Hào quang thực sự là “mắt xích còn thiếu” giữa sinh học, y học và tâm lý trị liệu. Nó chính là “nơi” khu trú của tất cả những cảm xúc, suy nghĩ, ký ức và khuôn mẫu hành vi mà chúng ta liên tục nhắc đến trong trị liệu. Chúng không chỉ treo lơ lửng đâu đó trong trí tưởng tượng của chúng ta, mà chúng thực sự nằm trong thời gian và không gian. Suy nghĩ và cảm xúc dịch chuyển giữa mọi người trong thời gian và không gian thông qua trường năng lượng con người, và tìm hiểu về nó là cách để bắt đầu nhận biết được hoạt động này. Hãy cùng tìm hiểu một số dòng chảy năng lượng của hào quang khi mọi người sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật và sau đó là trong các buổi điều trị. Chúng ta sẽ tập trung vào các hình thái chuyển động có màu sắc của bốn vầng bên dưới của hào quang và quay lại bàn về các luân xa ở một chương sau.
Nhận biết màu sắc trong trường
Khi mới bắt đầu đọc hào quang, ta có thể không hiểu được hoàn toàn ý nghĩa của các màu sắc. Nhưng sau này, khi đã thực hành nhiều hơn, ý nghĩa khái quát của các màu sắc sẽ trở nên rõ ràng. Khi người hành nghề nhạy hơn nhờ vận dụng khả năng của mình, họ sẽ đọc được cả ý nghĩa của các màu sắc mà họ nhận biết. (Màu sắc sẽ được bàn chi tiết ở Chương 23).
Một trong những “màn bùng cháy” năng lượng sống động đầu tiên mà tôi từng chứng kiến là vào năm 1972. Đó là trong một hội thảo chuyên sâu về năng lượng sinh học của tiếng hét nguyên thủy, tôi đã chứng kiến Linda phát sáng như một cây thông Noel khi cô gào thét về cái chết do ung thư của bố cô. Những tia sáng rực đỏ, vàng, cam và có đôi chút xanh da trời tỏa ra từ đầu cô. Tôi chớp mắt, nhưng nó vẫn không biến mất. Tôi nheo mắt lại; tôi đi quanh phòng; tôi tìm kiếm dư ảnh. Hiện tượng này vẫn tiếp diễn. Tôi đang nhìn thấy thứ gì đó. Tôi không thể tiếp tục phủ nhận trải nghiệm quan sát được những màu sắc rõ rệt bao quanh đầu người khác. Tôi bắt đầu quan sát kỹ hơn hiện tượng này.
Nhìn chung, tôi đã khám phá ra rằng hào quang “bình thường” hoặc “phẳng lặng” trông giống như Hình 7‒1 (xem Phụ lục hình màu). Nó có một vầng dao động màu tím – phớt – xanh sẫm màu hoặc trong suốt cách bề mặt da ¼ inch (0,6cm) hoặc cùng lắm là 1,5 inch (4cm). Nó dao động liên tục với tốc độ khoảng 15 nhịp mỗi phút. Sự dao động này thường hình thành một chuyển động sóng đi xuống cánh tay, chân và thân mình. Trước nhất, nó có một vầng màu xanh da trời nhạt cho đến xám mờ bao quanh, càng sát cơ thể thì vầng này càng sáng hơn và nó phai dần theo khoảng cách tính từ cơ thể. Thông thường, ở vùng quanh đầu, cách bề mặt cơ thể khoảng 3‒4 inch (7,5‒10cm), màu xanh da trời chuyển sang màu vàng. Thường có những dải ánh sáng màu xanh da trời nhạt hơn tỏa ra từ các ngón tay và ngón chân cũng như đỉnh đầu. Chỉ cần được chỉ dẫn cụ thể và thực hành trong vài phút, hầu hết mọi người đều có thể nhìn được những dải ánh sáng tỏa ra từ các đầu ngón tay. Mặc dù trong phần lớn thời gian, các dải này có màu xanh da trời, nhưng màu của chúng cũng biến đổi thành đỏ và tím. Chúng có thể mang bất kỳ màu nào.
