I
Cuối tháng 4-1945, sau khi các mũi quân Nam tiến của Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân về tới khu giải phóng Tân Trào, trường Quân chính kháng Nhật liền được thành lập. Chúng tôi, những đồng chí Giải phóng quân được đoàn thể cử về học, đang gấp rút làm doanh trại.
Giữa lúc ấy, vào một buổi sáng, chúng tôi đang tập trung để sắp sửa làm việc thì đồng chí Văn ( ) tới thăm.
Tôi đoán chắc sẽ có việc gì quan trọng đây.
Đúng vậy, sau khi nói chuyện về tình hình đấu tranh chống Nhật ở các nơi và nhắc nhở chúng tôi về nhiệm vụ học tập, xây dựng trường, đồng chí nói:
- Đoàn thể cần một số đồng chí đi công tác, các đồng chí cần nhận rõ là học tập hay đi công tác đều là trách nhiệm của đoàn thể giao cho, chúng ta đều phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình.Chúng tôi ai cũng tha thiết mong được học, nhưng khi nhắc đến công tác cần thiết thì ai cũng nhận thức rõ được yêu cầu đòi hỏi và sẵn sàng nhận nhiệm vụ.
Nhận chỉ thị của đồng chí Văn, đồng chí Khang ( ) liền tuyển lựa ra một đội mười người, và một tổ ba người. Đội mười người được trang bị vũ khí mới đi ngay. Còn tổ ba người, trong đó có tôi thì được đồng chí Khang giao nhiệm vụ tới làng Tân Trào tìm liên lạc với đồng chí Đường, để nhận công tác ở một cơ quan trong khu Tân Trào.
Đồng chí Đường là một đồng chí công tác lâu năm và đã ra nước ngoài học tập, từ khi tôi vào Giải phóng quân được đồng chí thường đi sát chỉ bảo mọi mặt. Thấy chúng tôi đồng chí rất mừng, vừa lúc ấy một đồng chí ở cơ quan tới đón chúng tôi. Đồng chí Đường giới thiệu là đồng chí Hồng Thái. Tuy chưa biết mặt nhau nhưng cùng là đồng chí chúng tôi mến nhau ngay.
Trước khi chúng tôi đi, đồng chí Đường căn dặn:
- Đoàn thể rất tin cậy các đồng chí mới nên giao các đồng chí trách nhiệm này, phải cố làm tròn. Trong công tác mới ở đó các đồng chí có nhiều điều kiện để học đấy!
Tôi vâng lời, đồng chí Đường còn theo tiễn một quãng và dặn riêng tôi:
- Ba ngày một lần đồng chí về gặp tôi, để tôi giúp đỡ học tập.
Tôi rất cảm động trước những lời căn dặn của đồng chí Đường, hứa xin vâng lời.
Trên đường về cơ quan vừa đi vừa nghĩ đến sự tin tưởng của đồng chí Khang và tình cảm của đồng chí Đường với tôi, tôi tự cảm thấy công tác của mình sẽ có tầm quan trọng hơn những công tác trước đây nhiều.
Chúng tôi đi về phía đình Tân Trào chừng nửa cây số, đồng chí Hồng Thái liền đưa chúng tôi lội ngược theo dòng suối chừng năm mươi thước, tới một bụi rậm thì rẽ quặt lên đồi, tạt sang sườn núi có một cây to, rồi qua một vọng gác, chúng tôi tới đỉnh núi. Cơ quan ở ngay trên núi này, đó là một nhánh của ngọn núi Hồng. Đứng trên đỉnh núi chúng tôi có thể quan sát khắp cánh đồng Tân Trào, dòng sông Đáy, đèo De...
Cơ quan có một lán dài ngăn đôi, một nửa to có nhiều người ở, vũ khí "toàn cạc-bin và tiểu liên "tôm-sơn". Còn một nửa nữa được ngăn ra, ở đó có một điện đài, và có một số đồng chí đang làm việc. Cách lán đầu chừng ba mươi thước có một lán nho nhỏ nữa.
Thấy kiểu súng của các đồng chí ở cơ quan, tôi mừng lắm. Ở Giải phóng quân được trông thấy đồng chí Quang Trung mang khẩu các bin, và một số đồng chí cán bộ trong trung đội có tiểu liên, tôi rất thèm, trong lòng thường ước mơ bao giờ toàn đội có được những vũ khí ấy! Bây giờ về cơ quan này, có thể được trang bị những thứ này đây; và khi nhìn thấy điện đài tôi lại càng mừng. Thế là cách mạng của ta đã lớn mạnh, đã chỉ huy đi xa lắm rồi.
Các đồng chí đang làm việc ở cơ quan thấy chúng tôi tới, liền chạy lại chào hỏi, đồng chí Hồng Thái vui vẻ giới thiệu chúng tôi với các đồng chí cũ và giới thiệu các đồng chí cũ với chúng tôi.
Giữa lúc đó, tôi nghe có tiếng ho từ phía lán nhỏ, rồi một ông cụ gầy yếu, tay chống chiếc gậy song đi lại. Cụ mặc áo ngắn, kiểu người Nùng (hàng cúc giữa bằng vải, cổ cao). Quần và áo đều màu chàm, nhưng đã bạc. Ông cụ đội chiếc mũ vải kiểu các cụ già người Nùng. Cụ đi thẳng tới chỗ chúng tôi.
