Hai tư bông cúc trắng
Giữa năm 1968, sau khóa học lái xe 45 ngày, 30 tay lái chủ yếu là lính Yên Bái, trong đó có Trung, được điều về Đoàn vận tải 471, Binh đoàn Trường Sơn. Chỉ huy Đoàn cử cán bộ và lái xe ra tận Trường lái đón chiến sĩ mới. Cả đoàn được biên chế thành một trung đội. Tiểu đội trưởng là những tay lái đã dày dạn kinh nghiệm lái xe trên đường Trường Sơn. Sau ba ngày học chính trị, quán triệt nhiệm vụ, cả trung đội lên Lạng Sơn nhận xe. Toàn xe Giải phóng nhãn hiệu Trung Quốc mới toanh, còn thơm mùi sơn và bóng láng. Lần đầu tiên được một mình một xe, lại là xe mới, ai cũng thích thú, rộn ràng như được mặc bộ quần áo mới đón Tết. Sau hai ngày chạy thử xe và bảo dưỡng dầu mỡ, toàn trung đội được lệnh đánh xe đi nhận hàng để chở vào chiến trường. Chuyến hàng đầu tiên chở toàn gạo. Mỗi xe đóng đủ bốn tấn gạo, xếp đầy ặc xe, trên phủ ni lông, tiếp theo là bạt, rồi chằng dây thật chắc chắn. Năm giờ chiều các chiến sĩ được lệnh cắm lá ngụy trang lên xe phủ kín xe. Tất cả đã sẵn sàng, đợi lệnh là xuất phát.
Sáng hôm sau, đúng năm giờ, toàn đơn vị tập hợp, phổ biến mệnh lệnh hành quân, cự ly giãn cách giữa các xe, giãn cách giữa các tiểu đội. Đoàn xe đi theo Quốc lộ 1 đến gần Hà Nội thì rẽ về hướng Hòa Bình. Đến Thanh Hóa, nghỉ lại, đợi tối mới lên đường. Bắt đầu từ Thanh Hóa trở đi, xe phải đi ban đêm bằng ánh sáng đèn gầm. Đã ngửi thấy mùi chiến tranh. Chốc chốc lại có máy bay giặc Mỹ bay rèn rẹt qua, rồi bom nổ rung đường. Đạn pháo phòng không của ta cũng từ nhiều trận địa trên mặt đất bắn lên như hoa cải đuổi lũ nhặng trời.
Qua đèo Đá Đẽo, các chiến sĩ được lệnh đánh xe vào bìa rừng để bảo dưỡng, kiểm tra lại xe, đồng thời nghe phổ biến tình hình, chuẩn bị tinh thần vượt trọng điểm Ngã ba Đồng Lộc. Trung đội trưởng Đăng nhắc nhở các chiến sĩ: “Nơi ta đang đứng đây là xã Thượng Lộc, chỉ cách giao điểm giữa Quốc lộ 15 và Tỉnh lộ 2 Hà Tĩnh, gọi là Ngã ba Đồng Lộc hơn một ki-lô-mét đường chim bay thôi, các đồng chí ạ. Tóm tắt thế này để các đồng chí hình dung ra Ngã ba Đồng Lộc: Toàn bộ ngã ba nằm gọn trong một thung lũng hình tam giác, hai bên đồi trọc, giữa là đường độc đạo, mặt đường giống như một cái lòng máng, bom địch thả xuống bên nào thì đất đá cũng lǎn hết xuống đường gây ách tắc giao thông. Tất cả mọi con đường từ Bắc vào Nam đều phải đi qua Ngã ba Đồng Lộc, nên được ví như cái cổ họng. Chính vì thế mà máy bay Mỹ đánh phá Ngã ba Đồng Lộc suốt ngày đêm, nhằm cắt đứt huyết mạch giao thông chi viện cho chiến trường miền Nam của ta. Trọng điểm ngã ba dài chừng hai ki-lô-mét, đặc biệt từ Cầu Tối tới Trường Thành khoảng 300 mét, là mục tiêu hủy diệt của máy bay Mỹ nên được gọi là “tọa độ chết”. Ở “tọa độ chết” có một tiểu đội nữ thanh niên xung phong thuộc Đại đội 552, Tổng đội Thanh niên xung phong 55 Hà Tĩnh thường trực, vừa làm nhiệm canh gác, đếm bom, vừa phá bom, sửa đường. Các o rất nhanh nhẹn, dũng cảm và nhiều kinh nghiệm. Khi qua Đồng Lộc, các đồng chí phải hết sức bình tĩnh, lái xe theo chỉ dẫn của các o thanh niên xung phong. Nếu máy bay địch thả bom cũng mặc kệ, nếu thấy có xe bị cháy cũng phải vượt qua, không được dừng xe, không được hốt hoảng, run tay lái. Các đồng chí rõ chưa?”.
