Trong quá trình một người trưởng thành và các luân xa phát triển, mỗi luân xa tương ứng với những khuôn mẫu tâm lý ngày càng phức tạp trong đời sống của cá nhân đó. Với những trải nghiệm khó chịu, hầu hết chúng ta phản ứng theo kiểu dập tắt cảm giác của bản thân và ngăn không cho rất nhiều năng lượng tự nhiên của chúng ta tuôn chảy. Điều này ảnh hưởng đến sự phát triển và hoàn thiện của các luân xa, dẫn đến ức chế chức năng tâm lý vốn hoàn toàn cân bằng. Ví dụ như nếu một đứa trẻ liên tục bị cự tuyệt mỗi lần cố gắng thể hiện tình cảm yêu thương với người khác, ắt hẳn là nó sẽ ngừng cố gắng. Muốn làm vậy, nó chắc chắn sẽ phải tìm cách ngăn chặn cảm giác yêu thương bên trong mình để phù hợp với hành động bên ngoài. Muốn làm vậy, nó sẽ phải ngăn chặn năng lượng chảy qua luân xa tim. Khi năng lượng chảy qua luân xa tim bị ngăn chặn hoặc bị làm chậm lại, sự phát triển của luân xa tất bị ảnh hưởng. Rốt cuộc, nhiều khả năng điều này sẽ gây ra một vấn đề thể chất.
Quá trình tương tự xảy ra ở mọi luân xa. Mỗi khi một người ngăn chặn bất kỳ trải nghiệm nào mà anh ta đang có, anh ta thành ra ngăn chặn các luân xa của mình, rốt cuộc dẫn đến bị biến dạng luân xa. Các luân xa trở nên “tắc nghẽn”, bị năng lượng ứ đọng bịt kín, quay không đều, hoặc quay ngược (ngược chiều kim đồng hồ) và trong trường hợp có bệnh, thậm chí còn bị rách hoặc biến dạng nghiêm trọng.
Khi hoạt động bình thường, các luân xa sẽ “mở ra”, quay xuôi chiều kim đồng hồ để chuyển hóa năng lượng cần thiết từ trường vũ trụ. Quay xuôi theo chiều kim đồng hồ giúp luân xa hút năng lượng từ trường năng lượng vũ trụ, rất giống với quy tắc bàn tay phải trong điện từ trường – quy tắc đó phát biểu rằng một từ trường biến đổi quanh một dây dẫn sẽ tạo ra một dòng điện trong dây dẫn đó. Tưởng tượng dùng bàn tay phải nắm lấy một dây dẫn sao cho các ngón tay hướng về cực dương. Khi đó, ngón cái choãi ra sẽ tự động chỉ chiều của dòng điện cảm ứng. Quy tắc tương tự cũng đúng với các luân xa. Nếu bạn nắm lấy một luân xa bằng bàn tay phải, rồi đặt sao cho các ngón tay khum xung quanh rìa ngoài của luân xa theo chiều kim đồng hồ thì ngón cái choãi ra sẽ hướng về cơ thể và theo chiều của “dòng”. Do đó, chúng ta diễn đạt nôm na là luân xa “mở” cho năng lượng đi vào. Ngược lại, nếu bạn khum các ngón tay phải ngược chiều kim đồng hồ quanh luân xa, ngón cái sẽ chỉ ra ngoài, theo chiều của dòng. Khi luân xa quay ngược chiều kim đồng hồ, dòng năng lượng chảy từ cơ thể ra bên ngoài, do đó gây cản trở cho quá trình chuyển hóa. Nói cách khác, những năng lượng cần thiết mà chúng ta trải nghiệm như thực tại tâm lý không chảy vào luân xa nếu luân xa đang quay ngược chiều kim đồng hồ. Vì thế, chúng ta gọi luân xa đó là “đóng” với năng lượng đi vào.
Hầu hết những người tôi từng quan sát lúc nào cũng có ba hoặc bốn luân xa đang quay ngược chiều kim đồng hồ. Thường thì qua trị liệu, chúng sẽ ngày càng mở hơn. Bởi lẽ các luân xa không chỉ chuyển hóa năng lượng, mà còn cảm nhận năng lượng, thế nên chúng là phương tiện diễn giải cho chúng ta về thế giới xung quanh. Nếu “đóng” luân xa, chúng ta làm cho những thông tin này không thể đi vào. Do đó, khi làm cho luân xa chảy ngược chiều kim đồng hồ, chúng ta truyền năng lượng của mình ra ngoài thế giới, cảm nhận năng lượng mà chúng ta truyền ra và nói rằng đó là thế giới. Đây chính là sự phóng chiếu trong tâm lý học.
Thực tại tưởng tượng chúng ta phóng chiếu ra thế giới liên quan đến “hình ảnh” của thế giới mà chúng ta đúc kết thông qua những trải nghiệm thời thơ ấu; và thông qua tâm trí của đứa bé mà chúng ta từng là. Vì mỗi luân xa tương ứng với một chức năng tâm lý cụ thể, thế nên những gì chúng ta phóng chiếu qua mỗi luân xa sẽ nằm bên trong khu vực hoạt động thông thường của mỗi luân xa và sẽ mang tính cá nhân rất cao đối với mỗi chúng ta, bởi trải nghiệm sống của mỗi người là độc nhất. Do đó, khi đo trạng thái của các luân xa, chúng ta có thể xác định được toàn bộ những vấn đề trong cuộc sống hiện tại và trong tương lai của một người.
John Pierrakos và tôi đã liên kết tình trạng hoạt động bất thường của mỗi luân xa với rối loạn tâm lý. Mọi xáo trộn trong luân xa, được đo bằng các kỹ thuật cảm xạ, đều cho thấy tình trạng hoạt động bất thường trong phạm vi tâm lý có liên quan (xem Chương 10). Bởi vậy, bằng cách đo trạng thái của luân xa, chúng ta có thể chẩn đoán nhu cầu tâm lý của khách hàng. Tôi cũng tác động trực tiếp tới các luân xa để tạo ra thay đổi về mặt tâm lý. Ngược lại, chúng tôi phát hiện ra rằng những khuôn mẫu tâm lý được các nhà trị liệu mô tả có liên kết chặt chẽ với trường năng lượng con người theo những hình thù, màu sắc, vị trí có thể dự đoán được.
