Có một vài phương pháp đánh giá tình trạng của các luân xa. Mới đầu, bạn sẽ cần phải tìm hiểu xem phương pháp nào dễ sử dụng và hữu ích nhất đối với mình.
Phương pháp hữu dụng nhất mà tôi tìm ra được để bắt đầu cảm nhận tình trạng của các luân xa là sử dụng một con lắc. Công cụ này giúp bạn nâng cao độ nhạy của bản thân đối với dòng năng lượng bởi nó có tác dụng khuếch đại. Theo tôi, loại con lắc tốt nhất phục vụ cho mục đích này là loại làm bằng gỗ sồi, có hình dạng quả lê, với đường kính 1 inch (2,5cm) và chiều dài là 1,5 inch (3,8cm). Trường năng lượng của loại con lắc này lan rộng, dễ thâm nhập và cũng có hình dạng quả lê. Con lắc có trục đối xứng thẳng đứng, yếu tố quan trọng để tiến hành đo lường tình trạng của các luân xa. (Bạn có thể mua lắc gỗ sồi tại Trung tâm Nghiên cứu Siêu hình, Archers’ Court, Stonestile Lane, Hastings, Sussex, Anh).
Nếu đã luyện được cho bàn tay nhạy hơn một chút, hoặc thích sử dụng xúc giác, bạn có thể tập dùng bàn tay để cảm nhận năng lượng chảy vào và chảy ra khỏi các luân xa. Điều này giúp bạn biết được năng lượng đang chảy tự do hay bị tắc nghẽn, yếu hay mạnh. Bạn cũng có thể làm tương tự với một huyệt châm cứu, chỉ cần đặt ngón tay lên đó là được. Khi sử dụng phương pháp này, bạn thậm chí có thể cảm nhận được một số phản ứng sinh lý trong chính cơ thể mình, nhờ đó có được thông tin mà bạn muốn biết.
Cuối cùng, sau khi đã phát triển Tri giác Cao cấp đến một cấp độ cao hơn, bạn có thể chỉ cần quan sát các luân xa là biết được tình trạng quay của chúng (bình thường hay bất thường) cũng như màu sắc của chúng (tối màu và bị tắc nghẽn, mờ và yếu, hoặc sáng rõ và có tông màu mạnh). Bạn cũng có thể nhìn ra là chúng có bị biến dạng hay không, nhất là bị biến dạng như thế nào. Đến một lúc, bạn thậm chí có thể nhận biết được các luân xa trên mỗi vầng của trường hào quang.
Nhưng trước hết chúng ta hãy cùng tập sử dụng con lắc.
Thực hành chẩn đoán trạng thái các luân xa bằng con lắc
Để đo các luân xa phía trước, hãy yêu cầu bệnh nhân của bạn nằm ngửa. Để đo các luân xa phía sau, yêu cầu bệnh nhân nằm sấp.
Để đo trạng thái của luân xa, giữ con lắc bằng một sợi dây dài khoảng 6 inch (15cm) phía trên luân xa và loại bỏ hết mọi thành kiến trong đầu bạn về trạng thái của luân xa đó (đây là phần khó nhất và đòi hỏi luyện tập). Đảm bảo sao cho con lắc càng sát cơ thể càng tốt nhưng không chạm vào người. Năng lượng của bạn chảy vào trường năng lượng của con lắc để hoạt hóa nó. Như vậy, trường năng lượng của con lắc sẽ kết hợp với trường năng lượng của bạn rồi tương tác với trường của đối tượng, làm cho con lắc chuyển động (xem Hình 10‒1.) Con lắc hầu như sẽ chuyển động theo quỹ đạo tròn, vẽ ra một đường tròn tưởng tượng trên cơ thể đối tượng. Nó có thể chuyển động tới lui theo quỹ đạo hình ê-líp hoặc đường thẳng. Nó có thể chuyển động thất thường. Phạm vi và hướng chuyển động của con lắc thể hiện lượng và hướng của dòng năng lượng chảy qua luân xa.
