Các bạn ạ, bệnh nhân đến một phòng khám nào đó rồi được nhân viên y tế tiêm thuốc trực tiếp vào khớp, vào vai gáy mà không kèm theo một lời giải thích về thành phần, tác dụng, tác dụng phụ, biến chứng khi tiêm và bệnh nhân cũng không một thắc mắc hay câu hỏi đi kèm là điều hết sức… bình thường hiện nay. Thậm chí, khi bác sĩ hỏi kỹ thêm về tên thuốc, bệnh nhân cũng không biết. Một lần khác, bác sĩ kê đơn điều trị thoái hóa cột sống, bệnh nhân thắc mắc tại sao trong đơn lại không có… kháng sinh, hoặc bệnh nhân luôn bày tỏ mong muốn những thuốc gì “tốt nhất, đắt nhất”, trong khi thuốc đúng bệnh mới là điều quan trọng. Ngoài ra hiện nay, mọi người cũng dễ dàng mua hầu hết các loại thuốc ở bất cứ quầy dược nào mà không cần đơn kê từ các bác sĩ.
Do đó, sự hiểu biết của người dân về thuốc, tác dụng điều trị cũng như những mặt trái khủng khiếp của nó chưa thực sự cao, mọi người dễ dàng tiếp nhận viên thuốc cho vào miệng với hy vọng bệnh sẽ qua nhanh và sẽ chẳng mảy may nghĩ gì đến hậu quả lâu dài ẩn chứa phía sau. Mọi người đâu biết rằng, những mặt trái từ thuốc chữa bệnh mang đến có thể còn nặng nề hơn gấp rất nhiều lần, nếu chúng ta thiếu hiểu biết hoặc lạm dụng nó.
Với mong muốn có thể góp một phần nhỏ giúp mọi người hiểu biết hơn về vấn đề này, bác sĩ xin chia sẻ một số thông tin như sau:
1. Hơn một phần ba việc sử dụng kháng sinh ở người là không cần thiết
Theo trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (US CDC) có tới một phần ba đến một nửa việc sử dụng kháng sinh ở người là không cần thiết hoặc không phù hợp. Hầu hết các trường hợp đau họng, đau nhức xương khớp, sốt và hắt hơi sổ mũi… có nguyên nhân từ các virus, mà virus lại không bị tiêu diệt bởi kháng sinh, chính vì vậy kháng sinh sẽ không có tác dụng điều trị gì, thậm chí khi dùng kháng sinh sẽ làm cơ thể mệt mỏi hơn hoặc có thêm những tác dụng phụ khác. Khi có những triệu chứng như trên, chỉ cần các bạn ăn uống nâng cao thể trạng, tăng cường sử dụng hoa quả tươi, hạn chế ra ngoài gió và tránh tiếp xúc với mọi người. Ngoài ra có thể điều trị triệu chứng như: uống thuốc ho, long đờm, hạ sốt, bổ sung vitamin, dùng nước muối biển vệ sinh mũi hầu họng, thuốc làm co mạch hoặc kháng histamin… Chỉ khi bác sĩ xác định nguyên nhân của bệnh là do nhiễm khuẩn hoặc cảm cúm có bội nhiễm vi khuẩn thì mới được sử dụng những loại kháng sinh phù hợp.