Tôi thấy lúc cụ đi tới, mọi người đều đứng nghiêm chỉnh và khi cụ tới gần ai thì người ấy đều tránh ra để nhường bước.
Ông cụ vui vẻ hỏi chúng tôi:
- Các đồng chí mới đến phải không?
Tôi vội trả lời:
- Báo cáo đồng chí, chúng tôi mới đến.
Ông cụ gật đầu bảo:
- Tốt, đồng chí Hồng Thái cần giao nhiệm vụ và giúp đỡ các đồng chí ấy công tác.
Nói xong ông cụ đi xuống phía nhà bếp.
Lần đầu gặp một cụ già như vậy. Có lẽ ông cụ tuổi khoảng gần sáu mươi, mái tóc bạc quá nửa, người cụ tuy gầy yếu mà cặp mắt rất sáng, nghiêm nghị, vầng trán cao, giọng nói rất rõ ràng ấm áp. Ông cụ có cái nhìn rất lạ, nhìn vào ai cứ như thấu suốt mọi ý nghĩ trong con người đó, khiến cho sau mỗi câu hỏi của ông cụ đều như buộc người trả lời phải thật trung thực. Còn riêng nét cười của ông cụ thì thật là hiền dịu, làm cho chúng tôi vừa gặp lần đầu, đã cảm thấy gần gũi ngay.
Ông cụ đi khỏi, một đồng chí cũ nói như giới thiệu với tôi:
- Đấy, ông cụ đấy?
Giới thiệu như vậy thì chỉ làm cho tôi càng thêm bỡ ngỡ, vì tôi đã biết ông cụ là ai đâu?
*
Đêm ấy, sau khi được đồng chí Hồng Thái giao nhiệm vụ cụ thể, lại được sinh hoạt cùng tiểu đội cảnh vệ, chúng tôi được rõ là: cơ quan này rất quan trọng; Ông cụ là cán bộ thượng cấp. Ở đây có hai lớp học: lớp học điện đài và lớp chính trị đều do ông cụ hướng dẫn cả. Trách nhiệm của đội cảnh vệ là phải bảo vệ cơ quan cho tốt.
Tôi nghe giới thiệu mà lòng càng lạ, càng suy nghĩ về ông cụ.
Bỗng nhiên tôi nhớ trước đó mấy ngày, đội Giải phóng quân của chúng tỏi vừa về tới Tân Trào, đồng chí Quang Trung bỗng hỏi tôi:
- Đồng chí quê Chợ Đồn à?
- Vâng - Tôi trả lời.
- Đồng chí có thuộc các đường về đấy không?
- Thuộc chứ!
- Đi đón ông cụ nhé! Đi cả tiểu đội của đồng chí!
Nghe đồng chí Quang Trung nói như vậy, tôi hơi lạ, ông cụ nào mà lại phải mang cả tiểu đội đi đón. Tuy vậy tôi không dám hỏi kỹ. Đồng chí Quang Trung lại nói:
- Chờ liên lạc sẽ đi, việc này tuyệt đối bí mật đấy!
Thấy việc quan trọng nên tôi nói thêm:
- Từ chợ Đồn về đây có hai đường. Đường chợ Đồn đi Phong Văn, nghĩa là về chợ Chu - tức là đường đồng chí Văn đã Nam ( ) tiến thì tôi không được rõ, còn đường chợ Đồn qua Tổng Quận về, đường đồng chí Khang Nam tiến thì tôi thuộc.
Nghe vậy, đồng chí Quang Trung bảo:
- Nếu đi đường đồng chí Khang thì đồng chí sẽ đi.
Tôi vâng lời, nhưng sau đấy không thấy đồng chí Quang Trung nói gì nữa.
Giờ đây ở cơ quan lại có ông cụ này, có lẽ là ông cụ mà mình suýt nữa được cử đi đón đây! Ông cụ có lẽ là người đứng đầu của Việt Minh mình đây.
II
Ở gần ông cụ được vài ngày, tôi nhận thấy ông cụ làm việc sao mà nhiều như vậy! Cụ suốt ngày đọc sách và viết tài liệu, viết báo, dạy chính trị v. v... Ngoài ra bất kể ngày đêm, cán bộ các nơi còn luôn luôn về nhận chỉ thị. Cả anh Văn, anh Khang cũng thường tới cơ quan xin ý kiến.
Bận như vậy nhưng ông cụ rất chú trọng săn sóc chúng tôi. Ngoài việc giáo dục về chính trị, ông cụ còn dạy bảo rất tỉ mỉ về cuộc sống tập thể, như bày cho cách đặt chương trình học tập, làm việc trong ngày, trong tuần; cách sắp xếp trật tự trong lán, nhất là cách giữ gìn súng đạn. Ông cụ thường dạy không nên ngồi chơi rỗi, phải lấy sách báo ra học, hoặc vá quần áo v.v. .. Hồi đó giữa mùa xuân, nước suối từ trong khe chảy ra còn lạnh. Ông cụ thường dặn chúng tôi không nên tắm lâu dễ cảm. Khi tập thể dục có những đồng chí thường tập cho có lệ. Ông cụ ra xem, sửa lại cho từng người. Ông cụ còn làm động tác mẫu và bảo: "Các đồng chí tập theo tôi, tập thế này mới được". Những buổi đi lấy rau rừng, ông cụ hướng dẫn cả cho chúng tôi cách đi lấy rau, cách chọn rau ngon v.v...