Tiến sĩ John Pierrakos đã phát hiện ra rằng nếu con lắc chuyển động theo chiều kim đồng hồ thì xét trên phương diện tâm động học, luân xa được đo đang ở trạng thái mở. Có nghĩa là những cảm xúc và trải nghiệm tâm lý do luân xa này chi phối cũng như chảy qua luân xa này là cân bằng và trọn vẹn trong đời sống của đối tượng được đo. Nếu con lắc chuyển động ngược chiều kim đồng hồ, tức là luân xa được đo đang ở trạng thái đóng về mặt tâm động học, điều này chỉ ra khu vực có vấn đề tương ứng với khía cạnh tâm lý của luân xa đó. Có nghĩa là những cảm giác và trải nghiệm tâm lý chịu chi phối của dòng chảy đi qua luân xa này là không cân bằng, do năng lượng bị tắc nghẽn, và đối tượng được đo rất dễ có những trải nghiệm tiêu cực đi kèm với chúng.
Kích cỡ vòng tròn được con lắc tạo ra có liên quan đến sức mạnh của luân xa được đo và mức năng lượng chảy qua nó. Nó cũng liên quan đến mức năng lượng của người chữa lành và của đối tượng vào ngày hôm đó. Nếu con lắc vẽ ra một vòng tròn lớn hơn, tức là có nhiều năng lượng chảy qua nó. Nếu vòng tròn nhỏ, tức là có ít năng lượng chảy qua con lắc.
Cần nhớ rằng đường kính của vòng tròn được con lắc vẽ ra chỉ mang tính biểu thị chứ không phải là kích cỡ của luân xa. Kích cỡ vòng tròn được con lắc vẽ ra thể hiện sự tương tác của ba trường: trường của đối tượng, nhà trị liệu và con lắc, như tôi đã đề cập bên trên. Nếu năng lượng của cả hai người đều thấp, tất cả các luân xa đều có vẻ nhỏ hơn. Nếu năng lượng đều cao, tất cả các luân xa sẽ dường như lớn hơn. Ta cần phải tập trung so sánh kích thước tương quan giữa các luân xa. Sức khỏe có được là nhờ cân bằng các luân xa nhằm tạo ra một dòng chảy năng lượng đồng đều đi qua mọi luân xa. Do đó, muốn khỏe mạnh thì mọi luân xa cần phải có kích thước bằng nhau.
Có rất nhiều mức độ biến đổi giữa các hình thái cơ bản của quay xuôi chiều và quay ngược chiều kim đồng hồ, chúng biểu thị nhiều trạng thái tâm lý. Bảng 10‒2 liệt kê nhiều dạng hình thù do con lắc vẽ ra. Mặc dù thoạt đầu nhìn vào bảng này có vẻ hơi phức tạp, nhưng thực ra nó lại rất đơn giản. Mỗi chuyển động được con lắc vẽ ra là một biến thiên giữa hai thái cực là luân xa mở hoàn toàn (quay theo chiều kim đồng hồ, đường kính khoảng 6 inch), gọi tắt là C6 (clockwise 6” diameter), hoặc luân xa đóng hoàn toàn, quay ngược chiều kim đồng hồ, gọi tắt là CC6 (counterclockwise 6” diameter). Tôi hiếm khi bắt gặp đường kính lớn hơn 6 inch trừ phi đối tượng đang lạm dụng một luân xa cụ thể nào đó quá lâu hoặc đang trong trạng thái rất thông mở sau một trải nghiệm tâm linh, khi đó hầu hết các luân xa đều mở. Tôi từng đo được đến C10 (quay theo chiều kim đồng hồ, đường kính khoảng 10 inch).
Trường hợp ngoại lệ duy nhất không nằm giữa C6 và CC6 là luân xa đứng yên hoàn toàn (S ‒ still), khi đó con lắc không chuyển động. Trong trường hợp này, hoặc là luân xa đang đảo chiều quay của nó, hoặc là đối tượng đã quá lạm dụng hoặc áp chế và cản trở chức năng tâm lý cụ thể gắn kết với luân xa đó, thành ra nó bị ngừng quay hoàn toàn và không còn chuyển hóa bất kỳ năng lượng nào từ trường năng lượng vũ trụ. Trạng thái này nếu kéo dài lâu ngày tất sẽ gây ra bệnh tật, bởi lẽ cơ thể không thể hoạt động lành mạnh nếu không còn tận dụng được nguồn năng lượng bên ngoài (xem Chương 15 về mối quan hệ giữa bệnh tật và các luân xa).