Thực hành quan sát hào quang của người khác
Bởi bạn đã thực hành những bài tập quan sát hào quang tại ngón tay của mình ở Chương 7, giờ hãy thử quan sát hào quang của người khác.
Tiếp tục sử dụng một căn phòng tối – với ánh sáng kiểu tầm tối muộn chứ không tối om hẳn, sao cho nhìn được mặt nhau tương đối dễ dàng. Yêu cầu bạn của bạn đứng trước một bức tường hoặc một màn che trắng trơn. Đảm bảo không có bất kỳ ánh sáng nào vô tình lọt vào tầm mắt. Bạn cần phải thư giãn mắt hoàn toàn.
Để nhìn thấy hào quang, bạn cần phải sử dụng thị lực ban đêm, giống như những lúc bạn bước vào chỗ tối và nhận thấy rằng bạn có thể quan sát các vật thể tốt hơn nếu không nhìn thẳng vào chúng. Đó là lúc bạn sử dụng các tế bào hình que nhiều hơn là các tế bào hình nón trong mắt. Tế bào hình que cảm nhận các mức ánh sáng yếu nhạy hơn so với tế bào hình nón, vốn được sử dụng vào thời gian ban ngày và có khả năng cảm nhận các màu sắc tươi sáng.
Hãy quan sát khoảng không gian gần đỉnh đầu của đối phương hoặc khoảng vai gáy. Đừng tập trung mắt nhìn vào một ranh giới cụ thể mà hãy nhìn vào cả một khoảng không gian. Khi bạn nhẹ nhàng quan sát khoảng không gian rộng chừng 4 ‒ 6 inch (10 ‒ 15cm) bao quanh đầu đối phương, hãy để ánh sáng lọt vào mắt bạn. Hãy tạo cái cảm giác cho phép thứ gì đó đi vào mắt bạn, thay vì mắt bạn cố thu lấy thứ gì đó bởi đôi lúc mắt sẽ làm như vậy khi bạn cố nhìn. Cứ thư thả. Khi thực hành với những người khác, tốt nhất là với người nào nhìn thấy được hào quang để bạn có thể liên hệ những gì mình nhìn thấy.
Bạn có thể ngờ ngợ rằng mình nhìn thấy thứ gì đó, và ngay khi có suy nghĩ này, nó liền biến mất trước cả khi bạn kịp nói: “Đây rồi!” Hãy đảm bảo rằng nếu bạn nhìn ra chỗ khác, vào một điểm trắng trơn trên tường, bạn không nhìn thấy thứ tương tự. Đó là hiện tượng dư ảnh, tức là mắt bạn sẽ lưu giữ một hình ảnh do hiệu ứng bù màu hoặc cường độ tương phản ánh sáng. Hiện tượng hào quang diễn ra rất nhanh và không dừng lại. Nó rung động. Bạn có thể nhìn thấy nó tuôn xuống cánh tay hoặc vụt hiện một ánh sáng màu hướng lên trên và ra khỏi trường. Bạn có thể nhìn thấy một màn sương bao quanh cơ thể và trông không có vẻ gì là thú vị. Đừng vội thất vọng; đây mới chỉ là bước khởi đầu.
Tìm mua một cặp kính hào quang tại cửa hàng sách sức khỏe tổng thể và làm theo hướng dẫn sử dụng. Chúng giúp bạn tăng cường thị giác và nâng cao độ nhạy của mắt. Kính màu xanh coban là tốt nhất, nhưng rất khó tìm mua. Hầu hết kính hào quang có màu tím đậm và hoạt động tốt.
