(Thay lời nói đầu của tác giả)
Tháng 8-1955, tôi được lệnh của cấp trên về công tác ở đoàn Tân Trào.
Trên đường về vị trí tập trưng của đoàn, tâm trí tôi khắc sâu những lời căn dặn của các đồng chí cấp trên về trách nhiệm của mình trong vị trí công tác mới.
Qua trạm liên lạc, tôi đến nơi đóng quân của các cán bộ, chiến sĩ vừa được điều về xây dụng đoàn. Tuy chỉ trú quân tạm thời ít ngày nhưng anh em cũng đã biên chê thành đại đội và huấn luyện theo một chương trình ngắn hạn.
Chỉ lướt qua các phân đội, xem cách làm lán, đào công sự, bố trí nội vụ, trật tự tôi thấy ngay những cán bộ, chiến sĩ về đây đã được rèn luyện nhiều trong chiến đấu.
Trước khi vào nhiệm vụ, chúng tôi tổ chức một tối lửa trại. Mở đầu cuộc nói chuyện, để xem anh em hiểu về nhiệm vụ tới như thế nào, tôi hỏi:
- Theo ý các đồng chí, chúng ta sẽ nhận nhiệm vụ gì trong chiến dịch tới?
Nhiêu cánh tay giơ lên. Tôi chỉ một đồng chí, đồng chí ấy đứng lên nói một cách rất tự tin:
- Nhất định đoàn ta sẽ là những đơn vị "Quyết tử quân", khi tổng phản công sẽ thọc sâu vào trung tâm các thành phố lớn để chia cắt địch và "chộp" những bộ chỉ huy của chúng.
Đồng chí ấy vừa nói xong, cố một số đồng chí khác hô "đồng ý".
Tôi chỉ đồng chí khác. Đồng chí này phát biểu ngay:
- Tôi tin rằng chúng ta sẽ là những chiến sĩ xe tăng hoặc pháo binh đặc biệt.
Trước những lời phán đoán, anh em trong hàng quân tự cảm thấy là chưa đúng nên đều cười vui và chờ đợi tôi nói rõ nhiệm vụ. Sau khi nghe báo cáo về nhiệm vụ và nêu lên những gương dũng cảm, mưu trí của các chiến sĩ cảnh vệ trong công tác bảo vệ Trung ương Đảng, bảo vệ căn cứ địa, thì tiếng hô: "Quyết tâm làm tròn nhiệm vụ của Đảng giao cho" vang lên. Ngọn lửa trại bốc cao sáng rực như chúc mừng chúng tôi ngày mai bắt tay vào nhiệm vụ mới đạt được nhiều thắng lợi.
Liên hoan xong, chúng tôi hành quân vào "A.T.K" ( ). Đêm ấy trăng rất sáng. Núi, rừng, đèo, suối "A.T.K" dưới trăng thật đẹp một cách lạ thường. Nhìn cảnh vật tôi thầm nghĩ: Rồi đây toàn đoàn phải thuộc từng mái sàn, chóp núi, khoảng rừng, đoạn suối, mới có thể hoàn thành nhiệm vụ.
Về tới địa điểm đã định, chúng tôi được cán bộ chiến sĩ đã làm công tác cảnh vệ A.T.K lâu năm ra đón. Lực lượng cũ, mới hoà làm một để bảo vệ "A.T.K"!
*
Đối với chúng tôi - những cán bộ quen chiến đấu trong các sư đoàn tập trung thì kinh nghiệm công tác bảo vệ, đấu tranh chống kẻ địch bí mật còn ít, nên trong tâm trạng từng người đều có những lo lắng, băn khoăn.
Giữa lúc đó, đầu tháng 9-1953 có điện của đồng chí Trần Quốc Hoàn gọi lên báo cáo tình hình. Ban chỉ huy đoàn giao tôi đi.
Tôi chưa từng được gặp đồng chí Trần Quốc Hoàn nên trong buổi gặp gỡ này, lòng tôi không khỏi có sự dè dặt. Nhưng ngay từ phút đầu, trong căn phòng làm việc giản dị của đồng chí, tôi đã thấy ngay đây là tình thương yêu của người đồng chí hoạt động lâu năm với một đồng chí mới, hệt như sự săn sóc truyền nghề của người thợ già đối với người thợ trẻ buổi đầu cầm búa.
Trong lúc nghe tôi báo cáo tình hình, đồng chí rất chú ý từng điểm cụ thể một, đôi khi đồng chí hỏi lại cho rõ, hoặc đặt lại vấn đề để tôi trả lời, rồi đồng chí cho ý kiến cụ thể từng điểm. Sau đó, đồng chí đi sâu vào tâm tư riêng của tôi, đồng chí hỏi:
- Đối với công tác mới, bản thân đồng chí đã thực sự phấn khởi trước trách nhiệm Đảng giao chưa?