Cánh lính mới nghe như nuốt từng lời của trung đội trưởng, rồi đồng loạt hô: “Rõ!”. Đúng 19 giờ 30 phút, đoàn xe được lệnh xuất phát. Vừa chớm với khu vực Ngã ba, đường đã chi chít hố bom đủ kích cỡ, lổn nhổn đá to đá nhỏ, đụn đất như một bãi chiến trường. Chiếc đèn gầm nhỏ bằng quả táo đặt dưới gầm xe, hắt ra thứ ánh sáng tù mù, chiếu sáng chỉ chừng độ năm mét. Nhìn đường đã hoa cả mắt. Xe hết vòng phải lại lượn trái như làm xiếc để tránh hố bom. Trung vừa phải căng mắt nhìn đường, vừa phải tập trung đầu óc cao độ để xử lý tay lái. Chỉ cần sơ ý, mất chính xác một chút là xe có thể cắm đầu xuống hố bom. Vừa đánh tay lái để xe thoát khỏi một hố bom, bỗng có tiếng nổ rất to, Trung giật mình, ngồi trên ghế lái có cảm giác chiếc xe chao đảo như bị nhấc lên rồi đặt xuống. Cùng lúc ấy đèn gầm cũng đột nhiên tắt lịm. Tất cả tối om. Trung hoàn toàn mất phương hướng, phải phanh dừng xe. Đang hoang mang, rối trí, chưa biết xử lý thế nào, thì có một bóng người từ bên đường lao ra, nhảy phắt lên bậc lên xuống, đập tay vào cửa kính. Trung vội hạ kính. Một o thanh niên xung phong, đầu đội mũ sắt, tay cầm chiếc xẻng, nhìn vào buồng lái nói to:
- Eng cứ bình tĩnh. Tắt rồi bật lại đèn gầm thử xem. Hắn ném vu vơ thôi, nỏ làm chi được miềng đâu eng.
Lần đầu nghe giọng Nghệ - Tĩnh, (anh phát âm thành eng), o lại nói rất nhanh, tuy nghe không rõ, song lúc này có người ở cùng trên xe đã làm Trung bớt run. Trung làm theo lời o, tắt đèn gầm rồi bật lại. May quá, đèn lại sáng. Trung cho xe chạy tiếp. Nhưng vừa không quen đường, vừa không quen đi đêm bằng đèn gầm nên xe đi cứ loạng choạng. O thanh niên xung phong vẫn đứng trên bậc cửa xe. Giọng Nghệ - Tĩnh lại lên bổng xuống trầm líu ríu:
- Eng cứ cho xe chạy đi, theo sự hướng dẫn của em hý.
Trung khẽ gật đầu, rồi căng tai nghe o thanh niên xung phong chỉ dẫn mà điều khiển xe:
- Quẹo phải đi eng!
- Thế,… thế…!
- Thôi. Đi thẳng eng!
- Rồi. Quẹo trái, quẹo trái nhanh!
- Giữ cho chắc vô lăng nghe eng!
- Lại quẹo phải, quẹo phải đi. Rứa…!
- Cho xe chạy chậm lại eng! Phía trước có rất nhiều hố bom!
- Rứa… rứa. Được rồi. Cứ rứa!
- Kìa ga lên… ga lên đi eng!
- Thôi! Không ga nữa!
- Tốt rồi. Sắp qua được trọng điểm rồi eng!
Đột nhiên o thét lên:
- Dừng… dừng xe đi eng!
