Sáng thứ Sáu, ngày 4 tháng Ba
6 giờ 27 phút
Cho đến sáu rưỡi sáng, Mark không thể nào chịu đựng thêm được nữa, anh trở dậy, ra khỏi giường và đi tắm. Mark diện một chiếc áo sơ mi sạch sẽ và bộ vét phẳng phiu, tươm tất. Từ trên khung cửa sổ căn hộ, anh phóng tầm mắt ra ngoài, lướt qua Kênh Washington, rồi tới Công viên East Potomac, suy nghĩ miên man về những sự việc xảy ra ngày hôm qua. Chỉ một vài tuần nữa thôi, hoa anh đào sẽ nở. Chỉ một vài tuần nữa thôi…
Mark khóa cửa căn hộ và quay lưng bước đi, trong anh bỗng dấy lên một niềm hạnh phúc giản dị rằng ít nhất mình vẫn còn sống và lại được tiếp tục tiến về phía trước. Simon đưa trả Mark chìa khóa xe; anh ấy đã cố xoay xở để tìm một chỗ trong bãi đậu xe riêng cho chiếc xe Mercedes.
Xe của Mark lăn bánh từ từ, chuyển hướng lên đường Số 6, rẽ trái vào đường G rồi rẽ phải vào đường Số 7. Không có phương tiện giao thông nào khác lưu thông trên đường vào thời điểm sáng sớm này, ngoại trừ xe tải. Anh chạy xe qua Bảo tàng Hirshhorn rồi cắt ngang vào đại lộ Độc Lập. Đến ngã tư giao giữa đường Số 7 và đại lộ Pennsylvania, sát ngay Viện Lưu trữ Quốc gia, Mark từ từ dừng lại chờ đèn đỏ. Tự nhiên, anh cảm thấy một cảm giác kỳ lạ như thể cuộc sống vẫn diễn ra bình thường và chẳng có chuyện gì xảy ra cả, mọi chuyện ngày hôm qua cứ như chỉ là một cơn ác mộng mà thôi. Anh sẽ đến văn phòng và sẽ thấy Nick Stames lẫn Barry Calvert đang ở đó như thường lệ. Viễn cảnh vụt tan biến khi anh nhìn sang phía bên trái của mình. Ở một đầu của con đường đại lộ vắng vẻ, anh có thể nhìn thấy khuôn viên Nhà Trắng bề thế và những mảng màu trắng của tòa nhà sừng sững lấp ló, xen kẽ giữa các vòm cây lá. Bên phải anh, ở một đầu khác của con đường đại lộ, Điện Capitol - tòa nhà Quốc hội lừng lững, lấp lóa trong ánh nắng sớm. Nổi lên ở khoảng giữa hai tòa nhà đó chính là trụ sở của FBI. ‘Trơ trọi giữa chiến tuyến’ - một suy nghĩ bối rối vụt lóe lên trong đầu Mark - Giám đốc FBI và anh đang đối mặt với thử thách của định mệnh.
Mark lái xe chạy xuống theo đoạn đường dốc ở phía sau Trụ sở FBI và đỗ lại đó. Một chàng trai trẻ mặc áo cộc tay màu xanh đậm có gắn phù hiệu, quần vải flanel màu xám, đi giày tối màu, đeo cà vạt màu xanh nhã nhặn, lịch sự đúng theo quy cách đồng phục của Cục, đang chờ anh ở đó. Một người đàn ông không rõ danh tính, Mark nghĩ, anh ta trông quá chỉnh tề so với một người chỉ vừa mới thức dậy. Mark Andrews cho anh ta xem phù hiệu FBI để xác thực danh tính của mình. Người nhân viên trẻ tuổi đó dẫn anh ấy đi về phía thang máy mà không nói lời nào cả. Thang máy đưa họ lên tầng bảy, tại đó, Mark được hộ tống trong yên lặng đến một căn phòng nhỏ và được yêu cầu hãy chờ ở đó.
Anh ngồi đợi trong phòng tiếp tân, ngay bên cạnh văn phòng Giám đốc, cùng với một chồng Thời báo và Tuần báo cũ thường thấy. Lẽ ra, hôm nay anh ấy đã đi nha sĩ. Lần đầu tiên trong đời, anh ấy ước thà đi khám răng còn hơn. Anh suy xét lại từng sự kiện đã diễn ra trong vòng mười bốn giờ qua. Anh từ một người vô lo, vô nghĩ trong suốt hai năm (trong số năm năm làm đặc vụ tập sự của FBI), giờ đã trở thành một người đang phải đối mặt với một tình huống ngàn cân treo sợi tóc, nguy hiểm đến cả tính mạng. Lần trước khi anh đến Cục chính là để tham gia phỏng vấn đầu vào khi anh nộp đơn xin gia nhập FBI, họ đã không nói cho anh biết rằng những tình huống như thế này có thể xảy ra. Họ toàn nói về chuyện lương, thưởng, ngày nghỉ lễ, một công việc có giá trị và đầy ý nghĩa, phục vụ quốc gia và dân tộc, mà không ai đề cập một chút nào về những người Hy Lạp nhập cư hay những bưu tá da đen bị cắt cổ. Cũng không một ai nói gì về việc những người bạn của anh có thể bị chết chìm dưới dòng sông Potomac. Anh rảo bước quanh phòng, cố gắng gạn lọc và sắp xếp các suy nghĩ của mình. Hôm qua đáng nhẽ ra là ngày nghỉ của anh, nhưng anh đã quyết định đi làm ngoài giờ để có thêm tiền. Có lẽ, nếu có một đặc vụ khác quay lại bệnh viện nhanh hơn thì vụ án mạng kép kia đã không xảy ra. Có lẽ nếu anh là người đã lái chiếc Ford mui kín đêm qua, thì người chìm trong lòng sông Potomac bây giờ không phải Stames và Calvert nữa. Có lẽ... Mark nhắm mắt lại và cảm thấy một luồng khí ớn lạnh bất giác chạy dọc sống lưng. Anh cố gắng để xoa dịu nỗi sợ hãi hoảng loạn đã làm anh tỉnh như sáo suốt cả đêm qua - Có lẽ, lần sau sẽ đến lượt anh.