Đừng thực hiện bất kỳ bài tập nào quá lâu; bạn sẽ cảm thấy rất mệt sau một khoảng thời gian. Tôi từng thấy một nhóm trông hết sức hào hứng khi lần đầu nhìn thấy được thứ gì đó; thế rồi khi tiếp tục quan sát, họ bắt đầu ngờ vực và hệ thống năng lượng của mỗi người trở nên suy giảm. Chẳng mấy chốc, tất cả mọi mọi người đều chẳng nói năng gì và nom hết sức mệt mỏi. Thế nên, hãy chỉ thực hành mỗi ngày một chút. Và đánh giá những gì bạn quan sát được theo những hình minh họa và mô tả sau đây.
Khi một người có một cảm xúc mạnh, hào quang phẳng lặng của họ sẽ đột ngột tỏa ra một màu sắc và hình thái khác tương ứng với trạng thái cảm xúc của họ. Sau đó, khi cảm xúc lắng xuống, hào quang trở lại hình dạng chung ban đầu. Quãng thời gian thay đổi theo mỗi người và tùy thuộc vào một số yếu tố. Nếu người đó không giải tỏa cảm xúc này, nó sẽ tiếp tục lưu lại trong hào quang của họ (thường là nhạt dần) đến khi được giải tỏa. Nếu người đó giải tỏa một phần cảm xúc, phần đó sẽ được giải tỏa. Các màu sắc và hình thái có thể lóe lên rất nhanh rồi thoát ra khỏi trường hào quang, hoặc chúng chỉ chịu mờ dần sau khoảng vài phút hoặc thậm chí là vài tuần. Chúng thậm chí có thể bị các màu sắc và hình thái khác lem vào hoặc che mất do hiệu ứng chồng lớp. Một số hình thái, mà tôi sẽ bàn đến sau, lưu lại trong hào quang hàng năm trời. Mọi suy nghĩ, cảm xúc và kinh nghiệm của một người đều ảnh hưởng và thay đổi hào quang của họ. Một số tác động lưu lại mãi mãi.
Hình 11‒1A (xem Phụ lục hình màu) cho thấy hào quang bình thường của một người. Khi anh ta hát (xem Hình 11‒1B, Phụ lục hình màu), hào quang của anh ta mở rộng và sáng hơn. Những tia sáng lóe lên như chớp giật và những chấm sáng óng ánh màu tím – phớt – xanh tỏa ra sau hành động lấy hơi, trước khi anh ta bắt đầu hát một câu mới. Khi thính giả trở nên chăm chú hơn, hào quang chung của mọi người đều được mở rộng. Những vòng cung ánh sáng lớn vươn ra từ người ca sĩ đến thính giả, và hai hào quang kết nối với nhau. Các hình thái chung bắt đầu được hình thành khi các cảm xúc luân chuyển giữa người trình diễn và thính giả. Những hình thái năng lượng ý thức này có liên hệ về mặt cấu trúc và màu sắc với những cảm xúc và suy nghĩ chung của cả nhóm cũng như thứ âm nhạc được phát ra. Đến cuối bài hát, những hình thái này bị phá vỡ và tách rời ra do tiếng vỗ tay, thứ đóng vai trò như một cục tẩy xóa sạch trường để chuẩn bị cho sự sáng tạo kế tiếp. Cả người trình diễn và thính giả đều dồi dào sinh lực nhờ hấp thụ năng lượng được âm nhạc tạo ra. Một phần năng lượng này sẽ được nội tại hóa để phá vỡ những tắc nghẽn khu trú trong cơ thể; một phần sẽ được sử dụng cho sự sáng tạo kế tiếp.