Trung vội đạp phanh, chiếc xe khựng lại. Một hố bom to, sâu hoắm ngay giữa đường cách mũi xe chỉ một mét. Phía trước, xung quanh, những ánh chớp vẫn lóe lên xanh lét. Rồi một tràng bom dài, nổ dồn dập như muốn hất tung chiếc xe khỏi mặt đường. Những quầng lửa bùng lên, trùm cả xe. Đất, đá, bùn, cây lá, bay rào rào, ràn rạt. O thanh niên xung phong một tay vẫn bám chặt thành cửa xe, một tay đang vuốt bùn đất trên mặt, bảo:
- Cứ bình tĩnh giữ chắc vô lăng eng! Đừng run tay!
- Eng kìa! Quẹo trái nhanh tránh hố bom!
Qua được hố bom, nhưng đất đá vẫn bay tới tấp, đập cả vào kính xe, Trung vội ngoái ra cửa, bảo:
- O vào trong ca bin ngồi đi! Đứng ngoài nguy hiểm lắm…
- Nỏ được mô eng. Em phải đứng ngoài ni mới quan sát được để chỉ đường cho eng được chứ. Eng cứ yên tâm, bình tĩnh lái xe, nỏ phải lo cho em. Bọn em thế này quen rồi.
Không nhìn rõ nhưng Trung có cảm giác là o thanh niên xung phong vừa nói vừa mỉm cười. Thấy phía trước có hai xe đang bốc cháy. Trung liếc mắt ra nhìn o thanh niên xung phong. O vội bảo:
- Eng cứ cho xe miềng chạy đi. Việc ứng cứu các xe bị cháy đã có thanh niên xung phong bọn em lo. Eng mà dừng xe lại bây giờ là dính bom ngay!
Bỗng Trung thấy o thanh niên xung phong níu thành xe nhảy lên thùng. Trung vội dừng xe, thò đầu qua cửa xe ngó lên. Thì ra xe bị tàn lửa bắn vào làm cháy bạt phủ trên xe. O thanh niên đang dùng chiếc xẻng đập dập lửa. Trung định nhảy lên thùng thì đã nghe tiếng o thanh niên xung át cả tiếng bom:
- Eng cứ lái xe vượt qua trọng điểm đi, trên này em xử lý được. Mới bén lửa thôi. Dừng lại bây giờ nguy hiểm lắm.
Trung đành cho xe chạy tiếp, được một đoạn khá xa, tiếng bom đã ngớt, o thanh niên xung phong mới vỗ vỗ vào thành ca bin bảo:
- An toàn rồi eng! Cho em xuống đi eng!
Trung cho xe dừng lại, o thanh niên xung phong nhảy xuống đường, Trung cũng mở cửa xe nhảy xuống, chưa biết nói sao thì o đã bảo:
- Eng đi may mắn nhé. Eng mới ở ngoài tê vô phải không?
Trung gật đầu. Lúc này anh mới phát hiện trên cánh tay trái của o thanh niên xung phong, một cái băng to xù, vội hỏi:
- O bị thương à? Nặng lắm không?
O thanh niên xung phong khẽ nói:
- Nhẹ thôi eng, chỉ sượt da. Em đã lấy khăn băng lại rồi. Eng khỏi lo.
Trung cầm cánh tay o, thấy máu chảy thấm ướt đẫm chiếc khăn, vội nói:
- Máu ra thấm hết khăn rồi. Mà sao o lại băng bằng khăn? Trên xe anh có bông băng, để anh lấy băng lại cho o.
- Nỏ cần băng lại đâu eng. Băng khăn được rồi. Tụi em đứa mô cũng có cái khăn thêu tên tuổi mình và cái xẻng là vật bất ly thân. Bị thương thì lấy khăn làm băng. Nếu chết thì vẫn tìm được nhau. Còn cái xẻng, chết mà không có cái xẻng bên mình là không được coi là liệt sĩ đó eng.