Trong cuốn Dịch bệnh: kẻ thù nguy hiểm nhất, tiến sĩ Y khoa Michael T. Osterholm cho biết: Báo cáo Nguy cơ toàn cầu năm 2013 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã tuyên bố: “Mặc dù virus được nhắc đến nhiều hơn trên các phương tiện truyền thông, nhưng có thể cho rằng nguy cơ lớn nhất đối với sức khỏe loài người là các vi khuẩn kháng kháng sinh. Chúng ta sống trong thế giới của vi khuẩn, nơi chúng ta không bao giờ có thể dẫn trước trên đường cong đột biến”. Trong nghiên cứu Đánh giá về kháng thuốc, một nghiên cứu chi tiết được ủy thác bởi thủ tướng Anh David Cameron năm 2016 cũng đã xác định rằng, nếu vấn đề kháng kháng sinh không được quan tâm đúng mức, trong vòng 35 năm tới kháng kháng vi sinh vật có thể giết chết 300 triệu người trên toàn cầu và gây thiệt hại nền kinh tế lên đến 100 nghìn tỷ đô la Mỹ. Không có căn bệnh nào khác ngoại trừ cúm đại dịch, có thể gây ra hậu quả ấy. Thực tế, nếu xu hướng hiện tại không thay đổi, kháng thuốc có thể trở thành kẻ giết người lớn nhất trên thế giới, vượt qua cả bệnh tim và ung thư.
2. Thuốc kháng sinh không chữa bách bệnh
Nhiều người đang có suy nghĩ “Kháng sinh chữa bách bệnh”, sự thật lại không như vậy. Để dễ tưởng tượng, bệnh tật có thể chia làm bảy nhóm cơ bản, bao gồm: Bệnh lý bẩm sinh, bệnh lý chuyển hóa, bệnh lý do ngộ độc, bệnh lý miễn dịch, bệnh lý do thoái hóa, bệnh lý nhiễm trùng, những chấn thương do tai nạn gây ra. Trong bảy nhóm trên, hầu như chỉ có nhóm bệnh lý nhiễm trùng và những tai nạn rách da chảy máu, bệnh nhân mới có chỉ định sử dụng kháng sinh, đa số các bệnh lý còn lại sử dụng những nhóm thuốc chuyên biệt khác. Nói vậy để mọi người hình dung ra, kháng sinh không được chỉ định sử dụng nhiều như chúng ta nghĩ.
3. Kháng kháng sinh đang là vấn đề y tế nhức nhối toàn cầu
Khi một loại kháng sinh không còn có tác dụng trên một chủng vi khuẩn nhất định, những vi khuẩn này được gọi là kháng kháng sinh và đây chính là một trong những thách thức sức khỏe toàn cầu. Bất kỳ loại vi khuẩn nào tồn tại trong điều trị, kháng sinh đều có thể nhân lên và truyền lại tính kháng của nó cho thế hệ sau. Nguy hiểm hơn, một số vi khuẩn có thể chuyển các đặc tính kháng thuốc của chúng sang các chủng vi khuẩn khác làm cho tình trạng kháng thuốc càng trở nên phức tạp và lan rộng. Riêng ở Mỹ mỗi năm có khoảng 2 triệu ca nhiễm vi khuẩn kháng kháng sinh và trong đó có đến 23.000 ca tử vong. Ngoài ra, những chủng vi khuẩn kháng thuốc nguy hiểm như tụ cầu vàng, lao kháng thuốc, ký sinh trùng sốt rét đang từng giờ, từng phút được tạo ra và gây rất nhiều thách thức cho hệ thống y tế các quốc gia. Ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là châu Á, lao đã biến đổi từ một căn bệnh về cơ bản có thể điều trị được bằng kháng sinh nay trở thành một căn bệnh với những chủng kháng đa thuốc (MDR-Multi Drug Resistant), siêu kháng thuốc (XDR-Extensively Drug Resistant) hoặc kháng thuốc hoàn toàn (TDR-Totally Drug Resistant). Tiến sĩ Tom Frieden, giám đốc CDC Mỹ từng chia sẻ: “Tôi đã làm việc với nhiều bệnh nhân lao. Tôi chăm sóc cho họ ngay tại nước Mỹ, những bệnh nhân không còn có thể được điều trị bởi bất cứ loại thuốc nào. Đó là cảm giác kinh khủng và bất lực. Chúng ta đáng ra không nên gặp phải tình huống này”.