Hình 7‒3 cho thấy vị trí bảy trung tâm năng lượng chính của các luân xa được dùng để chẩn đoán tình trạng tâm lý. Chúng được chia thành các trung tâm tâm trí, trung tâm ý chí và trung tâm cảm xúc. Đối với sức khỏe tâm lý, cả ba loại luân xa: lý trí, ý chí và cảm xúc đều phải ở trạng thái mở và cân bằng. Ba luân xa ở khu vực đầu và cổ họng chi phối lý trí; các luân xa nằm ở phía trước cơ thể chi phối cảm xúc; các luân xa đối ứng của chúng ở phía sau cơ thể chi phối ý chí. Bảng 9‒1 đưa ra bảng về các luân xa chính và chức năng tâm lý của chúng.
Bảng 9-1
CÁC LUÂN XA CHÍNH VÀ CHỨC NĂNG TÂM LÝ GẮN CÙNG
Chúng ta hãy cùng tìm hiểu những khu vực hoạt động chức năng tâm lý thông thường của mỗi luân xa. Luân xa thứ nhất, trung tâm xương cụt (1), liên quan đến mức năng lượng vật lý và ý chí sống trong thực tại vật lý. Nó là vị trí mà sinh lực lần đầu tiên biểu hiện trong thế giới vật chất. Khi sinh lực hoạt động đầy đủ qua trung tâm này, con người sẽ có ý chí đủ mạnh để sống trong thực tại vật lý. Khi sinh lực hoạt động đầy đủ qua ba luân xa thấp nhất, kết hợp với một dòng chảy mạnh xuống chân, sức mạnh thể chất được khẳng định rõ ràng và trực tiếp. Xương cụt hoạt động như một máy bơm năng lượng ở vầng dĩ thái, hỗ trợ điều dòng chảy năng lượng hướng lên theo cột sống.
Sự khẳng định về sức mạnh thể chất, kết hợp với ý chí sống, đem lại cho cá nhân một “sự hiện diện” của sức mạnh và sức sống. Họ tuyên bố: “Tôi đang ở đây”, và có nền tảng vững chắc trong thực tại vật lý. “Sự hiện diện” của sức mạnh và sức sống tỏa ra từ họ dưới hình thái của năng lượng sống. Họ thường xuyên thực hiện vai trò của một máy phát điện bằng cách tiếp năng lượng cho những người xung quanh, nạp lại hệ thống năng lượng của họ. Họ có một ý chí sống mạnh mẽ.
Khi trung tâm xương cụt bị tắc nghẽn hoặc bị đóng lại, hầu hết sức sống vật lý của sinh lực bị tắc nghẽn, và người đó không tạo ra một ấn tượng mạnh mẽ trong thế giới vật chất. Họ không “ở đây”. Họ sẽ tránh các hoạt động thể chất, sẽ thiếu hụt năng lượng và có thể còn “hay ốm đau”. Và họ sẽ không có đủ sức mạnh thể chất.
Trung tâm xương mu (luân xa 2A) liên quan đến chất lượng tình yêu mà một người có thể có đối với người khác giới. Khi nó mở, nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao nhận khoái cảm tình dục và thể xác. Nếu trung tâm này mở, con người chắc chắn sẽ tận hưởng được hoạt động quan hệ tình dục và đạt cực khoái. Tuy nhiên, để đạt cực khoái toàn thân thì đòi hỏi mọi trung tâm đều phải ở trạng thái mở.
Trung tâm xương cùng (luân xa 2B) liên quan đến mức năng lượng tình dục của một người. Khi trung tâm này mở, cá nhân sẽ cảm nhận được sức mạnh tình dục của mình. Nếu làm tắc nghẽn luân xa này thì mọi động lực tình dục và khả năng quan hệ mà người đó có đều sẽ yếu ớt và gây thất vọng. Họ chắc chắn sẽ không còn nhiều ham muốn tình dục, có xu hướng tránh né chuyện quan hệ và phủ nhận ý nghĩa cũng như khoái lạc mà tình dục đem lại, hệ quả là khu vực này không được nuôi dưỡng đầy đủ. Bởi cực khoái vốn làm cho cơ thể được ngập trong năng lượng sống, thế nên cơ thể sẽ không còn được nuôi dưỡng theo cách đó, và nó cũng sẽ không được nuôi dưỡng về mặt tâm lý thông qua sự thân mật và tiếp xúc cơ thể với người khác.
Mối quan hệ giữa các luân xa 2A và 2B. Luân xa xương cùng hoạt động thành cặp với luân xa xương mu. Tại hai điểm mà trung tâm phía trước và trung tâm phía sau giao nhau, trong tâm của luân xa, trong cột sống, sinh lực biểu lộ mục đích và thôi thúc vật lý lớn thứ hai của nó – đó là khao khát hợp nhất về mặt tình dục. Lực có tác động rất mạnh này phá vỡ những ranh giới tự áp đặt giữa hai con người và thu hút họ lại gần nhau hơn.
Do đó, có thể nói rằng bản năng giới tính của mỗi người được kết nối với sinh lực của họ. (Tất nhiên điều này đúng với mọi trung tâm: bất cứ trung tâm nào bị tắc nghẽn thì cũng làm tắc nghẽn sinh lực tại khu vực tương ứng). Bởi lẽ khu vực khung xương chậu của cơ thể là nguồn hoạt lực, thế nên bất kỳ trung tâm nào bị tắc nghẽn tại khu vực này cũng sẽ gây suy giảm hoạt lực thể chất và dục tính. Đối với đại đa số con người, năng lượng dục tính đi qua, nạp và giải phóng trong sự cực khoái thông qua hai luân xa dục tính này. Sự vận động này đưa sức sống mới vào và thanh lọc cơ thể bằng một bể năng lượng. Nó tống khứ những năng lượng bị tắc của hệ thống cơ thể, những chất thải và căng thẳng sâu kín. Cực khoái trong tình dục là yếu tố quan trọng đối với sức khỏe toàn diện về mặt thể chất của con người.