Nghe o thanh niên xung phong nói, không biết là thật hay đùa nhưng Trung cảm thấy người mình nổi gai ốc. Có mắt thấy, tai nghe, mới hiểu hết sự khốc liệt của trọng điểm Ngã ba và tinh thần sẵn sàng hy sinh, coi thường cái chết của các o thanh niên xung phong ở đây đến mức nào. Trung vội nhảy lên ca bin, cầm cuộn bông băng và cuốn sổ tay xuống, nói khẩn khoản:
- Bông băng này về nhà o băng lại vết thương o nhé. Còn cuốn sổ, anh tặng o làm kỷ niệm lần đầu qua Đồng Lộc, gặp được o. Cảm ơn o nhiều lắm! Nếu đêm nay không có o, không biết anh sẽ xoay xở thế nào.
O thanh niên xung phong lúc này mới cười thành tiếng, rồi bảo:
- Cuốn sổ thì em xin. Em cảm ơn eng. Còn bông băng, eng mang theo đi. Eng còn đi xa vào trong nớ, cần hơn em mà. Eng mới qua lần đầu nên chưa quen đó thôi. Sau quen, cũng nỏ có chi mô. Ở đây ngày mô chả như ni. Nhiệm vụ tụi em là phải giúp các eng lái xe qua trọng điểm mà. Không phải cảm ơn em mô. Chúc eng đi may mắn nhé!
Trung vội nắm tay o, giọng run run, bổi hổi:
- O ơi! O tên gì, quê đâu cho anh biết. Để sau này anh còn tìm gặp, cảm ơn o…
O thanh niên xung phong lại khúc khích cười:
- Eng cứ gọi em là Lộc, Ngã ba Đồng Lộc mà eng. Thôi, eng đi đi. Em phải quay lại lấp hố bom đây. Hẹn gặp lại eng!
O cầm tay Trung lắc lắc mấy cái rồi chạy nhanh về phía trọng điểm. Trung vội thét với theo:
- Anh tên Trung… Trung Yên Bái… O nhớ nhé. Thể nào anh cũng tìm gặp o!
O thanh niên xung phong cũng thét to đáp lại:
- Còn tên em là một loài hoa, anh thử đoán xem là hoa gì nhé. Quê em ở Phố Ngàn. Phố Ngàn… đó eng!
Trung nhìn theo bóng o thanh niên xung phong tới khi mất hẳn trong màn đêm, rồi mới lên xe đi tiếp. Đi chừng được hơn năm cây số thì gặp đoàn xe dừng lại để kiểm tra các xe và dồn đội hình.
Lần ấy, cả đoàn có ba xe bị cháy, cứu được một xe, một lái xe hy sinh, hai người bị thương, đều là lính mới, hồi chiều còn đùa nghịch với nhau. Lần đầu tiên trong đời lính, Trung tận mắt thấy máu đổ và cái chết trong chiến tranh. Không ở đâu, khoảng cách giữa sự sống và cái chết lại gần nhau đến như vậy. Đêm nay, nếu không có o thanh niên xung phong có khi Trung cũng “bị” rồi.
Đến Binh trạm 33, trả hàng xong, các chiến sĩ mới được phân bổ sung về các đơn vị xe của của Binh trạm. Các xe đều làm nhiệm vụ chở hàng từ Binh trạm, xuyên dọc Trường Sơn vào tập kết ở Ngã ba Đông Dương. Suốt mấy năm, Trung và đồng đội dọc ngang trên các tuyến đường Trường Sơn, qua nhiều trọng điểm ác liệt chẳng kém gì Đồng Lộc: Động Cô Tiên, A Sầu, A Lưới, đèo Bù Lạch, cua chữ A, ngầm A Vương, ngầm Ta Lê, đèo Phu La Nhích… Con “chiến mã” của Trung đã thương tích khắp mình, vậy mà nó chưa lần nào chết máy dọc đường, chưa khi nào chịu nằm yên. Phải chăng nó đã gặp được vía may của o thanh niên xung phong ngay trong buổi đầu ra trận. Còn Trung, cũng đã dày dạn kinh nghiệm, được coi là một tay lái lụa của Binh trạm. Song Trung không thể nào quên được cái cảm giác lần đầu qua Đồng Lộc