Mắt anh dừng lại ở một tấm phù điêu trên tường. Trên đó tuyên bố rằng, trong hơn sáu mươi năm lịch sử của FBI, chỉ có ba mươi tư nhân viên hi sinh trong khi đang làm nhiệm vụ. Vậy mà đêm qua, cùng một lúc, hai đặc vụ đã ra đi. Sau đêm ấy, dòng chữ ghi trên tấm phù điêu đã không còn đúng nữa. Đôi mắt của Mark tiếp tục lướt nhìn xung quanh bức tường và dừng lại ở một bức hình lớn của Tòa án Tối cao - đại diện của Chính phủ và Pháp luật đang bắt tay nhau thân ái. Ở phía bên trái anh là chân dung năm vị Giám đốc, từ Hoover, Gray, Ruckelshaus, Kelley và giờ là H. A. L. Tyson đáng gờm, người mà bất cứ ai trong Cục cũng biết đến với cái tên viết tắt ‘Halt’. Rõ ràng, không ai ngoại trừ thư ký của ông, bà McGregor, biết tên thật của ông Tyson. Đoán tên thật của Giám đốc Cục đương nhiệm từ lâu đã trở thành một trò đố vui có thưởng trong toàn Cục Điều tra Liên bang. Khi ai đó mới gia nhập lực lượng, họ trả một đô-la cho bà McGregor - vị thư ký đã phục vụ các Giám đốc Cục trong suốt hai mươi bảy năm - để được đoán xem tên thật của Giám đốc Cục đương chức là gì. Nếu họ nói đúng, họ được hưởng toàn bộ số tiền đã tích góp được. Tổng số tiền trong quỹ đó hiện đã lên tới 3.516 đô-la. Mark đã đoán tên ông ấy là Hector. Bà McGregor đã phá lên cười và quỹ thắng cuộc của bà được làm giàu thêm một đô-la nữa. Nếu họ muốn đoán lần hai, họ phải trả một đô-la nữa, nhưng lần này nếu họ lại đoán sai, họ bị phạt mười đô-la. Có kha khá người đã thử đoán lần hai và quỹ thắng cuộc của bà Gregor cứ nhiều thêm mỗi khi có một nạn nhân mới.
Mark đã nảy ra ý tưởng kiểm tra hồ sơ dấu vân tay hình Sự. Hồ sơ lưu trữ dấu vân tay của Cục FBI chia làm ba loại: quân sự, dân sự và hình sự; tất cả các đặc vụ FBI đều lưu dấu vân tay của họ trong hồ sơ hình sự. Lưu dấu vân tay của mọi nhân viên đặc vụ là để dễ dàng theo dấu vết của họ nếu chẳng may có một đặc vụ FBI nào đó biến chất trở thành tội phạm hình sự, hoặc là để loại bỏ dấu vân tay của đặc vụ điều tra trên hiện trường vụ án. Những hồ sơ này rất hiếm khi được sử dụng. Mark đã tự cho là mình rất thông minh khi yêu cầu được xem thẻ dấu vân tay của Giám đốc Cục Tyson. Một trợ lý phòng Quản lý dấu vân tay của Cục đã trao thẻ của Giám đốc cho anh ấy. Thông tin ghi ‘Chiều cao: 1m85; Cân nặng: 81,5 cân; Tóc: nâu; Nghề nghiệp: Giám đốc FBI; Tên: Tyson, H. A. L.’. Không có tên thánh được ghi trong đó. Người trợ lý, một nhân viên không rõ tên tuổi khác trong bộ đồng phục màu xanh của Cục FBI, đã mỉm cười chua chát với Mark và nói đủ lớn để Mark nghe thấy khi anh trả lại tấm thẻ vào tập hồ sơ: “Lại một gã gà mờ nữa cho rằng mình sắp kiếm được ba nghìn đô-la một cách chóng vánh.”
Vì trong một thập kỷ trở lại đây, Cục ngày càng liên đới nhiều tới chính trị cho nên vị trí nhân viên chấp pháp chuyên trách chỉ dành cho một người mà Quốc hội đánh giá là có lý lịch xác thực và đáng tin cậy. Giám đốc Tyson có dòng máu chấp pháp chảy trong huyết quản của mình. Cụ nội của ông ấy là dân Wells Fargo, rong ruổi trên lưng ngựa với cây súng săn trên miền đất giữa San Francisco và Seattle, bang Washington33. Ông nội ông ấy là Thị trưởng Boston, đồng thời là Cảnh sát Trưởng thành phố, một sự kiêm nhiệm hiếm có. Cha ông ấy trước khi nghỉ hưu đã từng là một luật sư ưu tú của bang Massachusetts. Đó là lí do mà người cháu đã kế tục truyền thống gia đình và cuối cùng trở thành Giám đốc Cục Điều tra Liên bang, một điều không ai lấy làm lạ chút nào. Những giai thoại kể về ông ấy nhiều vô kể, Mark băn khoăn tự hỏi những chuyện đó đâu là thực, đâu là hư.
33 Bang Washington nằm ở khu Bờ Tây nước Mỹ, khác với Thủ đô Washington.
Ông Tyson là người đã ghi điểm thắng chung cuộc trong trận chung kết bóng bầu dục giữa hai trường Đại học Harvard và Yale. Rõ ràng là vậy, bởi điều đó được ghi lại trong hồ sơ của ông ấy; trong đó còn nói, ông ấy là vận động viên da trắng duy nhất trong đội tuyển Quyền Anh của Mỹ tham dự Olympic 1956 tại Melbourne. Có giai thoại kể rằng, Tyson từng nói với cố Tổng thống Nixon rằng ông ta thà làm tay sai cho quỷ dữ còn hơn làm lãnh đạo FBI dưới trướng Nixon.
Không ai dám chắc về điều đó, nhưng có một điều chắc chắn là phe của Tổng thống Kane không đã mất giọt mồ hôi nào để có được sự phục vụ của ông.
Vợ ông đã qua đời năm năm trước vì bệnh đa xơ cứng. Ông đã chăm sóc bà trong hai mươi năm bằng cả tấm chân tình của một người chồng chung thủy.