Trong một trường hợp khác, khi một người diễn thuyết về chủ đề ưa thích, hào quang của anh ta mở rộng và chuyển thành màu vàng kim với những chớp sáng màu vàng ánh bạc hoặc màu xanh da trời óng ánh, như trong Hình 11‒1C (Phụ lục hình màu). Hiện tượng diễn giả – thính giả tương tự diễn ra, lần này tập trung vào những năng lượng trí óc, được thể hiện bằng màu vàng kim. Sau buổi diễn thuyết, hào quang của anh ta vẫn duy trì trạng thái mở rộng một lúc, bởi anh ta cảm thấy phấn chấn. Ở đây có một sự trao đổi qua lại về ý thức năng lượng. Lúc này, một số thính giả có mức rung động cao hơn mức của người diễn giả. Hình 11‒1D (Phụ lục hình màu) cho thấy hào quang của một người đang say mê nói về giáo dục. Những người ngồi nghe chắc chắn sẽ thu nhận được một phần màu nâu hồng của anh ta. Điều này xảy ra do quá trình tăng rung động riêng của người nghe lên đến ngưỡng của người nói thông qua cảm ứng hài hòa. Tình yêu phát ra ánh sáng hồng êm dịu, tuyệt đẹp trong hào quang. Đôi khi nó còn có thêm màu vàng kim. Những cảm xúc tâm linh có cả loạt màu sắc: màu xanh da trời cho người phát ngôn chân lý, màu tím cho tính tâm linh và màu vàng ánh bạc cho sự thanh khiết.
Mọi người đôi khi phát ra màu sắc tương tự những màu mà họ ưa mặc. Hình 11‒1E (Phụ lục hình màu) cho thấy một người phụ nữ sau khi hướng dẫn một lớp năng lượng bản thể (một lớp thực hành thể chất tập trung vào việc bộc lộ cảm xúc để giúp học viên hiểu những động lực tâm lý của họ). Màu xanh lá này, màu mà cô thường mặc, gắn liền với sức khỏe thể chất và việc chữa lành. Trong một ví dụ khác, hình 11‒1F (Phụ lục hình màu) cho thấy một người đàn ông thường phát ra màu hoa tử đinh hương vốn tương ứng với một trong những chiếc áo sơ-mi ưa thích nhất của anh ta. Màu này xem ra liên quan đến những cảm xúc yêu thương và tâm tính nhu hòa của anh. Hình 11‒1G (Phụ lục hình màu) cho thấy một người phụ nữ đang thiền để gia tăng năng lượng trong trường của mình. Hình ảnh hiển thị nhiều màu sắc, một số màu chảy nhỏ giọt thành dòng xuống trán của cô. Có thể phần nào quan sát được trung tâm ý chí nằm giữa xương dẹt.
Khi mang thai, trường năng lượng của người phụ nữ nở rộng ra và trở nên sáng hơn nhiều. Hình 11‒1H (Phụ lục hình màu) là hình ảnh một người phụ nữ đang mang thai một bé gái khoảng sáu tháng. Thai phụ này có những quả cầu mịn tuyệt đẹp màu xanh da trời, hồng, vàng và xanh lá lăn cuộn vào nhau dọc xuống hai vai.
Đây chỉ là vài ví dụ về cách thức trường năng lượng con người liên quan chặt chẽ và vốn dĩ kết nối với mọi thứ chúng ta nhìn thấy xuất hiện ở cấp độ vật lý và tâm lý thuần túy.
Sự giận dữ và những cảm xúc tiêu cực khác
Màu đỏ vốn luôn được gắn với sự giận dữ. Thế nhưng có lần, đứa con trai mười một tuổi giàu năng lượng và vô cùng hạnh phúc của tôi, lúc đó đang chơi đùa vui vẻ, lại trông giống như Hình 11‒1A (Phụ lục hình màu), với những dải sáng màu cam và đỏ tươi tỏa ra từ đầu thằng bé. Màu đỏ có đặc tính biểu thị sự giận dữ. Màu cam đỏ tươi không phải là sự giận dữ; nó liên quan đến lực sống rung động mạnh mẽ. Phản ứng bùng nổ của người phụ nữ trong buổi hội thảo về tiếng thét nguyên thủy được minh họa trong Hình 11‒2B (Phụ lục hình màu). Cô có một lượng lớn cảm xúc phát sinh cùng lúc, thành thử xuất hiện nhiều màu sắc. Chúng đều có cường độ cao, thế nên trường hào quang sáng rực và có những tia sáng mạnh tỏa ra khỏi cơ thể theo những đường thẳng.