Cùng nhau thả mình vào trạng thái thân mật sâu sắc thông qua việc trao nhận trong hoạt động quan hệ tình dục là một trong những phương cách chính mà con người có để buông bỏ cái tôi “riêng biệt” và trải nghiệm sự đồng nhất. Nếu được thực hiện cùng tình yêu và sự tôn trọng đối với tính độc nhất của người bạn tình, quan hệ tình dục sẽ là một trải nghiệm thiêng liêng đỉnh điểm phát xuất từ những thôi thúc giao hợp mang tính nguyên thủy sâu sắc của sự tiến hóa ở cấp độ vật lý, và từ những khao khát mang tính tâm linh sâu sắc là đồng nhất với Thượng đế. Đó là sự liên kết chặt chẽ giữa hai con người ở cả khía cạnh tâm linh lẫn khía cạnh vật lý.
Với những người đã đạt được đến trạng thái thân mật như vậy và trải qua những giai đoạn khác trên con đường tâm linh, thì những phương pháp tu tập tâm linh như yoga Kundalini và truyền thống Tantra không còn cần thiết đối với sức khỏe toàn diện của họ (hầu hết con người đều không nằm trong diện này). Nhiều phương pháp thực hành tâm linh sử dụng thiền để chứa đựng, chuyển hóa và điều hướng năng lượng tính dục theo những kênh năng lượng khác, dịch chuyển nó dọc theo dòng năng lượng thẳng đứng trên cột sống để chuyển hóa nó thành loại năng lượng gây ra rung động cao hơn, rồi sử dụng nó để tạo dựng những cơ thể năng lượng mang tính tâm linh cao hơn. Đây là một phương pháp thực hành có tác động rất lớn và tiềm ẩn nhiều nguy hiểm, thế nên cần có người chỉ dẫn trong lúc thực hiện. Trong cuốn sách Kundalini của mình, Gopi Krishna cũng có nói đến sự chuyển hóa của hạt giống vật chất, tinh trùng, sang năng lượng tâm linh, hoặc Kundalini, theo cơ chế trên. Nhiều phương pháp thực hành tâm linh chủ trương bảo toàn tinh trùng hoặc hạt giống tâm linh để tiến hành chuyển hóa.
Các khối tắc nghẽn trong luân xa 2A và 2B. Tắc nghẽn tại trung tâm xương mu có thể làm phụ nữ mất khả năng đạt cực khoái, bởi lẽ họ không thể thông mở và tiếp nhận dinh dưỡng dục tính từ bạn tình. Gần như là họ sẽ không kết nối được với âm đạo của mình và không thể tận hưởng sự thâm nhập của dương vật. Họ có thể có khuynh hướng thích sự kích thích âm đạo hơn là sự thâm nhập của dương vật. Họ cũng có thể luôn muốn là người chủ động trong khi quan hệ tình dục, tức là muốn ở bên trên và khởi xướng phần lớn các động tác. Điều bất thường ở đây là họ lúc nào cũng phải nắm quyền kiểm soát. Nếu ở trạng thái lành mạnh, họ sẽ có lúc muốn chủ động, có lúc muốn thụ động, nhưng trong trường hợp này thì họ kinh sợ sức mạnh của người bạn tình một cách vô thức. Nếu người bạn tình biết chấp nhận và dịu dàng, nhẫn nại quan tâm đến họ, thì dần dần, sau một khoảng thời gian, người phụ nữ có thể mở được luân xa xương mu để tiếp nhận và tận hưởng sự thâm nhập của dương vật. Như tôi đã nêu ở phần đầu chương, người phụ nữ cũng phải đi qua những cảm giác sợ hãi và chối từ sâu kín đối với người bạn tình – những điều vốn gắn liền với tình trạng của họ – nhằm tìm ra những hình ảnh mà từ đó những cảm giác như vậy nảy sinh. Tôi không có ý nói là người phụ nữ không nên chủ động trong chuyện tình dục. Tôi chỉ đang đề cập đến tình trạng mất cân bằng trong việc cho nhận.
Ở nam giới, tắc nghẽn nghiêm trọng tại luân xa xương mu thường kèm theo tình trạng xuất tinh sớm hoặc không thể cương cứng. Anh ta vốn lo sợ việc cho đi toàn bộ năng lượng tính dục của mình ở một mức độ sâu kín nào đó, thế nên anh ta kìm nén nó lại. Dòng năng lượng của anh ta thường xuyên bị gián đoạn, tắc nghẽn hoặc bị điều hướng ngược trở lại, ra khỏi luân xa xương cùng, thành thử khi đạt cực khoái, anh ta phóng năng lượng qua luân xa thứ hai ở phía sau thay vì qua dương vật. Trải nghiệm này đôi khi gây ra đau đớn, dẫn đến tình trạng lãnh cảm tình dục và né tránh chuyện quan hệ. Tương tự như với người nữ không thể đạt cực khoái, điều đó làm phát sinh đột ngột những khó khăn ở các các mức độ khác cho bạn tình của anh ta. Tất nhiên là nhiều khi theo quy luật “gió tầng nào gặp mây tầng đó”, những người trên tìm tới nhau và san sẻ vấn đề chung này. Rất thường xuyên, giải pháp “giả” là đổ lỗi cho đối phương và cố gắng tìm kiếm một người bạn tình khác. Điều này chỉ làm kéo dài thêm tình trạng chừng nào “chủ nhân” của vấn đề chưa thừa nhận mình là người chịu trách nhiệm. Khi đó, việc đào sâu tìm kiếm những hình ảnh hoặc niềm tin khởi nguồn có thể bắt đầu được tiến hành.