Ông ấy không e sợ bất cứ thế lực nào; danh tiếng về sự trung thực và thẳng thắn đã nâng uy tín của ông lên cao hơn cả những nhân viên chính phủ hàng đầu theo đánh giá của quốc gia. Sau một thời gian bất ổn, hậu quả từ sự ra đi của cố Giám đốc Cục Hoover, Halt Tyson đã khôi phục lại thanh thế của Cục như thời thập niên ba mươi và bốn mươi của thế kỷ hai mươi. Ông Tyson là một trong những lí do khiến Mark vui mừng cam kết phục vụ năm năm cuộc đời cho FBI.
Mark bắt đầu cảm thấy bồn chồn, anh đưa tay lần tìm để cởi nút giữa áo khoác. Bất kỳ đặc vụ nào cũng làm như thế khi họ cảm thấy bất an. Khóa đào tạo kéo dài mười lăm tuần tại Quantico dành cho nhân viên mới gia nhập Học viện FBI đã nhắc nhở nhiều lần rằng, họ phải luôn luôn cởi nút áo khoác để có thể dễ dàng rút súng đeo ở bao da chỗ thắt lưng và đừng bao giờ đeo súng gần vai. Chính vì thế, Mark cảm thấy hơi bực bội khi những bộ phim truyền hình dài tập hiểu sai về hành động đó. Bất cứ khi nào một đặc vụ FBI cảm nhận được sự nguy hiểm đang đến gần, anh ta sẽ mân mê cái nút áo giữa đó để yên tâm rằng áo khoác đã được cởi khuy. Mark cảm thấy nỗi sợ hãi nào đó, một nỗi sợ hãi gì đó mà anh không biết được, nỗi sợ đối với con người tên là H. A. L. Tyson, một nỗi sợ mà ngay cả khi đã có trong tay khẩu súng do Smith và Wesson34 sáng chế cũng không thể trấn an nổi.
34 Tập đoàn sản xuất vũ khí quân sự tại Mỹ, hiện vẫn giữ bằng sáng chế súng lục ổ quay.
Anh chàng đặc vụ trẻ tuổi không rõ tên tuổi, với ánh mắt cảnh giác, mặc áo cộc tay xanh đậm lúc trước, đã quay lại.
“Giám đốc sẽ gặp anh ngay bây giờ.”
Mark đứng dậy, hơi lưỡng lự một chút, thu hết can đảm, xoa tay vào quần để thấm bớt mồ hôi rịn ra trên lòng bàn tay, rồi cất bước đi theo nhân viên kia qua văn phòng bên ngoài, vào hẳn bên trong phòng làm việc riêng tư của Giám đốc. Ông Giám đốc đưa mắt nhìn lên, rồi vẫy tay ra hiệu cho anh đến ngồi vào một chiếc ghế, trong lúc chờ người nhân viên kia trở ra và đóng cửa phòng lại. Ngay cả trong tư thế ngồi, ông ấy trông vẫn đúng là một “mật thám đáng gờm” với cái đầu khá lớn, nằm ngay ngắn và vuông vức trên đôi bờ vai đồ sộ. Hai hàng lông mày rậm rất ăn nhập với mái tóc chắc khỏe màu nâu, không kiểu cách của ông ấy. Những lọn tóc xoăn tít, đến nỗi nếu không phải đó là tóc của H. A. L. Tyson, người ta sẽ nghĩ ngay rằng đó là một bộ tóc giả. Mặt bàn dường như đang cố gắng trốn thoát khỏi hai bàn tay bè bè, to lớn mà ông ấy đang đặt lên nó. Còn chiếc bàn kiểu dáng thanh nhã theo phong cách thời Nữ hoàng Anne thì khá thờ ơ trước sự thu hút của ông Giám đốc. Hai gò má ông ấy ửng đỏ, không phải vì rượu mà vì thời tiết. Phía sau chiếc ghế Giám đốc, lấp ló một người đàn ông khác, một người lực lưỡng, râu cạo gọn gàng, yên lặng, đúng chất cảnh sát.
Giám đốc lên tiếng. “Andrews, đây là Trợ lý Giám đốc Matthew Rogers. Tôi đã tóm lược cho anh ấy các sự việc xảy ra sau cái chết của Casefikis. Chúng ta sẽ đưa một số đặc vụ vào cuộc điều tra cùng với cậu.” Đôi mắt sắc nhọn màu tro của ông ấy nhìn xoáy vào Mark. “Tôi đã mất hai đặc vụ ưu tú nhất của mình trong ngày hôm qua, và sẽ không ai - tôi nhắc lại, không ai - có thể ngăn cản tôi tìm cho ra người phải chịu trách nhiệm về cái chết của họ, ngay cả khi đó là Tổng thống - cậu hiểu điều tôi nói chứ?”
“Rõ, thưa sếp.” Mark đáp khẽ.
“Cậu sẽ phải đảm bảo rằng báo chí đưa tin như thế nào đó để công chúng tin rằng sự việc xảy ra đêm qua chỉ là một vụ tai nạn xe hơi thông thường. Không một nhà báo nào kết nối các dữ kiện của vụ án mạng ở trung tâm y tế Woodrow Wilsson với cái chết của các đặc vụ FBI. Họ đâu có lí do gì để làm điều đó ở cái nước Mỹ này, nơi cứ hai mươi sáu phút lại có một vụ giết người xảy ra, đúng chứ?”
Một tệp hồ sơ của Sở Cảnh sát Thủ đô được ghi chú đánh dấu Cảnh sát Trưởng Sở Cảnh sát Thủ đô được đặt bên cạnh ông ấy. Thậm chí ngay cả họ - Sở cảnh sát Thủ đô - cũng bị chi phối.
“Andrews ạ, chúng ta…”
Cái từ chúng ta khiến Mark có cảm giác tầm quan trọng của mình được nâng lên.
“Chúng ta sẽ không phá vỡ ảo tưởng của chúng vội. Tôi đã phải nghiền ngẫm cẩn thận những gì cậu nói với tôi tối qua. Tôi sẽ tóm lược tình hình theo như cách mà tôi nhận định được. Cậu cứ ngắt lời tôi tự nhiên bất cứ lúc nào nếu muốn.”