Hằng ngày ông cụ thường xuống suối, tắm rửa hoặc giặt lấy quần áo.
Có điều trái ngược là bọn thanh niên chúng tôi mỗi khi lên xuống núi thường hay ngã, còn ông cụ tay chống gậy, vai vác ống nước, vai vắt quần áo vừa giặt, chẳng bao giờ bị ngã. Thấy anh em ngã nhiều, cụ bảo:
- Các đồng chí cứ làm theo tôi thì không việc gì! Thì ra chúng tôi vì sợ đi giữa đường lội, nên cứ tránh sang hai bên, làm cho đường ngày một to ra và sườn núi trơn nên hay ngã. Còn cụ cứ giữa đường đã đánh bậc sẵn, cụ đi, tuy lội một chút, về tới lán sẵn ống nước xách lên, ông cụ rửa một nửa, còn một nửa để rửa tay trước và sau khi ăn cơm.
Từ khi anh em học ông cụ cách xuống suối, lên núi thì không ai ngã nữa.
*
Đúng như quy định của đồng chí Đường, sau ba ngày tôi ra báo cáo công việc và nghe đồng chí Đường hướng dẫn công tác. Buổi đầu, sau khi nghe tôi trình bày, đồng chí hỏi:
- Ông cụ có khoẻ không?
- Khoẻ - Tôi trả lời.
- Gần ông cụ, đồng chí thấy thế nào?
- Ở với bố đã mười tám năm rồi, bố cũng dạy mọi điều, nhưng gần ông cụ có ba ngày mà tưởng như ông cụ dạy còn nhiều hơn.
Đồng chí Đường nghĩ một lát rồi nói:
- Đồng chí có văn hoá nên đóng một quyển sổ nhỏ, mỗi khi ông cụ nói câu gì mà đồng chí thích thì đồng chí ghi vào sổ, sau sẽ có một quyển sách quý lắm đấy!
Mỗi lời dặn của đồng chí Đường tôi đều ghi nhớ.
Công tác được một tuần lễ, có lẽ do đồng chí Đường đề nghị, tôi được ông cụ lấy vào học lớp chính trị cùng với anh em học sinh mà ông cụ vẫn dạy. Tôi biết anh em này đều là cán bộ hoạt động từ lâu về đây học cấp tốc rồi đi công tác ngay. Tôi được đưa vào học có lẽ do sự chiếu cố riêng.
Buổi học đầu của tôi đúng vào bài nói về Mặt trận Việt Minh. Ông cụ đưa chúng tôi quyển sách nho nhỏ in li tô, trong đó nói về chương trình, điều lệ của Mặt trận.
Tôi vào Giải phóng quân giữa lúc phong trào cách mạng đang lên cao. Các đội Giải phóng quân vừa phát triển mạnh nên sự huấn luyện chưa kỹ, nhưng tôi được học thiết thực ở đồng chí Khang, đồng chí Quang Trung ngay trong mỗi công tác. Có lúc đồng chí Khang hướng dẫn cả bài nói chuyện cho tôi, rồi tôi nhẩm kỹ cho thuộc, để khi ra nói chuyện sẽ nói bằng tiếng Tày cho khỏi vấp váp. Đây là lần đầu tôi được học về tôn chỉ mục đích, chương trình, điều lệ của Mặt trận Việt Minh một cách kỹ càng. Vì vậy khi học, tôi rất cảm động. Nhưng khi đọc đến đoạn nói trong Mặt trận Việt Minh có cả Đảng Cộng sản tham gia thì tôi giật mình ngơ ngác! Tôi không thể ngờ được là sao Mặt trận Việt Minh lại có cả Đảng Cộng sản tham gia!
Vừa hay ông cụ bảo phát biểu những điều chưa hiểu, tôi giơ tay ngay. Được ông cụ chỉ định, tôi mạnh dạn nói:
- Thưa cụ, tại sao trong Mặt trận của ta lại có Đảng Cộng sản?
Lời tôi vừa dứt thì trong lớp đã có nhiều tiếng xì xào. Trước phản ứng đó, tôi lo sợ. Ông cụ ra hiệu cho mọi người giữ trật tự rồi hỏi lại:
- Đồng chí hiểu về Đảng Cộng sản như thế nào?
- Thưa cụ, cháu chưa hiểu, nhưng nghe người ta nói Đảng Cộng sản không tốt! Họ chủ trương cái gì cũng làm của chung cả, ai theo họ thì họ cho vào Đảng, ai không theo họ thì họ giết, như vậy có khác gì phát xít Nhật và đế quốc Pháp?
Nghe tôi trả lời, nhiều đồng chí trong lớp học ngạc nhiên. Riêng ông cụ, vẻ mặt thoáng nét cười, hỏi thêm:
- Đồng chí nghe ai nói vậy?