Đối với những trường hợp trên, sẽ là một diễm phúc nếu họ có được người bạn đời biết chấp nhận, thấu hiểu và tận tâm hết mực. Thay vì đổ lỗi cho nhau, nếu đôi bên cùng thừa nhận khó khăn của mình thì họ có thể tập trung vào việc trao đi tình yêu, sự thấu hiểu và hỗ trợ tới người bạn tình của mình và từ đó phát triển một hình thái quan hệ qua lại mới. Kiểu phát triển này đòi hỏi thời gian và tính kiên nhẫn. Nó cần sự trao đi thực sự mà không đòi hỏi đối phương thỏa mãn nhu cầu của mình. Sau đó, thường thì khi sự tin tưởng lẫn nhau và tôn trọng bản thân phát triển từ việc cho đi tình yêu và ngừng đổ lỗi, bản năng giới tính sẽ được khai mở và phát triển thành sự trao đổi mang tính nuôi dưỡng. Việc một trong những trung tâm này bị đóng còn số khác lại mở là hoàn toàn bình thường. Nhiều khi đó chỉ là cách thức vận hành của cặp luân xa (trước/sau) ở con người. Sẽ có cái hoạt động thái quá trong khi cái còn lại hoạt động dưới mức thông thường, đó là bởi người này không thể chịu được tác động khi cả hai phía của một luân xa hoạt động đồng thời. Chẳng hạn, một số người rất khó vừa cảm nhận được sức mạnh tính dục to lớn vừa sẵn sàng thông mở để cho đi và nhận lại từ người khác khi làm tình. Nhiều khi sức mạnh tính dục chuyển thành hình ảnh tưởng tượng hơn là cho phép khoảnh khắc đó được mở ra bằng cách đắm chìm bản thân vào những chiều sâu và bí ẩn riêng tư của đối phương. Con người là những sinh vật phức tạp và đẹp đẽ vô cùng. Rất hiếm khi chúng ta cho phép bản thân đơn thuần là lang thang tự do trong cái đẹp kỳ thú này. Các vấn đề tâm lý phát sinh từ tình trạng mất cân bằng ở luân xa 2A và 2B dẫn đến những tình huống bất mãn trong đời sống.
Chẳng hạn, khi trung tâm phía sau hoạt động mạnh theo chiều kim đồng hồ còn trung tâm phía trước hoạt động yếu hoặc bị đóng, người đó sẽ có thôi thúc tính dục mãnh liệt và chắc chắn có nhiều nhu cầu quan hệ tình dục. Vấn đề là những năng lượng và thôi thúc tính dục dạt dào này lại không đi kèm với khả năng cho nhận tình dục. Bởi vậy, thôi thúc mãnh liệt này sẽ rất khó để thỏa mãn. Nếu trung tâm phía trước hoạt động mạnh theo ngược chiều kim đồng hồ, vấn đề vẫn vậy; tuy nhiên, thôi thúc này chắc chắn sẽ còn kèm theo những hình ảnh tiêu cực, thậm chí có thể là những mơ tưởng tình dục hung bạo. Lẽ dĩ nhiên là nó khiến thôi thúc đó càng khó được thỏa mãn hơn, và người gặp tình trạng này có thể làm rất nhiều thứ để áp chế nhằm tránh né hoàn toàn vấn đề này bởi cảm thấy xấu hổ vì những cảm giác trong lòng kiểu như vậy. Mặt khác, người đó có thể có nhiều bạn tình và rồi lỡ mất cơ hội có được sự thân mật sâu sắc giữa hai linh hồn trong hoạt động tình dục. Người đó có thể phá vỡ những cam kết hoặc không thể đưa ra cam kết nào liên quan đến tình dục.
Đám rối dương (luân xa 3A) gắn kết với niềm vui lớn lao bắt nguồn từ việc hiểu biết sâu sắc về vị trí độc nhất và có kết nối của một người trong vũ trụ. Người có luân xa 3A mở có thể nhìn lên bầu trời sao vào ban đêm và cảm nhận bản thân thuộc về nơi đó. Họ kết nối vững chắc với vị trí của mình trong vũ trụ; là trung tâm của khía cạnh biểu lộ độc nhất của chính mình trong vũ trụ hiển lộ và từ đó, họ nhận lấy tri kiến của thế giới tâm linh.
Mặc dù luân xa đám rối dương là một luân xa chủ về tâm trí, nhưng tình trạng hoạt động lành mạnh của nó có liên hệ trực tiếp tới đời sống cảm xúc của một cá nhân. Sở dĩ như vậy là vì tâm trí hay các quá trình trí óc vốn đóng vai trò điều tiết đời sống cảm xúc. Việc hiểu rõ các cảm xúc giúp xếp đặt các cảm xúc này vào một khuôn khổ trật tự và xác định thực tại theo cách chấp nhận được.
Nếu trung tâm này mở và hoạt động hài hòa, người đó sẽ có đời sống cảm xúc trọn vẹn và sâu sắc, thành thử không bị nó lấn át. Tuy nhiên, nếu trung tâm này mở nhưng màng bảo vệ bao quanh nó bị rách, họ sẽ có nhiều cảm xúc cực đoan khó kiểm soát. Họ có thể chịu ảnh hưởng của những nguồn bên ngoài đến từ cõi giới tinh tú, những thứ có thể làm họ bối rối. Họ có thể bị lạc lối trong vũ trụ và những vì sao. Sớm muộn họ sẽ chịu những cơn đau vật lý tại khu vực này do lạm dụng luân xa và rốt cuộc có thể gây ra bệnh tật, chẳng hạn như chứng suy yếu tuyến thượng thận.
Nếu trung tâm này bị đóng, người đó sẽ chặn cảm giác của bản thân, có thể là không còn cảm giác gì nữa; sẽ không nhận thức được ý nghĩa sâu xa hơn của các cảm xúc vốn mượn chiều kích khác để tồn tại. Họ có thể bị mất kết nối với tính độc nhất của riêng mình trong vũ trụ cũng như mục đích lớn lao hơn của bản thân.