Nếu như đây là một tình huống thông thường, có lẽ Mark đã phá lên cười rồi.
Giám đốc đang xem tệp hồ sơ.
“Một người nhập cư Hy Lạp muốn gặp người đứng đầu FBI.” Ông tiếp tục. “Có lẽ tôi nên chấp nhận yêu cầu của anh ấy nếu tôi biết trước việc đó.” Ông nhìn lên. “Tuy nhiên, các sự kiện chính miệng Casefikis đã khai với các cậu tại trung tâm y tế Woodrow Wilson và nội dung chính là anh ta tin chắc rằng có một âm mưu ám sát bà Tổng thống Hoa Kỳ sẽ xảy ra vào ngày mồng 10 tháng Ba. Anh ta đã nghe lỏm được thông tin này trong khi làm phục vụ tại một bữa trưa riêng tư ở một khách sạn thuộc phạm vi Georgetown, nơi mà anh ta cho rằng một Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ đã có mặt. Những chi tiết mà tôi vừa nói là đúng chứ, Andrews?”
“Vâng, đúng thưa sếp.”
Giám đốc nhìn xuống tập hồ sơ lần nữa.
“Cảnh sát đã lấy dấu vân tay của nạn nhân, nhưng chúng không được lưu trong hồ sơ của chúng ta cũng như hồ sơ của Sở Cảnh sát Thủ đô. Bởi vậy, cho đến thời điểm này, sau khi có tới bốn người bị giết đêm qua, chúng ta vẫn phải hành động dựa trên suy đoán rằng câu chuyện mà anh chàng nhập cư gốc Hy Lạp kia nói với chúng ta nhiều khả năng là sự thật. Anh ta có thể không biết toàn bộ câu chuyện và một số chi tiết cụ thể trong câu chuyện của anh ta có thể không hoàn toàn chính xác nhưng chắc chắn, anh ta và câu chuyện của anh ta phải liên quan tới một mưu đồ nào đó đủ lớn đến mức gây ra tới bốn vụ giết người trong một đêm. Tôi nghĩ chúng ta cũng có thể giả định rằng, dù kẻ nào đứng sau chuỗi sự kiện hiểm ác này đi chăng nữa, chúng cũng tin rằng chúng đã gạt bỏ được mọi trở ngại, rằng chắc chắn đã thủ tiêu hết tất cả những ai mà chúng cho rằng có biết ít nhiều về âm mưu đó. Hãy xem như là cậu may mắn đi, anh bạn trẻ ạ.”
“Vâng, thưa sếp.”
“Tôi đoán là, đã có lúc nào đó, cậu chợt nghĩ rằng những kẻ kia tưởng rằng chính là cậu chứ không phải Stames, là người đã ở trong chiếc xe Ford mui kín màu xanh đó, đúng không nào?”
Mark gật đầu. Anh đã nghĩ về một số điều khác nữa trong hơn mười giờ qua, và anh hi vọng cô Norma Stames sẽ không bao giờ biết chuyện này.
“Tôi muốn những kẻ chủ mưu nghĩ rằng chúng hiện không gặp bất kì khó khăn, trở ngại nào. Vậy nên, tôi sẽ để lịch trình của Tổng thống diễn ra theo đúng như kế hoạch trong tuần tới, ít nhất là tạm thời trong thời gian này.”
Mark đánh bạo đặt câu hỏi: “Nhưng thưa sếp, như thế liệu có đẩy bà ấy ra trước họng súng hay không?”
“Andrews, kẻ nào đó ngoài kia và có thể là một Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ đang lên kế hoạch ám sát Tổng thống. Đến giờ này, hắn đã mưu sát hai trong số những đặc vụ giỏi nhất của tôi, anh chàng nhập cư gốc Hy Lạp – nhân chứng có thể nhận ra hắn và một bưu tá da đen bị điếc – người có thể nhận diện kẻ xuống tay hạ sát Casefikis. Nếu chúng ta vội vã dồn lực công kích dữ dội thì không khác nào đánh rắn động cỏ, như thế sẽ khiến chúng cảnh giác. Chúng ta sẽ mất dấu và không có manh mối để tiếp tục điều tra, có thể sẽ không tài nào vạch mặt được những kẻ chủ mưu thực sự. Và nếu như thế, chúng ta chắc chắn sẽ không thể tóm cổ bọn chúng. Chúng ta chỉ có thể hi vọng bắt được chúng bằng một cách duy nhất, đó là cứ để cho những thằng khốn đó nghĩ rằng chúng vẫn ổn – đến tận phút chót. Chỉ bằng cách đó chúng ta mới có thể tra còng vào tay bọn chúng. Khiến bọn chúng sợ hãi thì không khó, nhưng tôi cho là không ổn. Chúng đã sử dụng những phương thức bạo lực đến như vậy để giữ bí mật cho kế hoạch của mình, thì chúng tất có một mục đích nào đó quan trọng hơn cả việc loại bỏ bà Tổng thống trong vòng bảy ngày tới. Chúng ta phải tìm ra mục đích đó là gì.”
“Chúng ta có nên nói cho bà Tổng thống biết chuyện này không?”
“Không, không, chưa phải lúc. Thề có Chúa chứng giám, trong hai năm qua, Dự thảo luật về Kiểm soát súng đã mang đến không biết bao nhiêu vấn đề mệt mỏi cho bà ấy rồi, không nói đến chuyện phải nhìn trước ngó sau và cố gắng nhận ra vị Thượng Nghị sĩ nào chính là Mark Antony35 và ai là Brutus36.”
35 người ủng hộ Hoàng đế La Mã Julius Caesar và từng là một trong những tướng lĩnh của ông.Antony được bổ nhiệm quyền cai trị Ý trong khi Caesar loại bỏ các đối thủ chính trị ở Hy Lạp, Bắc Phi và Tây Ban Nha.
36 một thành viên của Viện nguyên lão La Mã thuộc Cộng hòa La Mã. Người được biết đến nhiều nhất trong lịch sử hiện đại với tư cách là nhân vật đóng vai trò hàng đầu trong âm mưu ám sát Hoàng đế La Mã Julius Caesar.
“Vậy chúng ta phải làm những gì trong sáu ngày tới?”