Hình 10-1: Cảm xạ luân xa bằng con lắc
BẢNG 10-2
CHẨN ĐOÁN TRUNG TÂM NĂNG LƯỢNG
Khi con lắc đu đưa thành hình ê-lip, đó là dấu hiệu cho thấy tình trạng mất cân bằng về phía bên phải/trái của dòng năng lượng trong cơ thể. Trái phải ở đây là phía bên trái hoặc phía bên phải của cơ thể bệnh nhân, tức là con lắc đu lên về bên trái (CEL ‒ clockwise, elliptical, left) hoặc sang phải (CER ‒ clockwise, elliptical, right) của cơ thể bệnh nhân. Điều này cũng cho thấy một bên của cơ thể mạnh hơn bên còn lại. Phía bên phải (CER, CCER ‒ counterclockwise, elliptical, right) tương ứng với tính chất chủ động, gây hấn, “nam tính” hoặc tính dương. Phía bên trái (CEL, CCEL ‒ counterclockwise, elliptical, left) tương ứng với tính chất thụ động, tiếp nhận, “nữ tính” hoặc tính âm của con người trần tục (phàm ngã). Khi con lắc chuyển động theo hình ê-lip chếch sang bên phải của cơ thể đối tượng, tiến sĩ John Pierrakos đã quan sát được rằng phàm ngã này có những mặt nam tính phát triển hơn mặt nữ tính. Người này chắc chắn sẽ luôn “hăng hái thái quá”, tức là anh ta sẽ tỏ ra quyết liệt vào cả những lúc cần nhún mình. Điều này có liên quan đến những vấn đề tương ứng trực tiếp với khu vực chức năng tâm lý chịu chi phối của luân xa thể hiện chuyển động hình ê-líp.
Trong trường hợp con lắc đu đưa thành hình ê-líp hướng lên trên về bên trái (CEL, CCEL) ở bất kỳ luân xa nào, đối tượng dễ có xu hướng trở nên thụ động trong những tình huống liên quan đến các vấn đề tâm lý chịu sự chi phối của luân xa đó. Chẳng hạn, nếu trung tâm ý chí nằm giữa xương vai (4B) là thụ động (hình ê-líp hướng lên trên về bên trái), đối tượng sẽ không thể vươn ra để đạt được những gì họ mong muốn. Người này sẽ tiếp tục thụ động trong khi cần phải hành động quyết liệt. Họ sẽ đợi người khác làm điều đó, hoặc người khác đưa nó cho họ. Họ cũng sẽ không có khả năng đứng lên vì quyền lợi hoặc mục đích của mình. Rất nhiều lần, thái độ khiêm tốn giả tạo được họ đưa ra làm cái cớ để tiếp tục thụ động, nhưng sự thật là họ sợ phải năng nổ, thường là do một số hình ảnh rất sâu kín về ý nghĩa của sự năng nổ, hung hăng.
Hình ảnh về sự hung hăng bắt nguồn trực tiếp từ trải nghiệm thời thơ ấu. Chẳng hạn, một đứa trẻ có thể có một người bố vô cùng hung hãn, ông ta sẽ lấn át hoặc làm bẽ mặt đứa trẻ mỗi khi nó nhờ giúp đỡ. Điều này khiến đứa trẻ dần tin rằng nhờ giúp không phải là cách tốt để có được những gì nó muốn. Trẻ con vốn rất sáng tạo, thế nên đứa trẻ này chắc chắn sẽ thử nghiệm nhiều cách thức khác nhau để có được thứ nó muốn, hoặc chí ít là cũng có được thứ gì đó bù đắp cho thứ nó muốn. Bất kể cách thức nào hiệu quả cũng đều trở thành thứ mà đứa trẻ sẽ vận dụng như một hành vi bản năng. Nó sẽ tiếp tục thực hiện hành vi này đến khi nào hành vi đó không còn phát huy hiệu quả trong cuộc sống của nó. Thật không may là thói quen này rất khó bỏ, và việc thay đổi để tìm ra cách thức mới đòi hỏi nhiều công sức, bởi lẽ tính hung hăng vốn chủ yếu được xem là tiêu cực. Thường thì ẩn dưới toàn bộ tính thụ động này là một thành phần vô cùng thù địch và hung hăng của nhân cách, lúc nào cũng muốn tự do bộc phát cảm xúc và giành lấy những thứ nó muốn. Nếu điều này được thực hiện lặp đi lặp lại nhiều lần trong môi trường trị liệu, đối tượng cuối cùng cũng sẽ có khả năng tích hợp tính năng nổ lành mạnh của anh ta vào nhân cách của mình. Công đoạn này cần phải thực hiện đồng thời với công đoạn biến đổi tính thụ động thành tính tiếp nhận lành mạnh.