Trong cơn nóng giận, con người phát ra màu đỏ đậm. Khi cơn giận này được bộc lộ, nó được bắn ra khỏi cơ thể như những tia sét hoặc những chấm sáng tròn, giống minh họa ở Hình 11‒2C (Phụ lục hình màu). Tôi đã chứng kiến hiện tượng này nhiều lần trong các nhóm và buổi điều trị.
Ngược lại, Hình 11‒2D (Phụ lục hình màu) cho thấy ví dụ về một người không giải phóng cơn giận và nỗi đau của họ. Khi chấm đỏ hiện lên từ vùng cổ họng, nó từ từ di chuyển ra ngoài. Một lát sau, người trưởng nhóm đưa ra lời nhận xét về cô ấy mà theo tôi là có phần gây tổn thương. Lúc này, chấm đỏ trên nhanh chóng di chuyển ngược lại cơ thể cô và đi vào vùng tim. Khi nó va trúng tim, cô bắt đầu khóc. Tiếng khóc này không phải tiếng khóc thanh lọc mà kiểu “khốn khổ thân tôi, tôi là nạn nhân”. Về tình huống này, tôi cho là cô đã tự đâm vào tim bằng cơn giận dữ của chính mình.
Mặt khác, trong trường hào quang, nỗi sợ lại có màu xám hơi trăng trắng với hình thù gai góc, đúng nghĩa sợ trắng bệch cả người. Nó trông hết sức khó nhìn và có mùi rất khủng khiếp. Sự ghen tỵ hiện ra với màu xanh lá đậm, tối màu và trông nhớp nháp. Nỗi buồn bã có màu xám đậm và nặng nề giống như những nhân vật trong hoạt hình có đám mây tối màu bay trên đầu. Sự khó chịu và cáu kỉnh chắc chắn sẽ có những tông màu đỏ đậm (đỏ với giận dữ), nhưng hầu như đều rất rõ ràng do những rung động bất thường của chúng liên tục đập vào trường năng lượng của người khác, gây ra cảm giác hết sức khó chịu. Thường thì bạn bè của người đang tức giận phản ứng lại tình trạng giao thoa này bằng cách thử gợi cho người đó biểu lộ trực tiếp những cảm giác tiêu cực, thứ vốn dễ xử lý hơn nhiều. Chẳng hạn, ai đó sẽ hỏi: “Đang giận à?” Người kia sẽ thốt ra đầy giận dữ: “Không!” Theo đó, tình trạng giao thoa khó chịu trên phần nào được giảm bớt.
Tác động của chất kích thích đến trường hào quang
Các chất kích thích như LSD, cần sa, cô-ca-in và cồn đều gây tổn hại đến những sắc màu khỏe khoắn, rực rỡ của hào quang và tạo ra “nước nhầy ê-te”, giống như tác động của bệnh tật. Hình 11‒2E (Phụ lục hình màu) minh họa tác động của việc hít cô-ca-in đối với hào quang của một người. Mỗi lần anh ta hít cô-ca-in vào tối thứ Bảy thì trong buổi điều trị vào chiều thứ Ba, anh ta sẽ có nhiều nước nhầy ê-te nhớp nháp màu xám ở phía bên phải mặt và đầu, còn phía bên trái vẫn tương đối trong. Tôi hỏi có phải anh ta sử dụng một bên lỗ mũi nhiều hơn bên còn lại không nhưng anh ta không nghĩ vậy. Việc tôi liên tục đối chiếu – tôi có thể chỉ ra mỗi khi anh ta làm như vậy – và đưa ra hình ảnh mô tả “nước mũi ê-te” đã giúp anh ta bỏ được thói quen này.