Tôi báo cáo:
- Phải xa đơn vị cũ đang đà vươn lên, lại không được tham dự chiến dịch sắp tới, thú thật lúc đầu tôi rất băn khoăn nhớ đơn vị, tiếc chiến dịch. Nhưng sau khi được Đảng giao rõ nhiệm vụ thì bây giờ chỉ còn có một tư tưởng lo sao làm tròn.
Thấy đồng chí Hoàn chăm chú lắng nghe, tôi nói thêm:
- Thưa đồng chí, chúng tôi đã tự xác định: được nhân dân nuôi dưỡng, Đảng tin giao nhiệm vụ, sao lại có thể kén chọn việc này vinh quang, việc kia không vinh quang được?
Đồng chí Hoàn tỏ ý bằng lòng và nói:
- Bất cứ việc gì Đảng và Bác đã giao cho chúng ta đều là vinh quang. Trách nhiệm của người đảng viên chúng ta là phải hoàn thành cho bằng được.
Dứt câu đồng chí dừng lại một lát rồi nói tiếp:
- Các đồng chí đã chiến đấu nhiều ắt rõ trách nhiệm trong việc đặt kế hoạch và tổ chức chiến đấu như thế nào, giá trị của mỗi trận chiến đấu ra sao? Song trong chiến đấu, nếu chẳng may không thành công một trận nào đó thì ta rút kinh nghiệm tổ chức lại trận địa để chiến đấu đợt khác. Còn công tác bảo vệ nếu đã để xảy va tổn thất thì không thể có gì đền bù lại được.
Tôi hiểu, đó là những chỉ thị của đồng chí về phương hướng công tác tư tưởng của chúng tôi trong công tác cảnh vệ. Đồng chí lại kể về những âm mưu của bọn đế quốc trong việc ám hại các lãnh tụ của phong trào Cộng sản quốc tế như: Lê-nin, Ten-Iơn-man v.v... Đồng chí còn nhắc tới những âm mưu của bọn Việt Nam Quốc dân Đảng trong thời kỳ chính phủ liên hiệp năm 1946 để tôi rõ thêm âm mưu thâm độc của địch. Rồi đồng chí kết luận:
- Đảng yêu cầu những chiến sĩ cảnh vệ chúng ta trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình thế nào của cách mạng cũng vẫn vững vàng trung thành với Đảng, sẵn sàng hy sinh bảo vệ Đảng.
Tới đây đông chí dừng lại suy nghĩ rồi dặn thêm:
- Bác và các đồng chí lãnh tụ của Đảng ta đã suốt đời hy sinh vì cách mạng, vì nhân dân. Chúng ta được làm nhiệm vụ cảnh vệ chính là thay mặt nhân dân săn sóc lại Người. Trong công tác phải tuyệt đối phục tùng mọi chỉ thị của Người. Trong sinh hoạt là tình ruột thịt phải biết chăm sóc Người từ bữa cơm, cốc nước, mũi chỉ, đường kim...
*
Một trong những kỷ niệm sâu sắc của tôi trong những ngày ở đoàn Tân Trào là buổi vào thăm đội bảo vệ Bác và nghiên cứu địa hình vùng đó.
Sớm hôm ấy, đồng chí Lý (một đồng chí làm công tác bảo vệ Bác đã lâu năm) tới đưa chúng tôi vào cơ quan của Bác.
Trước khi về đoàn Tân Trào, tôi đã được gặp Bác và nghe Người giáo dục đôi lần, song tôi đều đứng trong một khối tập thể cán bộ, giờ đây, chính bản thân sẽ được gặp riêng Bác, tự nhiên trong lòng tôi hồi hộp: Bác sẽ hỏi những gì? Tôi sẽ báo cáo ra sao? Nếu có đồng chí đoàn trưởng Tạ Đình Hiểu cùng đi thì hai đứa sẽ giúp nhau, giờ đây đồng chí ấy lại bận công tác của đoàn, chỉ cỏ một mình tôi, tôi vừa sung sướng, vừa lo lắng khi nghĩ đến giờ phút được gặp Bác.
Từ nơi đóng quân của chúng tôi tới cơ quan Bác, cứ ngược theo dòng suối lên dốc dần dần. Hai bên đường, vườn rau, dàn xu xu xanh mướt. Nhìn những vườn rau xanh tốt, đồng chí Lý vui vẻ kể lại lịch sử của nó:
- Mấy năm trước, Bác đã nhiều lần đề ra việc tăng gia sản xuất để các cơ quan tự túc một phần, nhưng phong trào tăng gia vẫn yếu lắm. Năm qua, Bác cùng anh em cảnh vệ chúng mình tăng gia được nhiêu rau tốt, Bác bảo đem biếu các cơ quan. Từ đây phong trào tăng gia mới lên mạnh.