4. Mặt trái khác của kháng sinh
• Khi dùng kéo dài, kháng sinh gây rối loạn nghiêm trọng hệ vi khuẩn đường ruột, làm mất cân bằng hoạt động đường tiêu hóa dẫn đến tăng nguy cơ mắc bệnh lý tự miễn như bệnh viêm đường ruột và bệnh tiêu chảy phân mỡ…
• Ngộ độc gan-thận: Thuốc kháng sinh cũng là “khắc tinh” đối với gan và thận. Nhiều nghiên cứu cho thấy, thuốc kháng sinh rất hại cho mô gan, làm cho các chỉ số xét nghiệm chức năng gan như AST và ALT tăng vọt, trong đó phải kể đến kháng sinh Azithromycin, Clindamycin, kháng sinh nhóm metronidazole.
• Kháng sinh thuộc nhóm thuốc đầu bảng dễ gây dị ứng, sốc phản vệ, đặc biệt nhóm Penicilin, Amoxicilin…
• Mất cân bằng hệ vi khuẩn trong cơ thể, táo bón, chán ăn, chậm lớn…
• Ảnh hưởng đến một số cơ quan quan trọng ở trẻ em: xương khớp, men răng, tăng nguy cơ hen suyễn và dị ứng…
• Giảm tiết sữa sau sinh.
5. Bản chất của thuốc Tây là hóa chất tổng hợp
Thuốc Tây về cơ bản là những hóa chất tổng hợp: bất đắc dĩ chúng ta mới cho vào cơ thể để trị bệnh, các bạn nhé! Một số ảnh hưởng của nó gây ra cho chúng ta bao gồm:
• Với thuốc giảm đau: Có hai loại thuốc giảm đau hay dùng đó là Tylenol và thuốc chống viêm không steroid (NSAID). Tylenol là thuốc giảm đau có chứa acetaminophen, một phân tử đa năng có tác dụng giảm sốt, giảm đau rất tốt và được dùng rộng rãi với bệnh viêm khớp mãn tính. Tuy nhiên, acetaminophen là dược phẩm có thể gây tổn thương nghiêm trọng cho gan nếu sử dụng không đúng hướng dẫn, đặc biệt là những người có bệnh lý về gan hoặc hay uống rượu, ngoài ra đã có rất nhiều những nghiên cứu chỉ ra rằng Acetaminophen có liên quan đến khoảng hơn 30% các trường hợp suy thận, những nghiên cứu này được thực hiện ở những bệnh nhân suy thận và trong số đó có những bệnh nhân lạm dụng acetaminophen. Với NSAID, dị ứng nghiêm trọng và xuất huyết đường tiêu hóa là hai biến chứng hay gặp nhất, đặc biệt ở những người có bệnh lý viêm khớp kéo dài và kèm uống rượu.
• Thuốc tránh thai: Theo nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới, các loại thuốc tránh thai đường uống có thể làm giảm lượng axit folic, một số loại vitamin và khoáng chất như magiê, selen, kẽm… điều này có thể dẫn đến tình trạng thiếu hụt vi chất dinh dưỡng, dẫn đến khả năng tăng nguy cơ gây dị tật thai nhi, chuyển dạ đẻ non. Nguyên nhân vẫn chưa được xác định rõ, nhưng theo các nhà khoa học, rất có thể nguyên nhân liên quan đến estrogen và progestogens có trong thuốc tránh thai.
• Thuốc an thần, gây buồn ngủ: Đã có rất nhiều khuyến cáo khi sử dụng nhóm thuốc này, tuy nhiên có vẻ như mọi người đang cố tình làm ngơ. Thuốc gây tình trạng nghiện, nặng hơn nữa là gây tử vong nếu dùng quá liều là những mặt trái khi lạm dụng nhóm thuốc này, ngoài ra thuốc cũng có nguy cơ làm mất trí nhớ thoáng qua hoặc mất trí nhớ kéo dài, thời gian thải trừ thuốc có thể lên đến 20 giờ sau khi dùng cũng là một nguy cơ khi ta lạm dụng nhóm thuốc an thần, gây buồn ngủ.