- Thưa cụ nhiều người nói...
Ông cụ lại hỏi:
- Những người ấy là thế nào với Tây?
- Họ là những người... là những người làm việc với Tây ạ!
Trả lời câu hỏi xong, tôi thấy tất cả những ý nghĩ của mình về cộng sản từ trước tới nay là sai rồi. Thấy tôi như đã vỡ lẽ ra, ông cụ liền đặt câu hỏi khác:
- Đồng chí nghe Pháp, Nhật nó nói về Việt Minh ta thế nào?
- Dạ, nó nói là giặc cỏ, là ăn cướp giết người ạ!
Ông cụ lúc ấy mới chỉ một đồng chí học viên khác bảo trả lời câu hỏi ban đầu của tôi.
Đồng chí ấy đứng dậy nói:
- Đế quốc Pháp, phát xít Nhật ghét Cộng sản cũng như ghét Việt Minh ta, do đó nó dùng mọi điều xấu xa để gán cho Cộng sản và Việt Minh ta. Những người Cộng sản là những người kiên quyết đánh Pháp, đuổi Nhật nhất trong Mặt trận Việt Minh, do đó họ là nòng cốt, là cơ quan tham mưu của Mặt trận ta.
Các học viên khác đều đồng ý.
Ông cụ lại hỏi tôi: Đồng chí đã hiểu chưa?
Tôi trả lời là: Thưa cụ đã hơi hiểu ạ!
Lúc ấy ông cụ mới dịu dàng giải thích. Mỗi lời ông cụ nói về Đảng Cộng sản, những người Cộng sản, cứ như những ngọn đèn thắp lên trong óc tôi lúc ấy.
Thấy tôi chừng đã hiểu, ông cụ hỏi thêm:
- Đồng chí đã thấy người Cộng sản nào chưa?
Tôi thành thật trả lời:
- Dạ, chưa!
- Nếu đồng chí Văn, đồng chí Khang là những người Cộng sản thì đồng chí có thích không?
- Dạ thích ạ!
Các đồng chí trong lớp học đều cười một cách vui vẻ.
Ông cụ chuyển sang giảng các bài học khác. Sau buổi học, tôi suy nghĩ mãi về bài học vừa qua, về Đảng Cộng sản, cố tìm xem trong đoàn Giải phóng quân ai là những người Cộng sản? Cộng sản và Việt Minh thì khác nhau những gì?
Chiều hôm ấy chúng tôi đi làm lán. Đồng chí Quang Việt - một học viên trong lớp học chính trị - thân mật bảo tôi:
- Này Việt Dũng, cậu đi chẻ lạt với tớ.
Vốn thích đồng chí Quang Việt, tôi theo đồng chí ra một gốc cây cùng nhau chẻ lạt. Làm được một lát đồng chí Việt hỏi tôi:
- Cậu ở nhà, trước làm gì?
Tôi thành thực kể cho đồng chí Quang Việt nghe về gia đình tôi - một gia đình nông dân miền núi cũng vào loại trung bình, bản tôi ngay bên hồ Ba Bể. Vì có điều kiện, nên tôi cùng người anh em ông bác được học tới lớp nhất ở trường huyện và được lấy đưa đi học y tá ở nhà thương Hải Dương. Tôi nói tiếng Kinh thạo, biết một ít tiếng Pháp, hiểu về miền xuôi khá nhiều. Đối với quê tôi, tôi đã thuộc vào loại thanh niên "có học". Tối ngày 9-3-1945, Pháp bị Nhật đảo chính. Trường y tá tan. Tôi và người anh con ông bác về quê thì vừa dịp đồng chí Khang mang một đơn vị Giải phóng quân tới xây dựng chính quyền cách mạng địa phương. Hai anh em tôi được giác ngộ và tham gia Giải phóng quân. Chính cái tên Việt Dũng của tôi và anh tôi là Việt Cường cũng do đồng chí Khang đặt tên cho cả.
Nghe tôi kể, đồng chí Quang Việt cũng kể chuyện hoàn cảnh gia đình và việc tham gia cách mạng của đồng chí cho tôi nghe. Sau đó đồng chí còn kể sơ lược về lịch sử Đảng Cộng sản Đông Dương, về những gương anh dũng của các đồng chí tiên liệt, nhất là gương hy sinh anh hùng của đồng chí Hoàng Văn Thụ. Câu chuyện của đồng chí Quang Việt làm tôi hiểu về Đảng sâu sắc, đặc biệt là khi đồng chí Quang Việt đọc bài thơ của đồng chí Hoàng Văn Thụ từ trong tử tù gửi ra. Tới nay mười tám năm rồi mà tôi vẫn nhớ như in từng lời.
Việc nước xưa nay có bại thành
Miễn sao giữ trọn được thanh danh.
Phục thù chí lớn không hề nản,
Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành.
Thân dẫu lao tù, lăm cảnh hiểm,
Chí còn theo dõi buổi tung hoành.
Bạn hỡi gằn xa hăng chiến đấu,
Trước sau xin giữ tấm lòng thành.