Vui chuyện chúng tôi đã tới sườn dốc thứ nhất. Dốc này các chiến sĩ cảnh vệ thường gọi đùa là "dốc tuột" vì đường lên dốc có nước mạch ngầm ra rất trơn, độ dốc lại cao nên dễ ngã. Từ dốc đó trở vào trong, đều là rừng già. Rừng ở đây rất nhiều chim. Tiếng hót ngân lên nghe như những bản nhạc đồng quê giàu âm điệu. Vượn cũng rất nhiều. Chúng đi từng bày. Đồng chí Lý cho biết những buổi đẹp trời, chúng "đồng ca" hay như chim hót.
Qua dốc thứ hai, tới đỉnh dốc thứ ba, tôi đã thấy phía trước có hai quả đồi nho nhỏ, giữa là hình yên ngựa. Một bên đồi là dòng suối lượn quanh, một bên là tràn ruộng chừng dăm mẫu. Ven suối vẫn là những vườn rau, xa trông rất đẹp.
Đồng chí vui vẻ giới thiệu:
- Tới rồi. Đôi bên này anh em cảnh vệ ta ở. Bác ở đồi bên kia. Chúng tôi tới gần chân đồi thì anh em cảnh vệ ở trên đồi đã thấu chúng tôi, mấy đồng chí chạy xuống đón. Vừa gặp, đồng chí đội trưởng đã báo tin:
- Bác vừa đi công tác vắng, mai mới về.
Thế là tôi không có cái may mắn, vinh dự được vào chào Bác. Tôi tự an ủi: Đã về đây công tác thế nào cũng có dịp được gần Bác.
Sau khi đã trao đổi tình hình và xem xét ngọn đồi của anh em, chúng tôi sang đồi Bác ở. Đường lên nhà Bác, từ dưới chân tới đỉnh đồi đều được anh em cảnh vệ đánh bậc. Trước sân một dàn dâm bụt cắt xén khá mỹ thuật. Bên hàng dâm bụt là luống ớt. Lá ớt xanh, quả chín đỏ tươi trông như những cây cảnh. Một dàn mướp quả rất sai. Lạ thật! Cuối mùa thu rồi mà mướp vẫn tốt vậy. Phải chăng bàn tay chăm bón của Bác đã làm cho khóm mướp này kéo dài được thời kỳ sinh trưởng.
Giữa đỉnh đồi, dưới một vòm cây là nhà Bác. Ngôi nhà nho nhỏ, dài chừng tám thước, ngang độ ba thước. Tầng dưới, phía bắc được che bằng một tấm phên nứa, còn ba mặt để trống.
Đồng chí Lý cho biết từng trên là nơi nghỉ và làm việc của Bác ban đêm. Tầng dưới là nơi làm việc ban ngày.
Nơi làm việc, tất cả chỉ có một chiếc bàn nho nhỏ, hai chiếc ghế. Trên mặt bàn có một lọ mực và ống tre đựng bút. Ngoài ra còn có một quyển lịch treo ở gần bàn.
Đứng trong gian nhà này, đặt tay lên bàn của Bác, lòng tôi dào dạt một tình cảm vừa tôn kính, vừa mến thương gần gũi, vừa có một cái gì khó nói lên được. Mỗi dấu vết trên bàn gợi cho tôi một suy nghĩ: Có phải chỗ này nhẵn nhiều do khuỷu tay Bác chống khi Bác phải suy nghĩ nhiều? Đây hơi có vết xém, có phải lúc ấy Bác mải nghiên cứu, điếu thuốc lá đã rời đĩa gạt tàn chăng? Từ trên chiếc bàn này đã có bao nhiêu mệnh lệnh cho các chiến trường, chỉ thị cho các cấp uỷ Đảng về các mặt công tác của kháng chiến và bao nhiêu thư động viên nhân dân ta chống giặc.
Mỗi suy nghĩ lại nảy ra trong tôi một câu hỏi, mỗi câu hỏi được đặt ra nhưng không thể trả lời được, khiến tôi bần thần không muốn rời khỏi nơi làm việc của Bác.
Thấy tôi đứng lặng trước bàn của Người, đồng chí Lý thông cảm cũng dừng lại một lúc, sau đó đồng chí đưa tôi tới căn nhà phía tay phải. Ngôi nhà này dài khoảng tám thước, được ngăn ra làm hai, một nửa dùng làm phòng tiếp khách và một nửa là nơi ở của tổ cảnh vệ thường trực.