“Cậu và tôi sẽ phải tìm ra tên Cassius (kẻ chủ mưu) đó. Và tên đó có thể không phải là người có dáng vẻ thanh gọn và thiện chiến.”
“Nếu chúng ta không tìm ra hắn ta thì sao?” Mark hỏi.
“Chúa phù hộ nước Mỹ.”
“Và nếu chúng ta tìm ra hắn ta thì sao?”
“Cậu có thể sẽ phải giết hắn ta.”
Mark nghĩ ngợi một lát. Anh chưa bao giờ giết ai trong đời và thậm chí còn chẳng dám nghĩ đến chuyện đó. Anh ấy không có ý định giết bất cứ thứ gì cả. Anh ấy còn không muốn dẫm chân lên côn trùng nữa là. Và ý nghĩ rằng người đầu tiên mà anh ấy có thể phải giết lại là một Thượng Nghị sĩ Hoa Kỳ thật là, phải nói rằng, ít nhiều khiến anh ấy nhụt chí.
“Đừng lo lắng quá, Andrews. Có lẽ cũng không đến mức đó đâu. Giờ thì tôi sẽ nói chi tiết cho cậu biết tôi định làm gì. Tôi sẽ thông báo ngắn gọn với Stuart Knight, Giám đốc Sở Mật vụ Hoa Kỳ, rằng hai sĩ quan của tôi đang điều tra một người đàn ông vì anh ta đã tuyên bố rằng Tổng thống Hoa Kỳ sẽ bị ám sát vào một thời điểm nào đó trong tháng tới. Tuy nhiên, tôi không định cho anh ta biết rằng một vị Thượng Nghị sĩ có thể có liên quan, cũng như việc hai đặc vụ của tôi vừa ra đi vì điều đó - những việc đó không thuộc trách nhiệm của anh ấy. Câu chuyện thực tế có thể chẳng liên quan gì đến một Thượng Nghị sĩ và tôi không phải đối phó với cả đống người chỉ có mỗi việc là săm soi các đại diện
dân cử của họ rồi tự hỏi ai trong số đó có khả năng là tội phạm hình sự.”
Trợ lý Giám đốc bây giờ mới hắng giọng và lên tiếng. “Tất nhiên, cũng có một số người trong Cục chúng ta cũng sẽ nghĩ như vậy.”
Giám đốc tiếp tục nói một cách kiên định: “Sáng nay, Andrews, cậu hãy viết một bản báo cáo, ghi rõ các thông tin và tình huống xảy ra vụ án mạng Casefikis và nộp cho Grant Nanna. Đừng đề cập gì đến cái chết của Stames và Calvert trong đó, tránh để bất kỳ ai kết nối hai vụ đó lại với nhau. Hãy báo cáo về nguy cơ đe dọa tính mạng Tổng thống, ngoại trừ việc có thể có một Thượng Nghị sĩ nào đó dính líu đến âm mưu này. Đó là cách mà anh sẽ làm, đúng không Matt?
“Vâng, thưa sếp.” Rogers nói. “Nếu chúng ta để lộ ra sự nghi ngờ của mình với những người không cần phải biết đến chúng thì có thể sẽ kích hoạt hành động siết chặt an ninh khiến những kẻ ám sát càng ẩn mình sâu hơn nữa; rồi chúng ta đơn giản là phải thu lại những viên bi của mình và chơi lại từ đầu, tất nhiên là nếu chúng ta đủ may mắn để có cơ hội thứ hai.”
“Đúng.” Giám đốc nói. “Chính vì thế, chúng ta sẽ làm theo cách đó, Andrews ạ. Có tới cả trăm Thượng Nghị sĩ và chỉ một người trong số đó sẽ cung cấp đầu mối duy nhất giúp chúng ta lần ra những kẻ chủ mưu.
Tìm ra Thượng Nghị sĩ đó sẽ là nhiệm vụ của cậu. Trợ lý của tôi sẽ cử thêm vài nhân viên đặc vụ dưới quyền để theo dõi một vài người có khả năng đưa đến các manh mối khác mà chúng ta đã biết. Không cần cho họ biết chi tiết đâu, Matt. Hãy bắt đầu điều tra từ nhà hàng Golden Duck.”
“Và kiểm tra từng khách sạn ở Georgetown để xem ai là người đã tổ chức bữa tiệc trưa riêng tư vào ngày hai bốn tháng Hai.” Roger nói. “Cả bệnh viện nữa. Có lẽ sẽ có ai đó đã nhìn thấy những kẻ mờ ám lởn vởn ở khu vực để xe hay hành lang. Những kẻ ám sát chắc chắn đã thấy chiếc xe Ford mui kín màu xanh lục của FBI ở đó khi Calvert và cậu đến để lấy lời khai của Casefikis. Tôi nghĩ đó là tất cả những gì mà chúng ta có thể làm tại thời điểm này.”
“Tôi đồng ý.” Ông Giám đốc nói. “Được rồi. Cảm ơn Matt. Tôi sẽ không làm anh mất thêm thời gian nữa. Vui lòng báo cho tôi biết ngay khi anh có phát hiện gì mới nhé.”
“Chắc chắn rồi, sếp.” Viên Trợ lý Giám đốc trả lời. Roger gật đầu chào Mark và rời đi.
Mark đã ngồi im lặng lắng nghe và hoàn toàn bị ấn tượng bởi khả năng ghi nhớ chi tiết, rõ ràng từng tình tiết vụ án của vị Giám đốc. Bộ não ông ấy chắc hẳn phải cấu tạo như một cái tủ hồ sơ nhiều ngăn.
Giám đốc nhấn một nút trên hệ thống điện thoại nội bộ của mình.
“Bà McGregor, làm ơn mang cho tôi hai tách cà phê nhé.”
“Vâng, thưa ông.”
“Từ giờ trở đi, Andrews, cậu hãy đến Cục lúc 7 giờ sáng để báo cáo cho tôi. Nếu có bất kỳ tình huống khẩn cấp nào phát sinh, hãy gọi cho tôi, nhớ đọc tên mật mã Julius và tôi cũng dùng tên mã đó khi tôi gọi cho cậu. Khi nghe thấy tôi nói ‘Julius’, cậu hãy dừng ngay tất cả mọi việc mà cậu đang làm. Cậu hiểu rõ rồi chứ?”
