bản tin địa phương: đã xảy ra một vụ tai nạn ô tô dọc Đại lộ G.W. Có hai chiếc ô tô liên quan đến vụ tai nạn này, cả hai chiếc đều đang được cần cẩu kéo lên khỏi lòng sông dưới ánh đèn pha công suất mạnh. Theo các nhân chứng, một cặp vợ chồng đến từ thành phố Jacksonville đang trong kỳ nghỉ ở khu vực Washington, một trong hai chiếc xe màu đen hiệu Lincoln, chiếc còn lại là một chiếc xe Ford mui kín, màu xanh lục. Ngoài ra chưa có thêm thông tin chi tiết nào khác.
Một chiếc xe chiếc xe Ford mui kín, màu xanh lục. Mặc dù Mark đã không thực sự tập trung nghe bản tin đó, nhưng thông tin đó cứ lặp đi lặp lại trong đầu anh – một chiếc xe Ford mui kín, màu xanh lục? Ôi không, Chúa ơi, làm ơn, không phải là xe của họ chứ? Anh đổi hướng, rẽ phải ở đường Số 9 hướng đến Đại lộ Maine, suýt quệt phải một họng nước cứu hỏa vì khuất tầm nhìn và tức tốc quay trở lại cầu Tưởng Niệm, nơi anh chỉ mới ở đó hai giờ trước. Các con đường đã thông thoáng hơn nên anh có thể đến nơi chỉ sau vài phút. Hiện trường vụ tai nạn vẫn còn đông nghịt các nhân viên Sở Cảnh sát Thủ đô. Một làn đường của Đại lộ G.W đã bị chặn lại bởi các rào chắn. Mark đỗ xe trên vệ cỏ và chạy lên chỗ rào chắn. Anh trình phù hiệu FBI ra và được dẫn tới chỗ nhân viên sĩ quan phụ trách vụ việc; anh ấy giải thích rằng anh lo ngại một trong những chiếc xe liên quan có thể là xe do một đặc vụ FBI điều khiển.
“Có tìm được thêm gì chưa vậy, Sĩ quan?”
“Vẫn chưa đưa được họ lên.” Viên thanh tra trả lời. “Chúng tôi chỉ có hai nhân chứng nhìn thấy vụ tai nạn. Nếu nó đúng là vụ tai nạn thì rõ ràng họ đã chạy xe chạy một cách rất buồn cười. Họ sẽ được trục vớt lên trong khoảng ba mươi phút nữa. Chúng ta chỉ có thể chờ đợi.”
Mark đi đến ven đường để theo dõi; từ những chiếc cần cẩu to lớn cho đến những người nhái nhỏ bé đang lặn ngụp, tìm kiếm trên khúc sông dưới ánh đèn pha cực mạnh tỏa sáng cả một vùng rộng lớn. Ba mươi phút chờ đợi kéo dài ra như vô tận. Mark rùng mình, run lên trong thời tiết giá lạnh, chờ đợi và dõi theo. Bốn mươi phút trôi qua. Rồi năm mươi phút. Phải đến hơn một giờ sau, chiếc Lincoln đen mới được vớt lên. Bên trong chiếc xe là một thi thể. Một người đàn ông thận trọng, anh ta vẫn còn đang thắt dây an toàn. Cảnh sát tiến đến ngay lập tức. Mark quay lại gặp viên sĩ quan phụ trách và hỏi xem phải mất bao lâu nữa, chiếc xe thứ hai mới được vớt lên.
“Không lâu đâu. Thế chắc chiếc Lincoln đó không phải là xe thuộc đơn vị anh?”
“Không phải.” Mark trả lời.
Mười phút, rồi hai mươi phút lại trôi qua, anh đã nhìn thấy đỉnh chiếc xe thứ hai, một chiếc xe màu xanh lục đậm. Anh đã nhìn thấy một bên hông xe, một trong những cửa sổ của chiếc xe hơi mở hé ra khiến anh nhìn thấy toàn bộ chiếc xe. Có hai người đàn ông ở trong đó. Anh lại nhìn thấy biển số xe. Lần thứ hai trong tối hôm đó, Mark cảm thấy mình như muốn phát bệnh. Gần như suýt bật khóc, anh chạy lại chỗ viên sĩ quan phụ trách và khai tên của hai người đàn ông trong xe, rồi chạy đến một chiếc điện thoại tính phí bên đường. Quãng đường sao mà xa. Anh vừa quay số, vừa liếc nhìn đồng hồ đeo tay - đã gần một giờ sáng rồi. Sau một hồi chuông reo, anh nghe thấy một giọng nói mệt mỏi trả lời, “Vâng, tôi nghe.”
Mark nói: “Julius.”
Giọng nói hỏi: “Số điện thoại anh đang gọi là gì?” Anh đọc số điện thoại. Ba mươi giây sau, chiếc điện thoại có chuông.
“Chà, Andrews. Bây giờ là một giờ sáng.”
“Tôi biết, thưa sếp, tôi đã tìm ra Stames và Calvert. Họ đã chết.”
Sau một khoảnh khắc hẫng lại, giọng nói giờ đây đã tỉnh táo hẳn.
“Anh có chắc chắn không?”
“Chắc chắn, thưa sếp.”