Nhiều khi, trung tâm này đóng vai trò như một rào chắn giữa trái tim và bản năng giới tính. Nếu cả hai cùng mở mà đám rối dương bị chặn, thì cả hai sẽ hoạt động riêng rẽ; tức là tình dục sẽ không được kết nối sâu sắc với tình yêu và ngược lại. Cả hai kết nối hết sức tốt đẹp khi cá nhân nhận thức được sự tồn tại vững chắc của họ trong vũ trụ vật chất cũng như dòng dõi lịch sử lâu đời của những người đã tạo ra phương tiện biểu lộ trong thế giới vật chất mà họ hiện đang có. Chúng ta không bao giờ được phép đánh giá thấp khía cạnh vật chất sâu sắc của mỗi con người.
Xét đến mối kết nối giữa con người, trung tâm đám rối dương là một trung tâm vô cùng quan trọng. Khi một đứa trẻ được sinh ra, dây rốn dĩ thái liên kết giữa người mẹ và đứa trẻ vẫn được giữ nguyên. Những sợi dây này biểu trưng cho một mối kết nối giữa con người. Mỗi khi một người tạo mối quan hệ với một người khác, những sợi dây sẽ phát triển giữa hai luân xa 3A. Mối liên kết giữa hai người càng mạnh thì những sợi dây này càng bền chặt và càng gia tăng về mặt số lượng. Trong trường hợp một mối quan hệ trên đà chấm dứt thì những sợi dây này cũng từ từ bị ngắt rời ra.
Trong mối quan hệ, dây nối cũng hình thành ở các luân xa khác của con người, nhưng dây nối của luân xa thứ ba dường như là sự tái hiện lại mối liên kết phụ thuộc của con với mẹ và rất quan trọng về mặt phân tích tương giao trong quá trình trị liệu. Phân tích tương giao là một phương pháp xác định bản chất của sự tương tác giữa bạn với người khác. Bạn đang tương tác với họ như con đối với bố mẹ (con/bố mẹ)? Hay bạn đang tương tác với họ như thể họ là trẻ con còn bạn là người lớn (người lớn/trẻ con)? Hay đôi bên đều hành xử như người lớn? Kiểu phân tích này hé mở nhiều điều về phản ứng cá nhân của bạn đối với người khác. Bản chất của những dây nối luân xa mà bạn tạo thành trong gia đình đầu tiên của mình sẽ được lặp lại trong toàn bộ những mối quan hệ mà bạn hình thành về sau. Khi còn nhỏ, những dây nối con/mẹ đơn thuần tương ứng với mối quan hệ con/mẹ. Khi trưởng thành, nhiều khả năng là bạn sẽ phát triển những dây nối con/mẹ phụ thuộc giữa bạn và vợ/chồng. Theo thời gian, bạn trở nên chín chắn hơn và sẽ dần dần chuyển biến những dây nối con/mẹ thành những dây nối người lớn/người lớn.
Trung tâm cơ hoành (luân xa 3B), nằm sau đám rối dương, gắn kết với chủ định của một người về sức khỏe thể chất của người đó. Người nào có tình yêu lành mạnh đối với cơ thể mình, và có chủ định duy trì sức khỏe, trung tâm này của họ sẽ mở. Trung tâm này còn được gọi là trung tâm chữa lành và gắn liền với việc chữa lành tâm linh. Người ta cho rằng ở một số người chữa lành, trung tâm này mở rất rộng và phát triển thành thục. Nó cũng là một trung tâm ý chí giống với trung tâm nằm giữa xương vai và thường nhỏ hơn những trung tâm ý chí khác, ngoại trừ ở những người có khả năng chữa lành. Trung tâm này gắn kết với trung tâm đám rối dương, ở phía trước, và thường mở nếu trung tâm đám rối dương mở. Nếu một người có trung tâm đám rối dương mở và do đó kết nối được với vị trí của họ trong vũ trụ, chấp nhận rằng họ ăn khớp hoàn hảo như bao ngọn cỏ, như “hoa huệ ngoài đồng”, thì ở cấp độ vật lý, sự tự chấp nhận bản thân của người đó sẽ biểu lộ thành sức khỏe thể chất. Sức khỏe toàn diện – về mặt tinh thần, cảm xúc và tâm linh – đòi hỏi mọi trung tâm đều phải ở trạng thái mở và cân bằng.
Trong quá trình chúng ta đi qua nội dung mô tả về các luân xa, bạn sẽ thấy rằng mặt trước và sau của mỗi luân xa đều hoạt động cùng nhau như một cặp, và chúng ta cần chú tâm đến trạng thái cân bằng giữa hai bên thay vì chỉ cố gắng mở thật rộng một bên.
Luân xa tim (luân xa 4A) là trung tâm mà thông qua đó, chúng ta thể hiện tình yêu. Năng lượng liên hệ với toàn bộ sự sống chảy qua trung tâm này. Trung tâm này càng mở bao nhiêu thì chúng ta càng có khả năng yêu thương vô điều kiện nhiều bấy nhiêu. Khi trung tâm này hoạt động, chúng ta yêu thương bản thân, con cái, bạn đời, gia đình, thú nuôi, bạn bè, hàng xóm, đồng hương, đồng loại và mọi sinh vật trên Trái đất này.
Thông qua trung tâm này, chúng ta kết nối với những sợi dây dẫn tới trung tâm tim của những người mà chúng ta có mối quan hệ yêu thương, bao gồm con cái và cha mẹ cũng như người yêu và bạn đời. Bạn hẳn cũng từng nghe đến khái niệm “tơ lòng” vốn ám chỉ những dây nối này. Những cảm giác yêu thương chảy qua luân xa này thường làm chúng ta rơi nước mắt. Một khi đã trải nghiệm trạng thái yêu thương không bị tắc nghẽn này, chúng ta nhận ra trước giờ mình đã bỏ lỡ nó đến nhường nào và chúng ta khóc. Khi luân xa này mở, một người có thể nhìn thấy toàn bộ tính cá nhân bên trong đồng loại của họ. Họ có thể nhìn thấy tính độc nhất, vẻ đẹp và ánh sáng nội tại của mỗi cá nhân cũng như những mặt tiêu cực và kém phát triển. Trong trạng thái tiêu cực (bị đóng), một người sẽ gặp khó khăn trong việc yêu thương, yêu thương với nghĩa là cho đi tình yêu mà không trông mong được hồi đáp lại bất kỳ điều gì.