Hình 11‒2F (Phụ lục hình màu) minh họa hào quang của một người đàn ông sử dụng nhiều LSD và uống rất nhiều rượu. Hào quang có màu nâu nhem nhuốc hơi ngả xanh lá. Chấm xanh lá nhem nhuốc, thứ dần dần dịch chuyển xuống và không được giải phóng, liên quan đến những cảm giác bị kìm nén, lẫn lộn, không phân biệt được của sự giận dữ, ghen tỵ và đau đớn. Nếu anh ta có thể tách bạch những cảm giác này, hiểu rõ nền tảng của chúng, bộc lộ và giải phóng chúng, tôi tin chắc rằng chấm sáng đó sẽ tách rời ra thành những sắc thái màu tương ứng sáng rõ hơn – đỏ, xanh lá và xám – và rồi rời khỏi cơ thể. Tuy nhiên, do tình trạng uế nhiễm nặng trong trường, anh ta cần phải tích cực thanh tẩy năng lượng trước khi nâng được mức năng lượng của bản thân lên đủ cao để làm rõ và chuyển dịch những cảm giác của mình.
Trọng lượng “biểu kiến” trong hào quang
Hình 11‒2G (Phụ lục hình màu) minh họa một người đàn ông cũng sử dụng chất kích thích như LSD và cần sa trong nhiều năm, thành ra anh ta có hào quang nhem nhuốc màu xanh lá. Chất thải từ những trải nghiệm này hiện ra ở vùng phía trên bên phải. Nó trông có vẻ nặng bởi dường như anh ta lúc nào cũng giữ đầu mình ở một góc nhằm cân bằng hình thể. Hình thể này vẫn giữ nguyên vị trí, từ tuần này sang tuần khác. Khi tôi chỉ ra điều đó cho anh ta, anh ta có thể nhìn thấy nó (sử dụng gương). Để loại bỏ hình thể này, anh ta cũng sẽ phải (bên cạnh những gì đã được đề cập) cai chất kích thích và làm sạch trường năng lượng của mình. Ngoài liệu pháp thao tác trên cơ thể, tôi cũng khuyên anh ta nhịn ăn và thực hiện một chế độ ăn thanh lọc. Khi đó, anh ta có thể nâng cao sức mạnh trường năng lượng của mình, phá vỡ và tiêu giảm lượng chất thải tích tụ.
Hình 11‒2H (Phụ lục hình màu) là một minh họa thú vị về trọng lượng “biểu kiến” kèm theo chất nhầy đặc. Người phụ nữ này từng là mẫu “con gái ngoan hiền” suốt nhiều năm và cuối cùng cũng tiếp cận được tính chất nổi loạn của mình. Cô thôi hành xử “khuôn phép” và nổi giận đùng đùng trong buổi điều trị. Cô đạp đổ ghế trong phòng và giẫm nát cả hộp khăn giấy. Hết buổi điều trị, cô cảm thấy được giải tỏa. Thế nhưng tuần sau đó, cô co rúm lại, hoàn toàn thu mình và đến văn phòng tôi trong tình trạng đau đầu khủng khiếp. Cô cử động thận trọng và nâng vai lên sát gần tai. Lúc này, tôi quan sát thấy một “viên” chất nhầy to trên chỏm đầu cô. Rõ ràng là chất nhầy này đã được giải phóng ra trong buổi điều trị trước và tích tụ ở đó. (Hiện tượng giải phóng độc tố nhờ thao tác năng lượng sinh học vốn được nhiều người biết đến. Dòng năng lượng mạnh giải phóng độc tố trong mô. Đôi khi có người bị “ốm” sau khi được điều trị chuyên sâu. Tình trạng đau ốm này được gọi là “cúm hên xui”). Tuy khách hàng của tôi không còn “nổi loạn” nữa, nhưng giờ cô lại biểu hiện hành vi mang hơi hướng khổ dâm, tự hành hạ bản thân. Tôi đề nghị bắt đầu buổi điều trị bằng vận động cơ thể. Tôi yêu cầu cô cúi gập người về phía trước, quật mạnh nửa thân trên xuống. Khi cô làm như vậy, búi chất nhầy bật tung về phía trước, cách người cô khoảng 2,5ft (75cm). Như thể bị một sức nặng lớn kéo xuống, người cô bắt đầu đổ về phía trước. Cô tìm cách lấy lại thăng bằng và búi chất nhầy bật ngược trở lại đầu cô như thể được giật bằng dây chun. Cô suýt nữa ngã ngửa ra phía sau. Cô quá sợ phải làm lại động tác này, thế nên chúng tôi thực hiện nhiều thao tác trên cơ thể cô, tập trung vào việc cảm nhận đôi chân, đứng vững trên hai bàn chân và cảm thấy kết nối với mặt đất đang nâng đỡ cô. Quá trình này được gọi là nối đất. Đến cuối buổi điều trị, chỗ chất nhầy đã tự phân tán thành một lớp mỏng trải khắp cơ thể cô. Cô không còn bị đau đầu nữa. Sau đó, chúng tôi phải mất vài tuần thao tác trên cơ thể cô để loại bỏ toàn bộ lớp chất nhầy này.