Chuyển động vòng tròn của con lắc bên trên bất kỳ luân xa cụ thể nào càng méo mó thì biến dạng tâm lý càng nghiêm trọng. Chuyển động tới lui của con lắc tại một góc 45 độ so với trục dọc của cơ thể (R3, L4 ở Bảng 10‒2) cho thấy tình trạng phân tách phải/trái nghiêm trọng nhất. Chuyển động con lắc càng lớn thì năng lượng chứa trong sự biến dạng càng nhiều. Chẳng hạn, kích thước R6 của luân xa 4B cho thấy đối tượng được đo là người luôn mặc nhiên và hung hăng giành lấy những thứ anh ta muốn, bất chấp mọi hoàn cảnh.
Tương tự, quy tắc chung về đo mức độ nghiêm trọng cũng đúng trong trường hợp con lắc đu đưa tới lui theo chiều dọc (song song với trục dọc của cơ thể [V ‒ vertical]) hoặc theo chiều ngang (vuông góc với trục dọc của cơ thể [H ‒ horizontal]). Chuyển động dọc của con lắc biểu thị rằng cá nhân đang làm chệch hướng năng lượng đi lên theo phương thẳng đứng. Chuyển động ngang của con lắc biểu thị rằng cá nhân đang áp chế và cô đặc dòng năng lượng cũng như những cảm xúc nhằm né tránh tương tác cá nhân. Chẳng hạn, chuyển động dạng V5 của con lắc tại luân xa 3A biểu thị rằng người này đang tập trung mối kết nối cá nhân của mình theo phương thẳng đứng và theo hướng tâm linh, tránh né mối quan hệ cá nhân với người khác. Anh ta xác định bản thân trong vũ trụ từ góc độ niềm tin tâm linh và cắt đứt khía cạnh kết nối với người khác. Trái lại, chuyển động dạng H5 của con lắc tại cùng luân xa 3A biểu thị rằng người này đang không liên kết với bất kỳ ai, cả ở mức độ tâm linh lẫn mức độ con người. Điều này có thể dẫn đến tình trạng bị cô lập. Do ít sử dụng và bị kết đặc, một luân xa đứng yên hoàn toàn (S) có thể bắt đầu chuyển động theo dạng đặc biệt này. Trường hợp như vậy đòi hỏi những can thiệp mạnh vào cơ thể về mặt tâm động học.
Khi một cá nhân đang tập trung giải quyết vấn đề tâm lý ở một khía cạnh cụ thể trong con người họ, dù là do trong lòng quyết định làm như vậy hay là do hoàn cảnh nào đó bên ngoài ép buộc, luân xa hoặc các luân xa cụ thể có liên quan chắc chắn sẽ thể hiện chuyển động hỗn loạn hoặc không đối xứng (CEAS, CCEAS) như ở Bảng 10‒2. Chuyển động này sẽ làm cho con lắc đu đưa hỗn loạn, thường theo hình ê-líp kết hợp với một trục thay đổi. Thoạt đầu, người mới học có thể bị rối trước chuyển động này; tuy nhiên, nếu giữ con lắc bên trên luân xa lâu hơn thì sẽ quan sát được sự thay đổi trục. Khuôn mẫu vòng tròn được con lắc vẽ ra sẽ trông giống với hai mục cuối ở Bảng 10‒2. Bất cứ khi nào quan sát thấy kiểu chuyển động này, nhà trị liệu hiểu rằng rất nhiều thứ đang diễn ra bên trong khách hàng. Đây chính là lúc cần tác động sâu đến những vấn đề có liên quan, nhưng đồng thời cũng phải cho khách hàng nhiều thời gian và không gian riêng để tự xem xét/chuyển hóa bản thân. Nếu lúc ấy, khách hàng có thể xin nghỉ làm vài hôm và không bị lịch trình thường ngày quấy rầy, họ sẽ tối ưu hóa được khoảng thời gian thay đổi cá nhân lớn lao này. Tôi thường thấy hiện tượng này ở những người trải qua công đoạn chuyển hóa cá nhân sâu sắc tại những cơ sở điều trị chuyên sâu trọn một tuần.