Luân xa tim là luân xa có vai trò quan trọng nhất trong quá trình chữa lành. Toàn bộ năng lượng chuyển hóa qua các luân xa đi lên theo dòng năng lượng thẳng đứng thông qua gốc rễ của các luân xa và đi vào luân xa tim trước khi di chuyển ra ngoài tay và mắt của người chữa lành. Trong quá trình chữa lành, trái tim chuyển hóa năng lượng ở mức vật chất thành năng lượng ở mức tâm linh và năng lượng ở mức tâm linh thành năng lượng ở mức vật chất để bệnh nhân sử dụng chúng. Tôi sẽ trình bày vấn đề này chi tiết hơn ở chương bàn về phương pháp chữa lành.
Nằm giữa xương vai, luân xa 4B gắn kết với ý chí bản ngã, hay ý chí bên ngoài. Từ trung tâm này, những hành động của chúng ta trong thế giới vật chất được phát sinh. Chúng ta theo đuổi những gì chúng ta mong muốn.
Nếu trung tâm này quay theo chiều kim đồng hồ, chúng ta sẽ có thái độ tích cực đối với việc hoàn thành mọi thứ trong cuộc sống và xem người khác là nguồn hỗ trợ cho những thành quả này. Thế rồi, chúng ta sẽ có những trải nghiệm củng cố cho quan niệm này bởi lẽ chúng ta sống theo nó. Chúng ta sẽ trải nghiệm sự hòa hợp giữa ý chí của bản thân và ý chí thiêng liêng. Chẳng hạn, nếu bạn muốn viết một cuốn sách, bạn sẽ mường tượng bạn bè hỗ trợ bạn và cuốn sách được các nhà xuất bản chấp nhận theo kiểu: “Vâng, đây chính là cuốn sách chúng tôi đang tìm kiếm.”
Mặt khác, nếu trung tâm này quay ngược chiều kim đồng hồ thì điều ngược lại sẽ xảy ra. Chúng ta sẽ có nhận thức sai lệch rằng ý chí của Thượng đế cũng như ý chí của người khác trái ngược với ý chí của chúng ta. Ai nấy dường như đều cản trở chúng ta đạt được điều mình muốn. Chúng ta sẽ phải chịu đựng họ hoặc giẫm đạp lên họ để đạt được điều mình muốn, thay vì xem họ là nguồn hỗ trợ chúng ta. Chúng ta tin vào những câu như “ý tôi mới là nhất” và “nhân định thắng thiên”. Những niềm tin sâu kín về cách vận hành của vũ trụ có liên quan tới trung tâm này.
Về cơ bản, vũ trụ mang hình ảnh một chốn thù địch, nơi mà những kẻ gây hấn hùng mạnh sẽ sống sót, đôi khi có thể tóm gọn lại là “nếu mọi sự không theo phương cách của tôi đồng nghĩa với chuyện tôi đang gặp mối nguy về sinh tồn”. Tính kiểm soát chi phối hoạt động của con người này và anh ta cố công biến thế giới của mình thành chốn an toàn bằng cách kiểm soát người khác. Giải pháp cho anh ta là nhận ra bản thân đã tạo ra một môi trường thù địch do tính gây hấn của mình như thế nào, và rồi liều lĩnh buông bỏ để xem thử liệu bản thân có thể sống sót mà không cần kiểm soát hay không. Sự liều lĩnh này sau cùng sẽ dẫn đến trải nghiệm về một vũ trụ nhân từ, dư dả và an toàn, ở đó sự tồn tại của anh ta được cái toàn thể hỗ trợ.
Trong trường hợp khác, trung tâm này có thể bị hoạt động quá mức. Nó có thể mở rất rộng theo chiều kim đồng hồ, cùng với đó là một luân xa tim nhỏ quay theo chiều kim đồng hồ hoặc ngược chiều kim đồng hồ. Trong trường hợp này, ý chí của một người không hẳn là tiêu cực, chỉ là nó được sử dụng để đáp ứng chức năng vốn thuộc về trung tâm tim. Thay vì có khả năng buông bỏ, tin tưởng và yêu thương, tức là chảy nhiều năng lượng hơn qua luân xa tim (4A), người này bù đắp bằng ý chí của mình. Anh ta cho chảy nhiều năng lượng hơn qua mặt trước của luân xa 4 nằm giữa xương vai. Người này có thể đang ngầm tuyên bố: “Tôi muốn làm theo ý mình mà không màng đến nhân tính của bạn.” Người này hoạt động chủ yếu theo ý chí hơn là tình yêu, hoặc là theo sức mạnh bên ngoài hơn là sức mạnh bên trong. Tình trạng méo mó này làm cho một người trở nên “sở hữu” bạn đời của họ thay vì đôi bên cùng bình đẳng.
Luân xa họng (5A), nằm ở phía trước cổ họng, được gắn kết với việc nhận trách nhiệm đối với những nhu cầu cá nhân của một người. Trẻ sơ sinh được người mẹ kề núm vú vào miệng, nhưng nó phải bú thì mới lấy được dinh dưỡng. Nguyên tắc tương tự vẫn tiếp diễn trong suốt cuộc đời. Khi một người trưởng thành, họ sẽ ngày càng chịu trách nhiệm nhiều hơn đối với việc đáp ứng những nhu cầu của bản thân. Để trưởng thành và để luân xa này hoạt động thích đáng thì một người cần phải ngừng xem những thiếu sót của bản thân là lỗi của người khác và dấn thân để tự tạo ra những nhu cầu và mong muốn của họ.
Trung tâm này cũng cho thấy trạng thái của một người đối với việc tiếp nhận bất kể thứ gì hướng đến mình. Nếu trung tâm này được xác định là quay ngược chiều kim đồng hồ, người đó sẽ không thể tiếp nhận hoàn toàn những gì được trao tới.