• Aspirin: Hay còn có tên khác là axit acetylsalicylic, một loại thuốc có tác dụng giảm đau, hạ sốt, chống viêm, ức chế kết tập tiểu cầu, đây là thuốc đầu tay được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Tuy nhiên. những tác dụng phụ do aspirin “mang đến” cũng rất khủng khiếp như gây tăng nguy cơ xuất huyết (chảy máu mũi, xuất huyết dạ dày...), mất nước và tăng kali máu, nhiễm toan chuyển hóa và suy hô hấp. Ngoài ra với trẻ em dưới 12 tuổi, chúng ta không nên dùng Aspirin khi trẻ sốt hoặc cảm cúm, thủy đậu vì có thể gây suy thận cấp cũng như tăng nguy cơ trẻ bị hội chứng Reye (hội chứng não-gan rất nguy hiểm).
• Thuốc trị viêm loét dạ dày: Nhóm thuốc kháng axit (antacid) có thể gây nhiễm kiềm toàn thân, gây cạn kiệt phosphonat và táo bón, chán ăn. Sự hấp thu các vitamin nhóm B, đặc biệt là vitamin B12, folate và vitamin C cũng bị ảnh hưởng bởi các thuốc ức chế tiết axit dịch vị. Nếu bạn cần sử dụng thuốc ức chế axit dài ngày, điều quan trọng là tuân thủ chế độ ăn uống giàu chất dinh dưỡng và dễ tiêu hóa. Nhóm thuốc ức chế bơm proton hiện nay được ưu tiên dùng nhiều nhất vì tác dụng nhanh, mạnh và ít tác dụng phụ, tuy nhiên khi sử dụng, bệnh nhân vẫn thường đau đầu, buồn nôn và có thể là cả tiêu chảy. Với việc sử dụng lâu dài các loại thuốc này có thể dẫn đến một số hậu quả như loãng xương, thiếu máu do thiếu sắt và lâu lành vết thương.
• Thuốc dân gian, gia truyền: Hiện nay số lượng bệnh nhân tìm đến thuốc dân gian, gia truyền, thuốc Nam vẫn chiếm một tỷ lệ tương đối cao. Hiệu quả điều trị của thuốc thì chỉ có bệnh nhân cảm nhận được, tuy nhiên mặt trái của thuốc cũng không ít. Hàm lượng- thành phần thuốc, phụ phẩm, tác dụng và những tác dụng không mong muốn… là những thông tin mà chúng ta rất khó nắm tận tường khi lựa chọn sử dụng nhóm thuốc này. Có rất nhiều bệnh nhân đến viện sau một thời gian dùng thuốc gia truyền đã bị suy thận, suy gan, loét đường tiêu hóa nghiêm trọng, xuất huyết dưới da, rối loạn phân bố mỡ, loãng xương, phù mặt hoặc phù toàn thân… Thỉnh thoảng các bác sĩ còn gặp bệnh nhân bị ngộ độc kim loại nặng, sốc thuốc phải vào viện cấp cứu. Ngoài ra, hiện nay đã có nhiều trường hợp thuốc Tây (mà chủ yếu là corticoid) đã được các “thầy lang” pha trộn vào trong các gói thuốc cổ truyền để làm tăng nhanh tác dụng của thuốc nhưng lại chưa lường hết được những tác dụng phụ mà nó mang lại. Với nhóm thuốc này, bác sĩ khuyên mọi người nên tìm hiểu kỹ ngọn nguồn, tham khảo các thầy thuốc và báo sớm những triệu chứng bất thường sau khi dùng thuốc.
• Thuốc các con cháu gửi về: Bác sĩ khuyên nên chỉ sử dụng khi đọc được tên thuốc, biết được thành phần, tác dụng, tác dụng phụ và cả hạn sử dụng của thuốc. Tốt nhất vẫn nên tham khảo các bác sĩ hoặc dược sĩ. Tuyệt đối không nên tự ý dùng thuốc mà ngôn ngữ ghi trên hộp, thành phần tác dụng của thuốc… mình không đọc được.