Khi dần sử dụng con lắc thành thạo hơn, nhà trị liệu sẽ bắt đầu quan sát được thêm nhiều “đặc tính” trong các kết quả đo. Tốc độ đu đưa (tốc độ chuyển động của con lắc) biểu thị tổng số năng lượng đang được chuyển hóa qua luân xa đó. Khi thực hành, nhà trị liệu cũng có thể “bắt” được những đặc tính như gò bó, căng thẳng, hân hoan, nặng nề, u buồn, sầu khổ, yên bình và sáng sủa. Con lắc có thể đu đưa nhanh và căng hết mức, thể hiện tình trạng làm việc quá sức, căng thẳng và áp lực tại khu vực đó. Trạng thái đu đưa nhanh của con lắc cũng có thể kết hợp với cảm giác hân hoan, cho thấy nhiều sự gây hấn tích cực tại khu vực này. Theo đó, nhờ phát triển khả năng phán đoán nhạy bén hơn đối với đặc tính của năng lượng chảy qua luân xa, nhà trị liệu có thể biết được nhiều hơn về tình trạng của khách hàng. Nhà trị liệu có thể nêu ra mức độ ổn định của một luân xa, khoảng thời gian luân xa ở trong trạng thái hiện tại, luân xa có thay đổi tới lui giữa hai trạng thái hay không, và nhiều điều nữa. Một luân xa có thể mở trong 20% hoặc 80% thời gian. Nhà trị liệu nhạy và lành nghề có thể “bắt” được trạng thái này. Tất nhiên, điều này đòi hỏi quá trình thực hành có kiểm định chất lượng.
Các luân xa trải qua những giai đoạn khác nhau khi thay đổi từ trạng thái đóng sang trạng thái mở trong công đoạn điều trị chuyên sâu. Quá trình thay đổi hệ thống niềm tin của một người làm chuyển hướng vận động của luân xa. Sau một khoảng thời gian, một luân xa vốn liên tục đóng với đường kính lớn (CC6) sẽ thi thoảng giảm đường kính, quay ngược lại và rồi tăng đường kính theo hướng cân đối cho đến khi nó trở thành C6. Hoặc đối với rất nhiều trường hợp, trong vòng vỏn vẹn năm phút, đối tượng khóc nức nở, một luân xa CC6, ví dụ ở tim hoặc đám rối dương, chuyển ngược thành C6. Kiểu thay đổi này sẽ không giữ được lâu, tuy nhiên, nếu đối tượng tiếp tục điều trị một thời gian dài, luân xa sẽ có xu hướng duy trì trạng thái “mở” lâu hơn trong mỗi lần nó được khai mở. Điều này gia tăng tổng tỷ lệ phần trăm thời gian hoạt động hài hòa của luân xa, và đối tượng sẽ cảm thấy bản thân vui vẻ trong những khoảng thời gian dài hơn. Lâu ngày, luân xa sẽ ổn định ở trạng thái mở và hiếm khi đóng lại. Thường thì lúc này, đối tượng sẽ chuyển sang xử lý luân xa hoạt động kém hài hòa tiếp theo, vốn cản trở hạnh phúc thường nhật của họ.
Tôi nhận thấy rằng khi một luân xa ở trạng thái đóng mạn tính được khai mở trong một buổi điều trị, thì tình trạng phổ biến là một luân xa khác vốn thường mở sẽ đóng lại trong một khoảng thời gian ngắn để bù trừ. Ở giai đoạn đầu, phàm ngã không thể chịu đựng được trạng thái “mở” mới mẻ này mà không có một vài mức độ “bảo vệ” tưởng tượng nào đó.