Điều này thường gắn với một hình ảnh về những điều sắp xảy đến với họ. Tức là, nếu người này quan niệm thế giới là một nơi tiêu cực, thù địch, họ sẽ trở nên thận trọng và mường tượng tiêu cực về những gì sắp xảy đến với mình. Người đó chuẩn bị tâm thế để đón nhận sự thù địch, bạo lực hoặc nhục mạ thay vì tình yêu và sự nuôi dưỡng. Bởi họ dựng lên một trường lực tiêu cực bằng những mường tượng tiêu cực của mình, lẽ dĩ nhiên là họ sẽ thu hút những thứ tiêu cực vào bản thân. Tức là, nếu họ tin chắc rằng bạo lực sắp xảy đến, họ sẽ có bạo lực bên trong mình và do đó thu hút nó, đúng theo quy luật những thứ giống nhau thì hút nhau, như tôi đã giải thích ở Chương 6 về bản chất của trường năng lượng vũ trụ.
Khi người này mở trung tâm cổ họng của mình, họ sẽ dần dần thu hút được nhiều sự nuôi dưỡng hơn đến khi có khả năng tiếp nhận nhiều đến mức mà họ có thể duy trì trạng thái mở của trung tâm cổ họng trong phần lớn thời gian. Trong giai đoạn chuyển tiếp, không lâu sau khi mở trung tâm này, họ có thể thu hút những thứ tiêu cực về mình bởi họ tin rằng đó là những thứ sẽ xảy đến. Khi người đó có thể vượt qua trải nghiệm này, kết nối với mục đích nguyên bản bên trong mình và tìm lại được lòng tin nội tại, họ sẽ mở lại được trung tâm cổ họng. Quá trình mở và đóng này tiếp diễn đến khi nào toàn bộ nhận thức sai lệch về việc tiếp nhận được chuyển hóa thành lòng tin vào sự nhân từ và săn sóc bao bọc của vũ trụ.
Khía cạnh đồng hóa diễn ra ở phía sau của luân xa thứ năm (5B), đôi khi còn được gọi là trung tâm nghề nghiệp, gắn kết với ý thức của một người về bản thân trong xã hội, trong nghề và với đồng nghiệp. Nếu một người không cảm thấy thoải mái trong lĩnh vực sống này của mình, thì rất có thể họ sẽ che giấu cảm giác khó chịu bằng sự kiêu hãnh hòng bù đắp cho lòng tự trọng bị thiếu hụt.
Trung tâm nằm phía sau cổ thường ở trạng thái mở nếu một người có được thành công và phù hợp với công việc của mình cũng như thỏa mãn với công việc đó, xem nó như là sứ mệnh cuộc đời. Nếu một người chọn lựa được một nghề vừa đem lại thách thức lẫn thỏa mãn và cống hiến hết mình cho công việc, trung tâm này sẽ được phát triển đầy đủ. Họ sẽ thành công trong công việc và nhận được sự hỗ trợ từ vũ trụ của họ để nuôi dưỡng bản thân. Nếu mọi sự không xảy ra như vậy, người này sẽ không thể phát huy được hết năng lực của bản thân; sẽ thất bại và che giấu sự thiếu thành công của mình bằng sự kiêu hãnh. Họ ngầm “hiểu” rằng bản thân sẽ trở nên “tốt hơn” nếu cống hiến hết mình hoặc chuyển sang một công việc khác thách thức hơn. Thế nhưng vì lý do nào đó, họ chẳng bao giờ làm hai điều trên và duy trì lớp phòng thủ kiêu hãnh để tránh né nỗi thất vọng thực sự ở bên dưới. Họ biết rằng mình đang không thực sự thành công trong cuộc sống. Họ chắc chắn sẽ đóng vai nạn nhân, oán trách cuộc sống đã không cho cơ hội để phát triển tài năng sáng giá của mình. Sự kiêu hãnh này cần được giảm xuống, để nỗi đau đớn, tuyệt vọng được cảm nhận và rồi vơi bớt đi.
Ở trung tâm này, chúng ta cũng sẽ phát hiện nỗi sợ thất bại vốn cản trở một người nắm lấy cơ hội để thay đổi và tạo ra những gì mà họ mong muốn tha thiết. Điều này cũng đúng đối với mối quan hệ bạn bè của họ nói riêng hay đời sống xã hội của họ nói chung. Vì né tránh gặp gỡ tiếp xúc, họ cũng né tránh bộc lộ bản thân, một mặt họ sợ trở thành kẻ đáng ghét trong mắt người khác, mặt khác, tính cạnh tranh và lòng kiêu hãnh của họ lại tuyên bố: “Tôi tốt đẹp hơn các người; các người không đủ tốt đối với tôi.” Bởi cảm giác chối bỏ của chúng ta bắt nguồn từ bên trong và rồi ta phóng chiếu chúng lên người khác, thế nên chúng ta né tránh người khác để né tránh sự chối bỏ. Hãy nắm lấy cơ hội làm công việc mà bạn khao khát bấy lâu, hướng đến những mối nhân duyên mà bạn mong mỏi và bộc lộ cảm giác của bạn về nó. Đó là những cách làm vơi bớt các cảm giác này và nhờ đó mở được luân xa thứ năm.
Trung tâm trán (luân xa 6A) gắn kết với khả năng mường tượng và nắm bắt những khái niệm tinh thần. Bao gồm những khái niệm của một người về thực tại và vũ trụ hay cách mà họ cho rằng thế giới sẽ phản ứng với mình. Nếu trung tâm này quay ngược chiều kim đồng hồ, một người sẽ có những khái niệm tinh thần không rõ ràng, hay những hình ảnh không thật và thường mang tính tiêu cực về thực tại. Người có những hình ảnh này tất phóng chiếu chúng ra thế giới và tạo nên thế giới của riêng họ từ chúng. Nếu trung tâm này bị tắc nghẽn và suy yếu, họ sẽ thường bị bí ý tưởng sáng tạo, đơn giản là vì có quá ít năng lượng chảy qua trung tâm này. Nếu trung tâm này quay mạnh và ngược chiều kim đồng hồ, họ sẽ có khả năng sản sinh ra những ý niệm tiêu cực mạnh mẽ. Nếu tình trạng trên kết hợp với một trung tâm điều hành chức năng hoạt động mạnh, nằm ở phía sau đầu (luân xa 6B), điều này có thể hủy hoại cuộc sống của người đó.