Câu chuyện của đồng chí Việt đã bổ sung thêm cho tôi những hiểu biết về Đảng sau buổi học, lại gây cho tôi một niềm tự tin, và nâng cao thêm được ý chí cách mạng. Một câu hỏi nổi lên trong óc tôi lúc ấy: "Đồng chí Hoàng Văn Thụ sao mà tài giỏi, anh hùng như vậy! Mình phải làm gì để xứng đáng với tấm gương ấy?". Tôi liền hỏi đồng chí Quang Việt:
- Tôi có thể thành người Cộng sản được không?
- Sao lại không. Nếu cậu tha thiết đấu tranh cho quyền lợi của quần chúng lao khổ.
Chúng tôi nắm tay nhau thật chặt.
Ra về, tôi vừa đi vừa nghĩ:
- Có lẽ ông cụ bảo đồng Quang Việt tới nói thêm để cho tôi thực hiểu thấu đây! ông cụ có lẽ trông thấy lòng mình!
III
Công tác và học tập được ít lâu, bỗng một buổi trưa, tôi thấy người mệt. Tôi không thể cùng anh em vào rừng kiếm củi được. Tôi xin phép đồng chí Hồng Thái ở lại nhà nằm nghỉ. Vừa đặt mình nằm xuống thì cơn sốt kéo đến, tôi quấn chặt hai chiếc chăn mà người vẫn run lên và hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập. Giữa lúc ấy, tôi chỉ ước gì có vài người đè lên người giữ chặt mình, hoặc có lò than bên cạnh thì mới ghìm cơn rét lại được.
Lát sau cơn rét lui, cơn sốt nóng lại đến. Người tôi như lò than, đầu tôi nhức buốt, khó chịu quá. Tôi bỗng nghĩ vẩn vơ: Giá ở nhà thế nào bà mẹ, cô em gái lúc này cũng đang đánh cảm và nấu nước xông cho mình rồi. Từ dạo bắt đầu vào Việt Minh, mẹ tôi ở nhà sợ không có ai giúp đỡ, hỏi cho một cô vợ, vừa cưới về buổi sớm thì chiều mình đi. Chả biết cô ta bây giờ làm gì? Giá ở nhà, thế nào cô ta cũng nấu cho mình bát cháo gà để sau cơn sốt dậy ăn, mau tỉnh người. Nghĩ hết chuyện nhà lại nghĩ sang chuyện hiện tại. Ở đây tình đồng chí thật là cao, nhưng mọi thứ thiếu thốn quá! Tôi bỗng thấy nhớ nhà da diết. Nhưng hai câu thơ của đồng chí Hoàng Văn Thụ lại vẳng đến bên tai:
Bạn hỡi xa gằn hăng chiến đấu,
Trước sau xin giữ tấm lòng thành.
Hình ảnh của ông cụ, lời thơ của đồng chí Hoàng Văn Thụ lại động viên tôi, chống lại bệnh tật, gian khổ. Đang nghĩ lẩn thẩn chợt có người đi nhè nhẹ đến bên tôi, rồi ngồi xuống giường. Tưởng là có đồng chí nào trong đội đổi gác về, tôi cứ trùm chăn mặc cho dòng suy nghĩ miên man của mình tự do phát triển. Một bàn tay mát dịu luồn vào đặt lên trán tôi, tiếp đó là tiếng hỏi thân thuộc:
- Đồng chí nào mệt đây?
Tôi giật mình nhận ra tiếng ông cụ. Tôi vội thò đầu ra khỏi chăn. Ông cụ vẫn đặt tay trên trán tôi, đôi mắt nhìn như âu yếm như hỏi "Đồng chí sao thế? Có mệt lắm không?".
Cảm động quá, tôi vội thưa:
- Thưa cụ cháu bị sốt rét, giờ đỡ rồi.
Ông cụ gật đầu bảo:
- Đồng chí sốt thật, cố ngồi dậy, dựa vào cột cho đỡ mệt, tôi đi lấy thuốc cho đồng chí.
Nghe tiếng "thuốc" tôi tỉnh cả người, vì mỗi viên thuốc với hoàn cảnh bấy giờ là rất quý giá. Song thấy ông cụ phải bận vì mình, tôi lại thấy ngài ngại. Tôi toan thưa lại thì ông cụ đã đi rồi. Nhìn theo mái tóc đã bạc quá nửa, đôi vai gầy của ông cụ, tôi thấy lòng mình nao nao. Tôi biết giờ này là giờ đọc sách của ông cụ, sao ông cụ lại tới lán của chúng tôi? Chắc là trong lúc sốt rét, tôi đã run mạnh làm động tới sàn nứa, ông cụ biết nên tới! Tôi đã học y tá mà tôi chưa giúp gì cho anh em trong đội. Bây giờ chính tôi lại được ông cụ săn sóc.
Đang nghĩ, ông cụ đã đến, tôi tưởng như cơn sốt giảm hẳn đi, liền vùng dậy sẵn sàng nhận thuốc uống.
Thấy vậy ông cụ cười bảo:
- Đồng chí cố gắng như vậy là tốt, bây giờ đồng chí uống một viên, chiều uống viên nữa.