“Rõ, thưa sếp.”
“Giờ đến điểm quan trọng nhất. Trong bất kỳ trường hợp nào, nếu tôi chết hoặc mất tích, cậu chỉ được báo cáo lại với bà Bộ trưởng Tư pháp và Roger sẽ thực thi phần việc còn lại. Nếu cậu hi sinh, chàng trai trẻ ạ, tôi sẽ thay cậu thực hiện những việc còn lại.” Đây là lần đầu tiên vị Giám đốc Cục Tyson mỉm cười kể từ lúc gặp Mark - lời nói đùa đó không phải là ý tưởng của Mark. “Tôi đã xem hồ sơ và biết rằng cậu được hưởng hai tuần nghỉ phép. Vậy thì theo tôi, cậu nên bắt đầu kỳ nghỉ phép ngay đi, bắt đầu từ trưa ngày hôm nay. Tôi không muốn cậu làm việc ở cương vị chính thức trong vòng ít nhất một tuần tới. Điều phối viên Hình sự Grant Nanna đã nhận được thông báo về việc cậu sẽ được cử tới làm phụ tá cho tôi.” Vị Giám đốc tiếp tục. “Cậu có lẽ sẽ phải chịu đựng tôi cả ngày lẫn đêm trong suốt sáu ngày tới, anh bạn trẻ ạ, và chưa có ai từng phải chịu đựng tôi như thế trừ bà vợ quá cố của tôi.”
“Và sếp cũng phải chịu đựng tôi như thế.” Mark đáp lời nhanh mà không cần đắn đo suy nghĩ gì cả.
Anh cứ tưởng mình sẽ bị mắng sau câu đó, nhưng thay vào đó, vị Giám đốc lại mỉm cười lần nữa.
Bà McGregor đi vào, mang theo hai cốc cà phê cho hai người rồi rời đi. Vị Giám đốc nhấp một ngụm cà phê và đi quanh phòng như thể ông đang ở trong một cái lồng. Mark ngồi yên tại chỗ, mắt không ngừng dõi theo từng bước đi của Sếp Tyson. Thân hình ông lực lưỡng cùng đôi vai vạm vỡ nhấp nhô theo từng nhịp chân. Cái đầu lớn và mái tóc rậm lắc lư từ bên này sang bên kia. Ông ấy đang trải qua cái mà theo như cách nói của các cậu thiếu niên, một quá trình tư duy.
“Việc đầu tiên mà cậu sẽ phải làm ngay sau đây là kiểm tra xem những Thượng Nghị sĩ nào đã có mặt tại Washington vào ngày 24 tháng Hai, Andrews ạ. Bởi vì ngày đó sát vào dịp cuối tuần; vào những dịp như thế, hầu hết những gã bù nhìn rơm đó đều đang phiêu du đây đó khắp đất nước, phát biểu trong buổi diễn thuyết nào đó hoặc đi nghỉ cùng những đứa con nhõng nha nhõng nhẽo.”
Điều khiến mọi người yêu mến vị Giám đốc là ông ấy dám nói thẳng một cách rõ ràng trước mặt bọn họ, chứ không phải nói sau lưng. Mark mỉm cười và bắt đầu thả lỏng các cơ.
“Khi có danh sách những người đó rồi, chúng ta sẽ phân tích và tìm ra điểm chung của bọn họ. Hãy tách các nghị sĩ Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ thành hai danh sách riêng, rồi sau đó phân loại họ theo các nhóm lợi ích có chung người dẫn đầu trong Đảng, công khai hoặc riêng tư. Tiếp đó, chúng ta phải tìm ra những ai có mối quan hệ với Tổng thống Kane, cả các mối quan hệ thân tình, hữu hảo lẫn các mối quan hệ nghi kỵ, đối đầu, trong quá khứ cũng như hiện tại. Báo cáo của cậu sẽ phải có đủ các nội dung này và nó cần phải sẵn sàng cho cuộc thảo luận của chúng ta vào sáng sớm mai. Cậu đã rõ hết chưa?”
“Rõ, thưa sếp.”
“Giờ, còn một điều nữa mà tôi muốn cậu hiểu thật rõ, Andrews. Như cậu đã biết, tôi chắc chắn là như thế, FBI đã đứng ở một vị trí rất nhạy cảm về chính trị trong suốt thập kỷ qua. Các cơ quan giám sát trong Quốc hội lúc nào cũng chỉ chờ chúng ta hành động vượt quá thẩm quyền hợp pháp của mình. Nếu chúng ta, theo cách nào đó, áp đặt nghi vấn cho một thành viên Quốc hội mà không có bằng chứng không thể chối cãi, Quốc hội sẽ nhân cơ hội đó để đình chỉ, rút bỏ thẩm quyền và giải tán toàn Cục chúng ta. Quan điểm của tôi cũng tương tự như vậy. Các cơ quan Cảnh sát trong một nền Dân chủ phải chứng minh được rằng họ hoàn toàn đáng tin cậy và trung thành với chế độ chính trị. Phải trong sạch và khách quan hơn cả vợ của Ceasar37. Cậu hiểu điều này không?”
37 Một người phải tránh thu hút sự chú ý hoặc soi xét tiêu cực (bởi vì họ có liên quan đến một nhân vật nổi tiếng hoặc nổi bật). Julius Caesar bị cáo buộc đã sử dụng cụm từ “Vợ của Caesar phải hoàn toàn khách quan và đáng tin tưởng” để giải thích lí do tại sao ông ta ly dị vợ mình, bà Pompeia.
“Vâng, thưa sếp.”
“Tính từ hôm nay, chúng ta có sáu ngày, từ ngày mai chúng ta chỉ còn năm ngày và tôi muốn tận tay bắt tên chủ mưu này cùng những kẻ đồng lõa của hắn. Chỉ như thế thì cả hai chúng ta, không ai cần phải làm thêm giờ ngoài thời gian quy định nữa.”
“Sẽ không, thưa sếp.”
Giám đốc quay trở lại bàn làm việc và gọi bà McGregor vào phòng.