Thực hành trải nghiệm trọng lượng biểu kiến của trường năng lượng
Một bài tập thường được áp dụng tại các lớp Aikido sẽ giúp bạn trải nghiệm tác động của trọng lượng trong hào quang.
Để hai người đứng ở hai bên bạn. Họ sẽ cố gắng nhấc bạn lên bằng cách nắm lấy điểm đầu và điểm cuối cánh tay trên của bạn. Đối với tất cả các bài tập này, khi họ nhấc lên, hãy đảm bảo rằng họ nhấc bạn thẳng lên trên chứ không đẩy nghiêng sang một bên trước – điều này có thể đứt gốc rễ của bạn.
Trước hết, hãy tập bài này để quan sát thử sức nặng mà bạn cảm nhận được. Cảm nhận xem hai người kia nâng bạn lên dễ/ khó ra sao. Giờ thì dành chút thời gian để truyền trường năng lượng của bạn lên phía trên. Hãy nghĩ “lên nào”; tập trung vào trần nhà. Khi bạn đã có được một điểm tập trung tốt và giữ được ở đó, hãy yêu cầu họ thử nhấc bạn lên. Lần này có dễ dàng hơn không?
Giờ thì hãy dành thời gian để tập trung tăng cường kết nối giữa bạn với mặt đất. Phát triển gốc rễ từ các ngón tay và lòng bàn chân xuống mặt đất và đi sâu vào lòng đất. Tập trung vào mối kết nối mạnh mẽ và uy lực giữa bạn với mặt đất. Khi bạn đã đạt được sự tập trung cao độ, đề nghị hai người kia nhấc bổng bạn lên lần nữa. Bạn có nặng hơn và khó nhấc lên hơn không? Rất có thể.
Các “hình thái tư duy bị phân ly” trong hào quang
Trong những năm thực hành năng lượng sinh học, tôi đã quan sát thấy một hiện tượng mà tôi gọi là những không gian động của thực tại. Tôi nhận thấy những “không gian” này tương tự như những không gian được mô tả trong ngành đo vẽ địa hình, trong đó, một “tập hợp” hoặc một “miền” chứa một tập hợp những đặc trưng cho phép xác định những phép toán khả dĩ trong miền. Theo thuật ngữ tâm động học, ở đó tồn tại những “không gian của thực tại” hoặc “hệ thống niềm tin” chứa các nhóm hình thái tư duy vốn gắn với những quan niệm đúng đắn và sai lệch về thực tại. Mỗi hình thái chứa đựng những định nghĩa riêng về thực tại, chẳng hạn như tất thảy loài người đều độc ác; tình yêu là yếu đuối; nắm quyền kiểm soát thì mới an toàn và vững chắc. Theo quan sát của tôi, khi mọi người đi qua những trải nghiệm hằng ngày, họ cũng đi qua những “không gian” hoặc cấp độ khác nhau của thực tại vốn được xác định tùy theo các nhóm hình thái tư duy trên. Thế giới được trải nghiệm khác nhau trong mỗi nhóm hay mỗi không gian của thực tại.