Nói xong, ông cụ dốc trong chiếc lọ con ra hai viên ký ninh trắng. Trong lọ còn chừng hơn chục viên.
Thấy tôi đã uống thuốc rồi, ông cụ dặn thêm:
- Hễ đỡ, đồng chí phải dậy đi lại mới được, nằm nhiều là dễ bị con ma ốm nó quật đấy.
Ông cụ đi rồi, tôi lặng nhìn theo cụ không biết nói gì. Còn một viên thuốc tôi đặt giữa lòng bàn tay, hết nhìn nó, tôi lại nhìn về phía lán ông cụ ở. Viên thuốc lúc này sao mà quý vậy. Ông cụ vừa là "thượng cấp" vừa là thầy dạy mình học, vừa là thầy thuốc của mình. Hình ảnh này in mãi mãi trong tim tôi, giống như ngọn núi Cứu Quốc trên quê hương tôi đã in vào lòng tôi, từ nhỏ, và cho đến bây giờ, tôi có thể nhắm mắt mà hình ảnh ấy vẫn nổi lên trước mắt tôi.
Tôi khỏi bệnh, thì ngày 1-5 đã đến. Chúng tôi hôm ấy động viên nhau làm cho xong căn nhà để có thành tích kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động. Tôi mới mệt dậy nên được phân công vá quần áo cho anh em. Đang vá áo chợt tôi thấy đồng chí liên lạc mang theo một số báo và tài liệu, ngoài ra còn có một hộp gì màu đỏ trông rất đẹp, tôi đòi xem.
Đồng chí liên lạc vẻ bí mật nói:
- Quà ở xa gửi biếu ông cụ đấy!
Đồng chí liên lạc về rồi, ông cụ mang cái hộp xuống bếp, tôi tò mò theo xuống xem. Tới bếp, tôi thấy ông cụ đang bảo đồng chí Trần Định (một đồng chí cũ lúc này vừa bảo vệ Bác, vừa làm cấp dưỡng).
- Đồng chí nấu một nồi nước đủ cho mỗi anh em một bát, có ít gạo nếp ta đem nấu, khi nhừ gạo, đồng chí cho hộp mật này vào.
Đồng chí Định ngần ngừ nói:
- Thưa Bác, cái này để Bác dùng (trong chúng tôi lúc ấy chỉ có đồng chí Trần Định gọi ông cụ là Bác) vì sức khoẻ của Bác chưa được tốt.
Ông cụ bảo:
- Tôi mệt thì anh em cũng mệt, hôm nay là ngày mồng một tháng năm, tôi được quà từ nước ngoài gửi biếu, anh em cũng phải có phần.
Nghe ông cụ nói, đồng chí Định đành miễn cưỡng vâng lời.
Chờ ông cụ về rồi, tôi vào xem chiếc hộp. Đúng là hộp mật ong khô. Quý thật! Có lẽ thứ mật này làm ở một nước có kỹ nghệ thực phẩm cao gửi tới, xem chữ không phải chữ Pháp, nên chúng tôi đành chịu. Tôi bàn với đồng chí Định nấu một nửa, còn dành lại cho ông cụ một nửa. Đồng chí Định cười bảo:
- Tính Bác vậy, Người đã bảo làm, phải làm theo, bớt lại Bác sẽ bắt nấu lần nữa thì mình đâm dại.
Trưa hôm đó chúng tôi có bữa chè mật ong. Hương vị ngon ngọt của chén chè ấy tưởng như bây giờ vẫn còn nguyên vẹn.
IV
Đầu tháng 7 năm 1945, lớp học chính trị đã hết, các học viên đã đi công tác, cơ quan bớt đi một số người. Nhưng mọi công tác thì khẩn trương hơn lên, vì chúng tôi vừa bảo vê, vừa công tác, vừa học tập. Sáng hôm ấy, chúng tôi rửa mặt xong, chợt có tin: một toán thổ phỉ( ) tiến vào đèo De để dò la căn cứ địa của ta. Một bộ phận Giải phóng quân đã đi mai phục đánh chúng. Nhưng vì trận địa gần cơ quan quá, các đồng chí có trách nhiệm bảo vệ đã đề nghị ông cụ tạm dời khỏi chỗ này. Được ông cụ đồng ý, đơn vị bảo vệ để già nửa ở lại, nếu phỉ tràn vào sẽ đánh, còn một tổ năm đồng chí do tôi chỉ huy thì bảo vệ ông cụ và tài liệu.
Trước lúc ra đi, ông cự kiểm tra lại việc gói buộc tài liệu, việc bố trí hành quân, chuẩn bị súng đạn của chúng tôi -một cách tỉ mỉ. Kiểm tra xong ông cụ dặn:
- Các đồng chí đi phải giữ bí mật, không được gõ vào cây nứa gây tiếng động, không được phát đường, bẻ lá. Đồng chí đi sau cùng phải xoá dấu vết của anh em đi trước. Các đồng chí rõ chưa?
Chúng tôi trả lời:
- Dạ, rõ rồi ạ.
Ông cụ gật đầu nói:
- Được, chúng ta đi.