6. Thuốc cũng có thể gây ra bệnh ung thư
Các thuốc hóa chất điều trị ung thư chứa tác nhân alkyl hóa như Cyclophosphamid, Chlorambucil, Busulfan… được chứng minh cũng góp phần gây nên các u lympho, bệnh bạch cầu và các thể ung thư khác. Ngoài ra, một số trong chúng cũng là tác nhân ức chế miễn dịch mạnh, vì vậy được sử dụng trong các bệnh miễn dịch, bao gồm viêm khớp dạng thấp và bệnh u hạt Wegener. Việc sử dụng lâu dài Diethylstibestrol (sử dụng trong điều trị ức chế tiết sữa sau sinh, các thể viêm âm đạo, triệu chứng mãn kinh…) được cho là gây ung thư nội mạc tử cung sau mãn kinh và là nguyên nhân của ung thư âm đạo của con do tiếp xúc trong buồng tử cung. (Theo Bệnh học các khối u – Trung tâm nghiên cứu và phát hiện sớm ung thư – Nhà xuất bản Y học, 2008). Các nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng có mối liên quan giữa việc sử dụng kháng sinh dài ngày với tỷ lệ bị ung thư đại tràng, buồng trứng và ung thư thận tăng cao ở cả hai giới, sử dụng thuốc tránh thai kéo dài hoặc các hóc- môn sinh dục nữ làm tăng nguy cơ bị ung thư buồng trứng và cổ tử cung ở nữ giới.
7. Hãy cẩn thận khi sử dụng thuốc Tây cho trẻ em
Trẻ em bị tiêu chảy cũng vậy, rất nhiều trường hợp có nguyên nhân là virus nên chỉ cần lưu ý bổ sung nước, điện giải và tăng cường cho trẻ bú, dinh dưỡng… Khi các bạn sử dụng kháng sinh với trẻ bị tiêu chảy do virus không chỉ làm cho trẻ mệt mỏi hơn mà hệ vi khuẩn đường ruột còn non nớt của trẻ cũng bị rối loạn nghiêm trọng, trẻ càng tiêu chảy nặng hơn cũng như ảnh hưởng lâu dài sau này. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc chúng ta lạm dụng kháng sinh ở trẻ em khi chức năng các cơ quan chưa hoàn thiện có nguy cơ gây ra những hậu quả kéo dài như tổn thương gan thận, loạn khuẩn đường tiêu hóa qua đó gây suy giảm hệ miễn dịch, đồng thời góp phần tạo ra những nhóm vi khuẩn kháng thuốc. Thông thường, những nhóm bệnh lý đau răng, đau mắt, tiêu chảy, viêm đường hô hấp trên ở trẻ em ít khi phải dùng kháng sinh và nếu có dùng thì các bạn nên tham khảo kỹ trước các bác sĩ nhi khoa.
8. Giải pháp nào cho những vấn đề trên?
• Thực hành vệ sinh tốt để tránh nhiễm trùng. Giảm nguy cơ nhiễm vi khuẩn trong thực phẩm bằng cách hạn chế uống sữa tươi, rửa tay thường xuyên và nấu thức ăn đến nhiệt độ sôi chín an toàn. Tạo thói quen rửa tay thường xuyên, hạn chế ra chỗ đông người, đặc biệt môi trường điều hòa, từ bỏ thói quen khạc nhổ bừa bãi và đại tiểu tiện không đúng chỗ.
• Tiêm chủng đầy đủ theo khuyến cáo. Một số loại vắc-xin được đề nghị bảo vệ chống nhiễm khuẩn, chẳng hạn như bệnh bạch hầu và ho gà.