“Bà McGregor, đây là đặc vụ Andrews, người sẽ làm việc chặt chẽ với tôi để tiến hành một cuộc điều tra cực kỳ nhạy cảm trong sáu ngày tới. Bất cứ khi nào cậu ấy muốn gặp tôi, hãy để cậu ấy vào ngay lập tức. Nếu tôi đang làm việc với một ai khác trừ anh Rogers, hãy thông báo cho tôi ngay lập tức - không cần thủ tục rườm rà và không phải chờ đợi.”
“Vâng, thưa ông.”
“Và tôi sẽ rất cảm kích nếu bà không đề cập chuyện này với người khác.”
“Tất nhiên là không rồi, ông Tyson.”
Giám đốc quay sang Mark. “Bây giờ cậu quay lại Văn phòng Khu vực và bắt đầu làm việc đi. Tôi sẽ gặp lại cậu trong văn phòng này vào lúc 7 giờ sáng mai.”
Mark đứng dậy. Anh ấy đã không uống hết cốc cà phê; có lẽ đến ngày thứ sáu anh sẽ cảm thấy thoải mái khi nói như vậy. Anh bắt tay với vị Giám đốc và tiến về phía cửa ra vào. Ngay khi Mark vừa chạm vào tay nắm cửa, Giám đốc nói thêm: “Andrews, tôi hi vọng cậu sẽ luôn thật thận trọng. Hãy luôn luôn cảnh giác, nhìn trước ngó sau, thận trọng mọi lúc mọi nơi.”
Mark rùng mình và nhanh chóng rời khỏi phòng, đi xuôi theo hành lang, quay lưng áp vào tường khi anh bước vào thang máy, rồi rảo bước dọc lề lối đi ở tầng trệt, băng qua một nhóm khách du lịch đang ngắm nghía bức hình Mười tên tội phạm bị truy nã gắt gao nhất toàn nước Mỹ. Tuần tới, ai trong số họ sẽ là một Thượng Nghị sĩ đây?
Khi ra đến đường, Mark chạy luồn lách, né tránh các phương tiện giao thông trên đường cho đến khi tới Văn phòng FBI Khu vực Washington ở bên kia đường Đại lộ Pennsylvania. Sáng nay, văn phòng có vẻ khác lạ, không quen thuộc như trước kia chút nào. Họ đã mất đi hai người đồng nghiệp – hai đặc vụ ưu tú mà không dễ dàng gì có thể đào tạo được để thay thế vị trí của họ. Lá cờ trên đỉnh tòa nhà FBI và cả lá cờ trên đỉnh tòa nhà bưu điện cũ đều để rủ ở lưng chừng, nhằm tưởng niệm hai đặc vụ vừa ra đi.
Mark đi thẳng vào văn phòng của Điều phối viên Hình sự Grant Nanna. Ông ấy như già thêm chục tuổi sau đêm qua. Đối với ông ấy, hai người bạn đồng nghiệp, một sĩ quan cấp dưới trực tiếp và một chỉ huy cấp trên trực tiếp của ông ấy đã chết.
“Ngồi xuống đi, Mark.”
“Cảm ơn sếp.”
“Giám đốc Cục đã thông báo cho tôi sáng nay. Tôi đã không hỏi thêm bất cứ điều gì. Tôi hiểu anh sẽ bắt đầu nghỉ phép hai tuần tính từ trưa nay, và rằng anh chuẩn bị nộp cho tôi biên bản ghi nhớ những sự việc đã xảy ra tại bệnh viện. Tôi sẽ phải trình bản báo cáo đó cho cấp thẩm quyền cao hơn và kể từ thời điểm này, WFO chấm hết trách nhiệm về vụ đó. Đội Trọng án sẽ tiếp nhận và xử lí tiếp. Họ cũng đang cố gắng thuyết phục tôi tin rằng Nick và Barry đã chết vì một tai nạn xe hơi.”
“Vâng, thưa sếp.” Mark nói.
“Tôi không tin dù chỉ một từ trong số những lời lẽ vớ vẩn về vụ này.” Nanna nói. “Giờ thì đương nhiên anh bị dính vào vụ này rồi, và có thể anh sẽ vạch mặt, tóm cổ được những gã khốn kiếp đã gây nên những tội ác này. Khi nào anh tìm ra chúng, hãy băm vằm chúng thành muôn ngàn mảnh cho tôi, rồi gọi cho tôi để tôi có thể đến giúp anh. Bởi nếu như lũ khốn nạn đó để tôi sờ được vào gáy chúng thì...”
Mark nhìn Grant Nanna, rồi lại tế nhị đưa mắt ra chỗ khác một lần nữa, đợi cho đến khi người cấp trên của anh ta bình tĩnh trở lại, kiểm soát được cả vẻ mặt lẫn giọng nói của mình.
“Giờ thì anh không được phép liên lạc với tôi nữa, một khi anh đã rời khỏi văn phòng này, nhưng nếu tôi có thể giúp được gì, anh hãy cứ gọi cho tôi, bất cứ lúc nào. Đừng để Giám đốc biết là được, ông ấy sẽ giết cả hai chúng ta nếu ông ấy phát hiện ra chuyện đó. Bắt tay vào nhiệm vụ đi, Mark.”
Mark nhanh chóng rời khỏi phòng ông Grant Nanna để về văn phòng của mình. Anh ngồi xuống và viết báo cáo chính xác như Giám đốc đã chỉ dẫn, một bản tường thuật nhạt nhẽo và vắn tắt. Mark nộp lại bản báo cáo cho Nanna, ông ấy búng nhẹ vào tờ giấy rồi vứt nó vào chung với đống công văn gửi đi. “Mark, anh đã hoàn thành xong cái nhiệm vụ lập một báo cáo ngụy trang một cách gọn gàng, chóng vánh rồi đấy.”
Mark không nói gì cả. Anh ra khỏi Văn phòng FBI Khu vực Washington, nơi mà anh luôn cảm thấy được bảo vệ an toàn ở đó. Anh phải dựa vào chính mình để thực thi nhiệm vụ trong sáu ngày tới. Những người đàn ông tham vọng luôn muốn nhìn thấy một vài năm ở phía trước, để biết được sự nghiệp của họ trở nên như thế nào; nhưng Mark thì có thể sẽ phải sắp xếp tất cả chỉ trong một tuần.