Chúng tôi lên đường nhằm hướng đỉnh núi cao nhất đi lên. Đi trước là các đồng chí mang "các bin". Thứ hai là một đồng chí vai đeo túi dết trong đựng đầy tài liệu, và lưng đeo cái ba lô của ông cụ (chúng tôi thường gọi đùa là ba lô sách, vì nó đựng cả quần áo, chăn màn mà vẫn chỉ to bàng quyển sách lớn). Thứ ba là ông cụ, tay chống gậy, vai cũng đeo túi dết đầy tài liệu. Sau đó hai đồng chí khênh thùng sách quý. Còn tôi đi sau có trách nhiệm xoá dấu vết.
Đường đi dốc đứng, lại không được phát các dây leo, cây lá ngáng đường nên càng khó khăn hơn. Chúng tôi đi chầm chậm để giữ sức cho ông cụ, vì ông cụ vẫn không được khoẻ lắm! Trong lúc đi đường chúng tôi xin đeo hộ ông cụ túi dết nhưng ông cụ không nghe, chúng tôi cũng đành chịu vậy.
Lên đến gần đỉnh núi, nơi có một gốc cây to, sạch sẽ và có chỗ ngồi bằng phẳng, chúng tôi dừng lại tạm nghỉ. Chúng tôi toan chặt lá để ông cụ ngồi, ông cụ xua tay rồi đến ngồi trên một hòn đá. Vừa ngồi xuống, ông cụ liền giải thích cho chúng tôi rõ tại sao vừa qua phải giữ bí mật. Ông cụ bảo làm như vậy là để nếu kẻ địch có vào tới lán của ta, chúng cũng không biết dấu vết của ta đi về phía nào mà truy tìm ta được!
Giải thích xong, ông cụ đặt câu hỏi:
- Nếu địch tới đây, ta đối phó thế nào?
Một đồng chí trả lời:
- Thưa cụ, phải kiên quyết chiến đấu để diệt chúng.
Ông cụ chỉ tài liệu hỏi:
- Nếu trong lúc chiến đấu, ta vì lực lượng yếu, phải rút đi nữa, số tài liệu này sẽ làm thế nào?
- Dạ, ta phải đốt đi ạ!
- Không được, tài liệu này rất quý. Ta phải cất giấu vào rừng hoặc nên chôn đi để khi chiến đấu không lo lắng về nó và nếu có phải rút, cũng không ngại. Sau này phỉ qua rồi, ta về, lại có tài liệu mà dùng.
Anh em mỗi người một ý hãng hái phát biểu.
Ông cụ nghe xong, kết luận:
- Các đồng chí đều nói đúng. Giặc có tới, phải kiên quyết đánh, tài liệu là sinh mệnh của chúng ta, phải bảo vệ đến cùng. Vậy ta nên tìm cách tạm cất giấu đi để khi xảy ra chiến đấu, ta hoạt động được dễ dàng.
Chấp hành chỉ thị của ông cụ mà cũng là nghị quyết của chúng tôi, chúng tôi đào một hố sâu, bỏ thùng sách xuống, lá khô ngụy trang, ông cụ lại bảo:
- Đừng lấp đất vội, cứ chuẩn bị sẵn, khi nào cần sẽ lấp, bây giờ các đồng chí nên nghiên cứu cách đánh khi chúng tới đây.
Trong lúc chúng tôi để một đồng chí cảnh giới, rồi bàn bạc cách đánh, ông cụ lấy sách ra đọc. Sau khi thấy chúng tôi đã bàn bạc xong, ông cụ ngừng đọc sách bảo tôi báo cáo lại kế hoạch. Nghe xong, cụ bảo:
- Được, các đồng chí chuẩn bị như vậy là tốt. Ta nhân việc này mà tập dượt cho quen. Có giặc tới ta sẽ đánh!
Khoảng gần chín giờ sáng thì nghe thấy một tràng dài tiếng tiểu liên rồi tiếng súng trường, lựu đạn liên tiếp nổ theo. Từ đèo đến chỗ chúng tôi tính đường chim bay chỉ một cây số, chúng tôi lại ở trên núi cao nên nghe rất gần.
Một đồng chí gác chạy tới báo cáo với ông cụ. Ông cụ bảo:
- Tôi cũng nghe thấy rồi.
Nói xong ông cụ lại tiếp tục đọc sách.
Ngồi nghe súng nổ ngay bên cạnh, tôi thực là sốt ruột, không biết chúng có đông không? Ta có thắng không? Nếu chúng tràn vào được sẽ thế nào?
Những câu hỏi đó cứ diễn ra trong đầu óc tôi. Trong anh em nhiều đồng chí tiếc là không được chiến đấu và đến bây giờ tôi mới biết đồng chí Trần Định tuy đã nhiều tuổi, thế mà đêm qua cũng được đi diệt phỉ.
Súng nổ dồn dập một chặp rồi thưa dần, sau đó im bặt. Ông cụ đặt sách, nét mặt vui vẻ.
Chúng tôi thầm thì phán đoán. Như biết được ý nghĩ của chúng tôi, ông cụ bảo:
- Chắc là thắng rồi, vì những tiếng súng về sau cứ mỗi lúc một xa. Và trận này ta nắm rõ địch, ta lại chủ động từ đầu nên nhất định phải thắng.