Xem xong khu đồi, chúng tôi vào gian phòng thường trực của tổ cảnh vệ uống nước. Đồng chí Lý vừa rót nước vừa nói:
- Bộ ấm chén này Bác thường dùng để tiếp khách đấy.
Đứng trước ngôi nhà Bác ở, tay cầm chiếc chén uống nước bằng sứ thường mà Bác vẫn quen dùng hàng ngày, tôi bỗng nghĩ đến những chiến lợi phẩm mà quân ta dùng phí phạm, và những kiểu đồng hồ, xe đạp đắt tiền mà một số cán bộ đua nhau sắm sửa, nghĩ tới đây tai tôi nóng bừng.
*
Từ sau lần tôi vào thăm đơn vị bảo vệ Bác, hàng tháng đồng chí đoàn trưởng và tôi thường thay nhau vào giúp đỡ anh em học tập và công tác. Mỗi lần vào, chúng tôi thường thu lượm được những bài học thực tế trong việc Bác cùng anh em tăng gia, hoặc giúp anh em giải quyết tư tưởng những việc riêng.
Mỗi khi tới, để khỏi ảnh hưởng tới công việc của Bác, chúng tôi thường tránh gần nơi Người làm việc. Nhưng có những đêm khuya, trời lạnh, từ xa nhìn vào thấy Bác ngồi làm việc một mình trên căn sàn nhỏ, tiếng chuông điện thoại reo thì trong lòng tôi xúc động lạ thường.
Chính trong khung cảnh ấy mà một đêm tháng 4-1954 tôi không sao nén được rung cảm và đã ghi vào sổ tay mình dòng thơ này:
Tiếng nai giác trên sườn non gọi bạn,
Suối ngừng ru nghe gió thì thào.
Rẽ mây rừng, lấp lánh mấy vì sao,
Sao trời với sao ta cùng thức giấc.
Nghe đèn tỏ từ gian nhà Bác,
In bóng Người trên màn lá rừng khuya.
Tiếng chuông reo - Tin ở Điện Biên về,
Giơ ne hỏi - hay là tin phát động.
Gian nhà Bác, đèn khuya gió lộng,
Sáng tự nơi đây, sáng khắp muôn vùng.
Như những vì sao giữa trời chỉ lối,
Ta gác cho Người, Người gác cả non sông.
*
Trong thời kỳ công tác này, ngoài những bài học của Bác, của các đồng chí trong Trung ương Đảng dạy dỗ, chúng tôi còn được học tập nhiều bài học thực tế như: Vào lúc quân ta đang vây đánh Điện Biên Phủ, có tin về: gạo chiến dịch bị thiếu. Lập tức các cơ quan ở căn cứ địa có cuộc vận động rút từ năm lạng xuống bốn để lấy gạo gửi ra mặt trận. Số gạo giảm đi đó, các cơ quan thay vào bằng sắn, khoai, củ mài, măng rừng, chuối xanh, sung xanh.
Thấy cán bộ, anh em trong cơ quan ăn độn như vậy, đoàn cảnh vệ chúng tôi cũng báo cáo lên trên xin được rút từ bảy lạng xuống bốn lạng, vì anh em không thể đành lòng thấy mình ăn no trong lúc này được.
Ý kiến được đưa lên, chúng tôi nhận được trả lời:
- Hoan nghênh tinh thần đó của đoàn, nhưng các đồng chí làm nhiệm vụ bảo vệ, và học tập quân sự lúc này cũng vất vả như chiến đấu, do đó các đồng chí có quyền hưởng theo tiêu chuẩn. Cần sao các đông chí bảo vệ và học tập được tốt, đó là điều Đảng yêu cầu.
- Phải học tập thế nào, phải làm gì để xứng đáng với sự săn sóc của Đảng, sự hy sinh của các đồng đội mình ở các chiến trường? - Câu hỏi ấy luôn vang lên và trở thành sức mạnh trong công tác ở mỗi chúng tôi.
Cho tới nay, xa Đoàn đã mấy năm. Chợt một buổi, tôi được tin Quốc hội tặng thưởng đoàn Tân Trào Huân chương quân công hạng ba - Vinh dự đoàn làm cho tôi cũng có được niệm tự hào là đã có những ngày được công tác ở đoàn. Vinh dự ấy đã gợi lại cho tôi biết bao nhiêu kỷ niệm trước kia.
Rồi một sự thôi thúc kỳ lạ đến với tôi:
- Phải có một món quà gì để tặng các cán bộ, chiến sĩ của đoàn - những người thay thế chúng tôi trong công tác cảnh vệ của Đảng.
Chính vì thế những trang sách này được ra đời.
Tháng 3-1962