Một ca điều trị chuyên sâu
Giờ chúng ta hãy cùng xem xét các cấu hình luân xa được đo thực sự trong một ca cụ thể. Đây là một người phụ nữ đến Trung tâm Pathwork Phoenica tại Phoenica, New York, trong hai thời điểm khác nhau để thực hiện những đợt điều trị kéo dài một tuần, bao gồm nhiều công đoạn xử lý cá nhân chuyên sâu. Lần đầu là vào năm 1979, lần thứ hai là vào năm 1981. Trong lần thứ hai, cô ấy đến cùng người chồng mới, và họ đã thực hiện nhiều công đoạn xử lý chuyên sâu dành cho cặp đôi. Luân xa được tiến hành đo trước và sau tuần điều trị. Mọi phép đo đều được thực hiện khi người phụ nữ này đã ở trạng thái hoàn toàn bình ổn được một lúc. Chúng được trình bày ở Bảng 10‒3. Để đọc được các kết quả đo, bạn sẽ cần sử dụng cả các Bảng 7‒3 và 9‒1 lẫn Bảng 10‒2 ở chương này về ý nghĩa của từng luân xa.
Như bạn có thể thấy từ các kết quả đo, hầu hết những trung tâm hoạt động hài hòa là những trung tâm tâm trí, kế tiếp là những trung tâm cảm xúc, tệ nhất là những trung tâm ý chí. Điều này có nghĩa là cô ấy có một tâm trí lành mạnh, hoạt động đúng chức năng, nhất là trong vấn đề nhận thức về thực tại (6A) và vấn đề hợp nhất nhân cách với tính tâm linh (7).
Trung tâm ý chí điều hành tinh thần (6B) hầu như luôn bị phân tách phải/trái, tức là cô ấy có xu hướng thể hiện thái độ gây hấn trong khi nên có thái độ tiếp nhận ở bất kể tình huống nào liên quan đến việc thực hiện những ý tưởng của bản thân theo từng bước. Cô sẽ quyết định điều cần làm và xúc tiến thực hiện dần điều đó mà chẳng màng đến chuyện liệu đã đúng thời điểm để bắt đầu hay chưa. Lúc cô tới điều trị lần đầu, trung tâm này của cô động rất mạnh. Sau khi đợt điều trị đầu tiên kết thúc, trung tâm này dịu xuống, không còn động mạnh nữa mà phần nào trở nên tĩnh. Thế nhưng qua thời gian, trạng thái tĩnh này đã không duy trì được hoặc không chuyển sang được trạng thái hài hòa như trong nhiều trường hợp. Hai năm sau, khi cô quay trở lại, trung tâm này của cô lại động mạnh; và nó không thay đổi trong suốt đợt điều trị thứ hai. Vào buổi đo cuối cùng, vấn đề bộc lộ thái độ gây hấn quá mức mỗi khi thực hiện ý tưởng của cô vẫn chưa được giải quyết. Trong các luân xa của cô, đây là luân xa duy nhất không có biến chuyển. Mọi luân xa khác đều ổn định vào thời điểm kết thúc đợt điều trị thứ hai.
Bảng 10-3
CA ĐIỀU TRỊ CHUYÊN SÂU ĐIỂN HÌNH
KẾT QUẢ ĐO LUÂN XA
Các trung tâm ý chí khác của cô cũng cho thấy những vấn đề, mỗi trung tâm này đều thỉnh thoảng không hoạt động trong khoảng thời gian điều trị. Khi cô đến điều trị vào năm 1979, các luân xa 5B, 3B và 2B đều đang không hoạt động thích đáng. Điều đó có nghĩa là cô có tính gây hấn tiêu cực biểu hiện dưới những dạng như lòng kiêu hãnh (luân xa 5B), sự tự hủy hoại bản thân (luân xa 3B) và việc làm nhụt đi sức mạnh dục tính của mình. Cô làm nhụt sức mạnh dục tính của mình bằng cách chia dòng năng lượng trong luân xa 2B thành bốn phần (con lắc cho thấy bốn vòng tròn riêng rẽ rõ rệt) và sử dụng nó theo những cách thức tiêu cực, chẳng hạn như cãi nhau với người chồng cũ. Sau đợt điều trị đầu, sự cải thiện duy nhất trong hoạt động ý chí của cô là ở khía cạnh lòng kiêu hãnh, khía cạnh này đã giảm bớt và chuyển thành dạng hoạt động tích cực trong khu vực nghề nghiệp của cô (5B). Nó vẫn có một thành phần hoạt động quá mức thế chỗ cho lòng kiêu hãnh vốn được sử dụng để bù lại những cảm giác thiếu hụt tại khu vực này. Hai năm sau, khi cô quay trở lại để điều trị đợt tiếp theo, cô vẫn có những vấn đề tương tự về ý chí. Chúng được giải quyết trong quá trình điều trị chuyên sâu lần hai này, và toàn bộ các trung tâm ý chí bắt đầu hoạt động bình thường.