Quá mười một giờ có tiếng hú từ dưới lán của cơ quan vọng lên. Đó là mật hiệu liên lạc. Chúng tôi hú trả lời. Lát sau có đồng chí lên báo cáo tình hình:
- Quân ta đã diệt gọn cánh phỉ đó và thu toàn bộ vũ khí.
Ông cụ chỉ thị cho chúng tôi trở về và vẫn nhắc nhở phải xoá dấu vết, để giữ bí mật hành động của mình.
Chỉ có mấy giờ buổi sáng mà chúng tôi đã học được nhiều điều về chuẩn bị hành quân, công tác bí mật trong hành quân, cách phán đoán tình hình, cách xử trí tình huống và thế nào là dân chủ trong công tác quân sự v.v... Ông cụ đã dạy chúng tôi những bài học thực tế sâu sắc.
Chiều hôm ấy tôi lại xuống làng để nghe đồng chí Đường hướng dẫn như thường lệ.
Tới nơi, một tin làm tôi sửng sốt. Đồng chí Đường đã hy sinh trong trận diệt phỉ. Đau xót quá, tôi chạy thẳng về cơ quan và không sao nén nổi cảm xúc, tôi bỏ bữa cơm chiều, nằm dài trong lán.
Gần tối, đồng chí Trần Định đến thăm, nói với tôi:
- Ông cụ bảo tới kể cho đồng chí nghe về gương chiến đấu của đồng chí Đường đây.
Tôi vội ngồi dậy lắng nghe.
Đồng chí Trần Định kể xong, dặn tôi:
- Ông cụ nhắc đồng chí là: "Thương đồng chí mình là phải noi theo gương chiến đấu của đồng chí ấy. Đồng chí Đường là một người cộng sản tốt đấy".
Đồng chí Định cũng cho tôi biết là đồng chí sẽ thay đồng chí Đường để giúp đỡ tôi về các mặt công tác và học tập.
Biết là đoàn thể đã phân công đồng chí Định dìu dắt tôi thay đồng chí Đường, tôi chân thành nhận sự dìu dắt ấy.
V
Tổng khởi nghĩa thành công, tôi về Hà Nội và được giao trách nhiệm mới. Trong công tác, với những thắng lợi mới, tôi hết sức phấn khởi cố sao hoàn thành nhiệm vụ của đoàn thể giao cho. Nhưng có một điều riêng là trong công tác mới, tôi không còn được gần đồng chí Định nữa. Công tác của Đảng lúc ấy rất bí mật, tôi muốn bày tỏ với các đồng chí cấp trên nhưng cũng ngại. Bỗng một hôm, tôi thấy đồng chí Trần Định tới thăm tôi.
Tôi mừng quýnh, đón đồng chí vào trại. Sau câu chuyện thăm hỏi ban đầu, tôi bảo với đồng chí Định:
- Từ ngày xa cơ quan, xa đồng chí, tôi cũng học được nhiều điều mới, nhưng có cái thì bị thiếu đi nhiều quá...
Đồng chí Định cười bảo:
- Vì thế hôm nay mình mới tới thăm đồng chí đây. Bác hỏi đồng chí đấy. Bác bảo mình phải giới thiệu với các đồng chí đảng viên ở đây để giúp đồng chí học tập.
Thật không ngờ Bác trăm công nghìn việc như vậy, mà Bác lại nhớ đến tôi, người chiến sĩ bảo vệ Bác ở Tân Trào.
Đồng chí Định lại bảo:
- Lúc nào rỗi, đồng chí cứ về cơ quan chơi, ở chiến khu thế nào thì bây giờ cũng vậy.
Sau đó ít lâu, may sao đơn vị tôi có một tiểu đội được chuyển về bảo vệ Bắc Bộ Phủ.
Buổi sáng hôm ấy tôi vội tới thăm tiểu đội với hy vọng may ra được gặp Bác.
Nhưng tôi tới thì vừa lúc anh em sắp ăn sáng. Tiểu đội cảnh vệ, các đồng chí công tác ở văn phòng đang đi vào nhà ăn. ở đó để từng hàng bát cháo hoa múc sẵn, phần mỗi người một bát, ăn với cà muối hoặc vừng. Đồng chí Định giới thiệu tôi với chị Thanh (người cấp dưỡng của Bác và cơ quan bây giờ). Chị vui vẻ đưa tôi một bát. Tôi vừa cầm bát cháo thì Bác tới. Đặt bát cháo xuống, tôi chưa kịp đứng nghiêm chào Bác, thì Người đã vui vẻ hỏi:
- Chú Việt Dũng đấy à. Chú vẫn khoẻ chứ?
- Dạ!
Câu hỏi của Người làm tôi rất cảm động không nói được lời nào nữa.
Bác nhìn tôi, Người bảo:
- Ta ăn sáng đi.
Chị Thanh mang cháo lại. Người cũng nhận một phần cháo như mọi anh em khác.
Tôi vẫn đinh ninh là bây giờ Bác đã làm Chủ tịch nước, thì dù sao Người cũng khác ở chiến khu. Không ngờ là Người vẫn giản dị như ở chiến khu vậy.