• Chúng ta cần ghi nhớ: Hơn 80% cảm cúm thông thường là do virus, không cần dùng kháng sinh. Nhiều trẻ bị tiêu chảy, đau mắt, đau răng cũng như vậy.
• Khi ốm đau, các bạn cần đến khám tại các trung tâm y tế chính thống, chuyên khoa, uy tín. Phải thăm khám lâm sàng, dùng thuốc theo đơn và tuân thủ theo phác đồ điều trị của bác sĩ. Tuyệt đối không được tự ý đi mua thuốc dùng, tuyệt đối không được bỏ thuốc giữa chừng hoặc thêm thuốc, thay thuốc khi chưa báo cho bác sĩ điều trị. Không bao giờ uống thuốc kháng sinh theo đơn của người khác, không sử dụng thuốc quá hạn sử dụng hoặc đã bóc, mở lâu ngày.
• Tìm hiểu về thuốc trước khi sử dụng. Tất cả các loại thuốc theo toa đều có tờ thông tin gọi là Consumer Medicine Information (CMI). Chúng bao gồm thông tin về sử dụng, tác dụng phụ và biện pháp phòng ngừa. Dược sĩ có thể cung cấp CMI cho các bạn khi mua thuốc.
• Mọi người hãy hỏi dược sĩ để được tư vấn nếu muốn mua thuốc không bán theo toa. Họ có thể tư vấn cho các bạn về tác dụng phụ và tương tác với các loại thuốc khác mà chúng ta đang dùng. Hãy cho bác sĩ biết về tất cả các loại thuốc chúng ta đang uống, bao gồm thuốc theo toa, thuốc mua tự do và thuốc bổ sung.
• Luôn tìm hiểu về dinh dưỡng, ăn uống, sinh hoạt, thể thao và lối sống nếu chúng giúp làm giảm nhu cầu dùng thuốc, vì một số bệnh lý có thể được quản lý tốt hơn với những thay đổi về chế độ ăn uống và tập thể dục thường xuyên.
• Có một đánh giá hàng năm tất cả các loại thuốc chúng ta đang dùng. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những người lớn tuổi bởi vì, khi mọi người già đi, họ có nhiều khả năng bị tác dụng phụ của thuốc hơn. Bất kỳ loại thuốc nào không còn cần thiết sẽ được dừng lại. Hãy hỏi bác sĩ, dược sĩ nếu các bạn đang dùng thuốc để có thể được hưởng lợi từ “Đánh giá hàng năm” này.
• Dị ứng, sốc thuốc là những biến chứng nguy hiểm của việc dùng thuốc, đặc biệt là kháng sinh, vậy nên cần chủ động thông báo cho bác sĩ, dược sĩ biết được tiền sử dị ứng của mình hoặc người thân trước khi được kê đơn và mua thuốc.
• Kiểm tra chức năng gan thận định kỳ khi dùng thuốc Tây kéo dài, với những đối tượng nguy cơ cao như cơ địa dị ứng, bệnh lý gan-thận (suy gan, viêm gan, suy thận...), phụ nữ có thai và cho con bú, người có bệnh lý dạ dày… chúng ta cần tham khảo kỹ ý kiến của bác sĩ và dược sĩ trước khi dùng thuốc.
• Đối với những trẻ điều trị nhiễm trùng dai dẳng hoặc nhiễm trùng nhiều lần mà cần sử dụng kháng sinh nhiều thì nên sử dụng kháng sinh đồ cho trẻ để lựa chọn kháng sinh hợp lý nhất, tránh việc không đáp ứng hoặc đề phòng kháng kháng sinh.
• Mỗi gia đình nên xây dựng cho mình một chế độ ăn sử dụng những “kháng sinh thiên nhiên” như tỏi (chữa ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn), men vi sinh và sữa chua, ớt tươi, củ nghệ, các loại hành… nhằm giúp mọi thành viên trong nhà đều có hệ miễn dịch tốt, hạn chế ốm đau và giảm nguy cơ phải sử dụng thuốc.