Trong quá trình trị liệu để thanh lọc hoặc phân loại những hình ảnh tiêu cực mà chúng ta tin vào, khi một hình ảnh xuất hiện trong hệ thống năng lượng và bắt đầu chiếm ưu thế, trung tâm này chắc chắn sẽ quay ngược chiều kim đồng hồ, kể cả thông thường nó có quay theo chiều kim đồng hồ. Nhờ trị liệu, bệnh nhân sẽ nhận biết và thấy được rõ ràng hình ảnh đó là gì. Khi ấy, trung tâm này sẽ quay ngược lại theo đúng chiều kim đồng hồ. Thường thì những nhà trị liệu dày dạn kinh nghiệm có thể nhận ra tình trạng chuyển động ngược chiều kim đồng hồ này, bởi nó thường kèm theo cảm xúc bất ổn. Nhà trị liệu có thể thấy rõ rằng đây không phải trạng thái bình thường. Chẳng hạn, luân xa này thậm chí có thể chuyển động hỗn loạn, nhìn vào đó, nhà trị liệu biết rằng một vấn đề có liên quan đến khái niệm về thực tại của khách hàng đang làm lung lay dữ dội nhân cách của họ.
Ở phía sau đầu, trung tâm điều hành tinh thần (luân xa 6B) gắn kết với việc thực thi những ý tưởng sáng tạo được hình thành từ trung tâm nằm ở trán. Nếu trung tâm ý chí có tính điều hành này mở, những ý tưởng của một người sẽ được tiếp nối bằng hành động thích hợp để chúng được hiện thực hóa trong thế giới vật chất. Nếu nó không mở, người này sẽ rất khó thực hiện ý tưởng của mình.
Khó chịu nhất là có trung tâm trước (6A) mở trong khi trung tâm sau lại đóng. Một người có thể có rất nhiều ý tưởng nhưng dường như chúng chẳng bao giờ đi tới đâu. Người này sẽ hay đổ lỗi cho thế giới bên ngoài. Thường thì họ chỉ cần tập cách thực hiện, từng bước một, những gì mình muốn hoàn thành. Trong khi làm kiểu công việc theo từng bước một này, rất nhiều cảm xúc sẽ xuất hiện. “Tôi không thể chờ lâu đến vậy được”; “Tôi không muốn chịu trách nhiệm cho những gì đang xảy ra”; “Tôi không muốn kiểm nghiệm ý tưởng này trong thực tế”; “Tôi không muốn mất nhiều thời gian, tôi muốn hiện thực hóa ý tưởng mà không cần tốn quá nhiều công sức”; “Anh là người thực hiện còn tôi sẽ là người lên ý tưởng”. Rất có thể là trước đây người này chưa được rèn luyện cách tiến từng bước một trong thế giới vật chất để hoàn thành mục tiêu họ đề ra. Họ chắc có lẽ cũng chống lại việc hiện hữu trong thực tại vật lý và trong vai trò người tập sự.
Mặt khác, nếu trung tâm này quay theo chiều kim đồng hồ còn trung tâm ý tưởng quay ngược chiều kim đồng hồ, chúng ta sẽ có một tình huống thậm chí còn khốn khổ hơn. Cho dù những khái niệm cơ bản của người này không phù hợp với thực tại, thế nhưng họ vẫn sẽ thực hiện thành công những ý niệm méo mó đó ở một mức độ nhất định. Chẳng hạn, nếu bạn tin rằng thế giới này là một chốn thối nát, nơi “ai nấy đều vì bản thân nên bạn cứ thế đoạt lấy những gì bạn muốn”, và bạn có khả năng làm như vậy bởi bạn biết cách xúc tiến chuyện đó, tức là ý chí thi hành của bạn đang hoạt động, và bạn có thể hành xử như một tên tội phạm. Trong trường hợp này, trái tim chắc chắn cũng sẽ bị tắc nghẽn. Cuộc sống sẽ xác thực ý niệm của bạn ở một chừng mực nhất định. Bạn sẽ thành công đến một mức độ nào đó cho tới khi bị bắt. Hoặc, với kiểu cấu hình này, bạn có thể cố gắng hiện thực hóa thứ gì đó vốn dĩ không thể xảy ra được trong thế giới vật chất. Hoặc, bạn có thể là người thực hiện những ý tưởng của người khác, bất kể chúng là gì.
Trung tâm đỉnh đầu (luân xa 7) có liên quan đến sự kết nối của một người với tính tâm linh của họ và sự hợp nhất của toàn bộ sinh mệnh họ về mặt thể chất, cảm xúc, tinh thần và tâm linh. Nếu trung tâm này đóng, một người ắt không có trải nghiệm kết nối với tính tâm linh của mình. Người đó chắc chắn không có cái “cảm thức vũ trụ” và không hiểu nổi những gì người khác đang nói khi họ đề cập đến trải nghiệm tâm linh. Nếu trung tâm này mở, một người tất thường xuyên trải nghiệm tính tâm linh của mình theo một hình thức tuyệt nhiên mang tính cá nhân, dành riêng cho họ. Tính tâm linh này không phải là thứ được giáo điều định nghĩa hay có thể dễ dàng diễn tả bằng ngôn từ. Đúng hơn thì nó là một trạng thái của con người, một trạng thái siêu việt của thực tại thế tục đi vào cõi vô hạn. Nó vượt ra khỏi thế giới vật chất và hình thành nên trong cá nhân cảm nhận về cái toàn thể, bình an và tin tưởng, cho họ cảm nhận được mục đích tồn tại của mình.
Điểm lại Chương 9
1. Mô tả chức năng tâm lý của mỗi luân xa.
2. Giải thích luân xa mở và luân xa đóng có nghĩa là gì, theo như mô tả trong chương này.