Các trung tâm cảm xúc cho thấy một số khó khăn nhưng không nhiều như ở các trung tâm ý chí. Trung tâm tim (4A) vẫn ở trạng thái mở trong cả hai năm (cô rất biết cách yêu thương). Trung tâm cổ họng (5A) cho thấy tình trạng rối loạn trong việc tiếp nhận sự nuôi dưỡng, cùng với đó là sự phủ nhận mang tính gây hấn đối với các nhu cầu của cô. Tình trạng này dịu đi vào cuối đợt điều trị đầu tiên, và khi cô quay trở lại sau hai năm, nó đã được giải quyết, chủ yếu là nhờ việc thiết lập một mối quan hệ vô cùng ngọt ngào với người đàn ông mà cô yêu. Mặt khác, trung tâm đám rối dương (3A), vốn liên quan đến bản chất thật sự của chúng ta trong vũ trụ, lại ở trạng thái đóng khi cô mới đến điều trị lần đầu. Nó mở ra trong quá trình điều trị, nhưng trong khoảng thời gian giữa hai đợt điều trị, nó đóng trở lại. Vào cuối đợt điều trị thứ hai, nó lại mở ra và chuyển hóa nhiều năng lượng hơn.
Bạn sẽ nhận thấy rằng trung tâm sức mạnh dục tính của cô trở nên thông suốt khi mối quan hệ giữa cô với người yêu dần ổn định hơn và được xác định rõ ràng thông qua những hoạt động trị liệu dành cho cặp đôi.
Trong đợt điều trị đầu tiên, cô đã khai mở các trung tâm cảm xúc của mình và bắt đầu thấy an toàn trong thế giới cảm xúc. Trong đợt điều trị thứ hai gồm nhiều công đoạn xử lý các trung tâm cảm xúc vốn không bị tắc nghẽn nhiều như các trung tâm ý chí, cô đã có thể đương đầu một cách sâu sắc với tình trạng lạm dụng ý chí của mình và cân bằng nó lại. Như bạn có thể thấy từ các kết quả đo, hầu hết các luân xa cho thấy những đường kính lớn, nghĩa là người sở hữu hệ thống năng lượng kiểu này có rất nhiều sức mạnh.
Điểm lưu ý thú vị là các trung tâm đỉnh đầu, con mắt thứ ba và trái tim đều duy trì trạng thái mở suốt khoảng thời gian hai năm. Điều này có nghĩa là cô ấy kết nối chặt chẽ với tính tâm linh cũng như thực tại dựa trên ý niệm của mình, và cô biết yêu thương. Bức tranh tổng thể về nhân cách của cô là cô chủ yếu vận dụng lý trí và bù đắp lại cũng như bảo vệ bản thân trước những cảm giác dễ bị tổn thương bằng thứ ý chí mang quá nhiều tính gây hấn.
Như tôi đã đề cập, vào cuối đợt điều trị thứ hai, ngoại trừ trung tâm điều hành ý chí, toàn bộ các trung tâm còn lại đều hoạt động tốt. Miễn là chúng duy trì được trạng thái này thì cô sẽ cân bằng được các chức năng lý trí, ý chí và cảm xúc, nhờ đó có được một cuộc sống hạnh phúc và ổn định hơn.
Điểm lại Chương 10
1. Kết quả đo con lắc C6 biểu thị điều gì về mặt trước của luân xa thứ tư?
2. Kết quả đo con lắc CC5 biểu thị điều gì về mặt sau của luân xa thứ ba?
3. Kết quả đo con lắc V6 biểu thị điều gì về mặt trước của luân xa thứ hai?
4. Kết quả đo con lắc CC4 biểu thị điều gì về mặt trước của luân xa thứ năm, về mặt thể chất cũng như tâm lý?
5. Kết quả đo con lắc H5 biểu thị điều gì về mặt sau của luân xa thứ hai?
Suy ngẫm
6. Nếu bạn điều trị thành công cho ai đó và mở được các trung tâm trái tim và tình dục của họ, tại sao lại có trường hợp họ đóng luân xa đám rối dương? Điều đó có bình thường không?