Mark báo cáo các chi tiết về vụ tai nạn xe hơi, anh cố gắng giữ giọng nói tự nhiên như bình thường, không để lộ sự kiệt quệ hay xúc động nào.
“Hãy gọi về văn phòng của cậu và báo cáo ngay lập tức, Andrews,” Tyson nói, “và đừng tiết lộ bất kỳ chi tiết nào về câu chuyện mà cậu đã nói với tôi tối nay. Cậu chỉ cần thông báo cho họ về vụ tai nạn xe hơi – không thêm gì nữa. Sau đó, thu thập thêm mọi thông tin có thể từ phía Cảnh sát. Hãy đến gặp tôi tại văn phòng của tôi lúc 7 giờ 30 phút sáng mai, không phải 8 giờ 30 phút nữa. Cậu hãy đi qua lối vào rộng, ở một sườn khuất của tòa nhà. Sẽ có một người đàn ông đón cậu ở đó. Anh ta sẽ đến trước và chờ cậu nên đừng đến muộn. Về nhà ngay đi, cố gắng chợp mắt một chút và đừng để ai trông thấy cậu cho tới sáng mai. Đừng lo lắng, Andrews. Hai chúng ta đều hiểu và tôi sẽ cắt cử các đặc vụ điều tra các hạng mục mà tôi đã nói với cậu lúc trước.”
Điện thoại kêu lách ca lách cách. Mark quay số và gọi cho Aspirin, thật là một đêm trực hay ho làm sao đối với ông ấy. Anh nói lại với ông ta về Stames và Calvert rồi cúp máy đột ngột trước khi Aspirin có thể hỏi thêm bất kỳ câu hỏi nào. Anh trở lại xe của mình và từ từ lái xe xuyên qua màn đêm để về nhà. Hầu như không có bóng dáng một chiếc xe nào khác trên đường phố lúc này; màn sương mù buổi sớm giăng kín, phủ lên mọi thứ khiến cảnh vật trở nên mờ đục, bí ẩn như không phải cõi trần.
Ở lối vào gara để xe trong khu căn hộ, anh đã nhìn thấy Simon, một người phục vụ da đen, trẻ tuổi, người rất thích Mark và thậm chí còn thích chiếc xe Mercedes của Mark hơn cả chính anh. Mark đã trích hẳn một phần trong số tài sản mà anh thừa kế từ người dì của mình để sở hữu chiếc xe này ngay sau khi tốt nghiệp đại học và chưa từng hối tiếc về sự xa xỉ ngông cuồng của mình. Simon biết rõ Mark không có chỗ để xe riêng trong nhà để xe và luôn đề nghị đỗ xe giúp Mark, hoặc làm bất cứ điều gì khác để đổi lấy cơ hội được tự mình lái chiếc Mercedes SLC 580 màu bạc lộng lẫy đó. Mark thường bông đùa vài lời với Simon, nhưng tối nay, anh đưa chìa khóa xe cho anh ta mà không buồn nhìn anh ta lấy một cái.
“Tôi sẽ cần chiếc xe vào lúc 7 giờ sáng.” Anh nói với Simon và rảo bước quay đi.
“Được thôi, anh bạn.” Simon đáp lại.
Mark nghe thấy Simon vừa huýt sáo nhẹ nhàng vừa khởi động lại chiếc xe trước khi cánh cửa thang máy đóng lại sau lưng anh. Anh về đến căn hộ của mình. Ba phòng, tất cả đều trống rỗng. Anh khóa cửa lại và sau đó chốt chặt, một việc mà từ trước tới nay, anh ấy chưa từng làm bao giờ. Anh chậm chạp đi vòng quanh căn phòng, cởi bỏ quần áo, ném chiếc áo sơ mi chua nồng mùi mồ hôi vào thùng đựng đồ giặt. Anh tắm rửa sạch sẽ lần thứ ba trong tối hôm đó và trèo lên giường, mắt đăm đăm nhìn lên trần nhà màu trắng. Anh cố gắng giải mã điều gì đó có ý nghĩa của cả chuỗi sự việc vừa xảy ra đêm nay. Anh ấy cố ngủ. Sáu tiếng đã trôi qua và nếu anh ấy có chợp mắt được chút nào thì chắc cũng không quá vài phút.
Cũng trong đêm đó, có một người khác không chợp mắt nổi lấy vài phút mà cứ trằn trọc, thao thức, xoay người, trở mình qua lại trên chiếc giường của bà ấy tại Nhà Trắng.
Abraham Lincoln, John F. Kennedy, Martin Luther King, John Lennon và Robert Kennedy. Có bao nhiêu công dân ưu tú nữa cần phải hy sinh mạng sống của họ trước khi Nhà Trắng thông qua dự luật nhằm mục đích đưa cái quyền lợi có tính tự hủy hoại đó ra ngoài vòng pháp luật đây?
“Sẽ còn có những ai khác phải chết nữa?” Bà tự nhủ với chính mình. “Nếu phải là bản thân mình nữa thì không có thời điểm nào phù hợp hơn là. . .”
Bà quay lại và nhìn Edward. Vẻ mặt của ông, không nghi ngờ gì nữa, đảm bảo rằng ông chẳng bao giờ có những suy nghĩ tiêu cực đó trong đầu.