Giám đốc Cục nhấn nút điện thoại nội bộ. Một nhân viên không rõ tên, mặc áo blazer cộc tay xanh đậm và quần xám nhạt bước vào phòng.
“Vâng, thưa sếp.”
“Tôi muốn các anh để mắt sát sao đến Andrews, cả ngày lẫn đêm. Hãy cắt cử sáu người, chia ba ca và báo cáo lại cho tôi vào mỗi buối sáng sớm. Tôi muốn biết mọi thông tin cơ bản về cậu ta, học vấn, bạn gái, cộng sự hoặc những người mà cậu ta kết giao, thói quen, sở thích, tôn giáo, các tổ chức mà cậu ta tham gia với tư cách thành viên,… tất cả mọi thứ vào 6 giờ 45 phút sáng mai. Anh rõ chưa?”
“Rõ, thưa sếp.”
E ngại rằng các nhân viên của Thượng viện có thể sinh nghi nếu một đặc vụ FBI dò hỏi thông tin về sếp của họ, Mark bắt đầu tự mình tìm kiếm và nghiên cứu tại Thư viện Quốc hội. Khi anh leo lên các cầu thang cao vút, anh nhớ đến một cảnh trong bộ phim Đoàn tùy tùng của Tổng thống, trong đó hai nhân vật phóng viên điều tra Woodward và Bernstein38 đã dành hàng giờ đồng hồ lục tung mọi ngóc ngách của cả tòa nhà chỉ để tìm một vài mảnh giấy trong vô vọng. Họ đã cố gắng tìm ra bằng chứng để chứng minh rằng E. Howard Hunt đã lấy đi các tư liệu về Edward M. Kennedy. Và đối với một đặc vụ FBI đang truy lùng dấu vết của một kẻ giết người, cũng giống như đối với các phóng viên điều tra, công việc này vốn là cuộc tìm kiếm chán ngắt và mệt mỏi, chứ không phải là một nhiệm vụ tỏa sáng, hấp dẫn – điều làm nên sự khác biệt giữa thành công và thất bại.
38 Hai phóng viên điều tra vụ Watergate dẫn đến việc chính quyền điều tra mạnh và sâu hơn dẫn đến vụ từ chức của Tổng thống Richard Nixon. Trong khi trước đó, các báo cáo điều tra của FBI đều bị kiểm soát và ém nhẹm để bảo vệ Tổng thống Nixon.
Mark đẩy cánh cửa treo biển “Phòng đọc” và bước vào sâu bên trong phòng đọc chính – một căn phòng lớn, hình tròn, mái vòm được trang trí bởi các tông màu trầm như vàng, be, màu gỉ sắt và màu đồng thau. Tầng trệt được xếp đầy những dãy bàn gỗ màu tối, chạy uốn cong bao bọc lấy trung tâm là khu vực tài liệu tham khảo. Hàng nghìn cuốn sách trên tầng hai được nhìn thấy từ khu vực dành cho người đọc ở tầng dưới, xuyên qua một mái vòm duyên dáng. Mark tiến tới một bàn tài liệu tham khảo và hỏi người thủ thư bằng một giọng nói khẽ khàng chuẩn mực trong các thư viện xem anh có thể tìm thấy các Báo cáo Quốc hội về những vấn đề hiện thời ở đâu.
“Phòng 244. Phòng đọc thư viện luật.”
“Tôi nên đi theo lối nào để đến được đó?”
“Quay trở lại nơi để danh mục theo thẻ, đi sang phía bên kia của tòa nhà và đi thang máy lên tầng hai.”
Mark cố gắng xoay xở để tìm ra Thư viện Luật, một căn phòng chữ nhật, màu trắng, có ba dãy giá sách ở bên tay trái. Sau khi hỏi một thủ thư khác, anh định vị được nơi lưu trữ các Báo cáo Quốc hội nằm trên các giá đựng tài liệu tham khảo màu nâu đậm dọc theo bức tường bên phải. Anh ấy mang theo một chồng cao ngất các báo cáo ghi ngày 24 tháng Hai tới một bàn dài còn trống chỗ và bắt đầu công việc đãi cát tìm vàng vô vị.
Sau khi đọc lướt qua các tài liệu liệt kê đạo luật, án lệ và quyết định của tòa án liên quan đến hoạt động của Thượng viện trong khoảng nửa giờ, Mark phát hiện, hóa ra anh đã gặp may. Rất nhiều Thượng Nghị sĩ đã rời Washington vào dịp cuối tuần, bởi vì theo danh sách điểm danh các Thượng Nghị sĩ trong ngày hai bốn tháng Hai, con số hiện diện tại thủ đô không bao giờ quá sáu mươi trên tổng số một trăm người. Các dự thảo luật đã được bỏ phiếu thông qua là các dự luật có tầm quan trọng, đủ lớn để khiến các vị Thượng Nghị sĩ này phải xuất hiện, cho dù họ đang náu mình ở bất cứ hang cùng ngõ hẻm nào trong Thượng viện hay trong thành phố. Sau khi Mark đã loại bỏ được các Thượng Nghị sĩ mà các Nghị sĩ kiêm Thư ký Thượng viện39 đã liệt kê vào danh sách nghỉ ốm hoặc vắng mặt có lí do chính đáng và thêm vào những người đơn thuần là đang được giao phó một công việc, Mark còn lại sáu mươi hai Thượng Nghị sĩ thuộc danh sách những người chắc chắn đã có mặt tại Washington vào ngày 24 tháng Hai. Anh kiểm tra lại một lần nữa ba mươi tám Thượng Nghị sĩ kia, từng người một. Một nhiệm vụ chán ngắt và mất thời gian. Tất cả bọn họ đều có một lí do nào đó để rời khỏi Washington vào ngày hôm đó.
39 Nguyên văn ‘Whip’ - Thượng Nghị sĩ chuyên trách điểm danh và thẩm tra tư cách các đại biểu của Đảng mình trong Nghị viện.
Anh liếc nhìn đồng hồ đeo tay của mình. Đã 12 giờ 15 phút, và anh thậm chí không thể dành ra chút thời gian để ăn trưa.