và hình bóng o thanh niên xung phong có cái tên là một loài hoa. Những lúc rỗi, Trung lấy mảnh xác máy bay, tỉ mẩn làm một cái lược, đợi có dịp qua Đồng Lộc sẽ tặng cho o. Biết đâu cuộc gặp o đêm đó lại chẳng là một mối lương duyên. Nhưng mãi đến đầu năm 1973, Trung được cử ra Bắc đi học, mới có dịp trở lại Đồng Lộc. Hỏi thăm các đồng chí làm việc ở Ngã ba, mới biết cả tiểu đội nữ thanh niên xung phong hồi ấy đã hy sinh hết trong trận bom ngày 24-7-1968. Chỉ sau đêm Trung qua Đồng Lộc chưa đầy một tháng trời. Nghe Trung kể, o thanh niên xung phong dẫn đường cho xe Trung qua trọng điểm quê ở làng Nhiều Phố, còn tên o là tên một loài hoa, các đồng chí nhìn nhau một lúc, rồi bảo:
- Chắc là o Cúc rồi. Các o trong tiểu đội đều quê Can Lộc, Đức Thọ, chỉ có o Cúc, quê Ngàn Phố, Hương Sơn. Chắc là o ấy đùa đồng chí đấy. Phố Ngàn là nói ngược của Ngàn Phố mà, còn Cúc thì đúng là tên một loài hoa rồi…
Trung thẫn thờ, choáng váng khi nghe tin cả tiểu đội mười o hy sinh hết trong một trận bom. Đã dày dạn với chiến trường, nhiều lần suýt chết, đã chứng kiến và chôn cất cho bao nhiêu đồng đội hy sinh, song nghe kể về cái chết của mười o thanh niên xung phong Ngã ba Đồng Lộc tim Trung vẫn buốt nhói, như là đang bị vò xé. Anh không thể cầm nổi nước mắt khi nghe các đồng chí kể lúc đào bới tìm xác các o. Dù thi thể các o vẫn còn nguyên vẹn nhưng đều thâm tím hết, có o lồi cả hai mắt ra, có o thì chảy máu mũi, có o gãy sụn hết xương sống. Không nhận ra ai với ai nữa. May mà có cái khăn thêu tên tuổi mới nhận ra nhưng vẫn thiếu o Cúc. Đào tìm kiếm cả đêm cũng không thấy thi thể o Cúc. Nhìn chín o đã được khâm liệm, riêng chiếc hòm dành cho o Cúc vẫn trống trơn, không một ai cầm nổi nước mắt. Mãi ba ngày sau, nhờ trời nắng gắt, thi thể o Cúc bốc mùi, mới phát hiện ra nơi o bị chôn vùi. Các đồng chí còn cho Trung xem bài thơ “Cúc ơi!” của anh Yến Thanh (Nguyễn Thanh Bình) - cán bộ kỹ thuật giao thông, cũng là người tham gia tìm xác các o hôm ấy đã xúc động viết như lời gọi hồn o Cúc:
Tiểu đội đã xếp một hàng ngang
Cúc ơi! Em ở đâu không về tập hợp?
Chín bạn đã quây quần đủ hết
Nhỏ - Xuân - Hà - Hường - Hợi - Rạng - Xuân - Xanh
A trưởng Võ Thị Tần điểm danh
Chỉ thiếu mình em
(Chín bỏ làm mười răng được!)
Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc
Đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần
Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng
Cúc ơi! Em ở đâu?
Đất nâu lạnh lắm
Da em xanh
Áo em thì mỏng!
…
Ở đâu hỡi Cúc
Đồng đội tìm em
Đũa găm cơm úp
Gọi em
Gào em
Khan cổ cả rồi
Cúc ơi!
Trung chép bài thơ “Cúc ơi!” vào sổ tay rồi nhờ mấy anh dẫn ra nơi chôn cất các o. Anh thắp hương cho các o, rồi run run đặt lên mộ o Cúc chiếc lược làm bằng mảnh xác máy bay Mỹ từ ngày ở chiến trường. Từ đấy, năm nào đến ngày giỗ các o, Trung cũng về Đồng Lộc, thắp hương và đặt lên mộ Cúc 24 bông cúc trắng. Đúng bằng số tuổi của o khi ngã xuống.
Yên Bái, tháng 7-2017