Những hình thái tư duy này là những thực tại giàu năng lượng và có thể quan sát được, chúng tỏa ra màu sắc ở nhiều cường độ khác nhau. Cường độ màu sắc và độ rõ nét của chúng tùy thuộc vào mức năng lượng hoặc tầm quan trọng mà một người trao cho chúng. Các hình thái tư duy được chủ thể của chúng tạo ra, củng cố và duy trì thông qua những suy nghĩ theo thói quen. Những suy nghĩ càng rõ ràng và sáng sủa bao nhiêu thì hình thái càng rõ nét bấy nhiêu. Bản chất và sức mạnh của cảm xúc gắn kết với những suy nghĩ đem lại màu sắc, cường độ và nội lực cho hình thái. Những suy nghĩ này có thể có hoặc không có ý thức. Chẳng hạn, một hình thái tư tưởng có thể được tạo dựng nên do chủ thể liên tục suy nghĩ về nỗi sợ kiểu như “anh ấy sẽ rời bỏ tôi”. Chủ thể sáng tạo của hình thái tư duy này sẽ hành xử như thể chuyện đó sắp sửa xảy đến. Trường năng lượng của hình thái tư duy sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến trường của đối phương. Nó chắc chắn sẽ có tác động đẩy người kia ra xa. Càng được trao nhiều sức mạnh, do chủ thể đưa năng lượng vào nó một cách có ý thức hay vô thức, nó sẽ càng tạo ra kết quả đáng sợ đúng như dự kiến. Thường thì những hình thái tư duy này là một thành phần hết sức tự nhiên của phàm ngã, đến mức chủ thể còn không hề để ý tới chúng. Chúng bắt đầu được hình thành từ thời thơ ấu và dựa trên lý lẽ của một đứa trẻ con, rồi được tích hợp vào phàm ngã. Chúng giống như những gánh nặng mà một người tự chất thêm trong lòng mà không hề để ý tác động vốn rất lớn của chúng. Những hình thái tư tưởng kết khối, hay những hệ thống niềm tin này thu hút nhiều “tác động” trong thực tại bên ngoài của con người.
Bởi lẽ những hình thái này không bị chôn sâu trong tiềm thức mà chỉ ở rìa của ý thức, thế nên chúng có thể được thu hồi lại bằng các phương pháp như thao tác trên cơ thể của Viện Năng lượng bản thể, trò chơi liên tưởng từ vựng và thiền. Khi những hình thái này được đưa vào phạm vi tập trung của ý thức bằng cách bộc lộ các cảm xúc theo kèm và giải tỏa các cảm xúc đó, chúng có thể được biến đổi. Quá trình này giúp chúng ta nhìn nhận rõ hơn những giả định về thực tại, thứ tạo nên những hình thái trên. Khi những giả định vô căn cứ này (nhớ rằng chúng được dựa trên cơ sở logic từ thời thơ ấu) được phơi bày, hãy quan sát và phá vỡ, chúng có thể được thay thế bằng một cái nhìn chín chắn, rõ ràng hơn về thực tại, nhờ đó tạo ra những trải nghiệm sống tích cực.
Bên trong một số phàm ngã, những hình thái tư duy liên kết với nhau và ý thức của những người này hiếm khi chuyên chú hoàn toàn vào một không gian duy nhất đến nỗi không nhận biết hầu hết những không gian còn lại, do đó họ duy trì một mức độ hợp nhất cao trong cuộc sống thường ngày.
Ngược lại, một kiểu phàm ngã khác có thể lanh lẹ trôi từ không gian thực tại này sang không gian thực tại khác, nhưng không hề ý thức được bất kỳ mối liên hệ nào giữa chúng. Họ không có khả năng tích hợp hoặc nắm bắt dòng chảy năng động này, bởi vậy luôn sống trong trạng thái hoang mang, bất ổn, nhất là khi có một dòng chảy tuần hoàn luẩn quẩn nào đó khởi phát ở bên trong. Bấy giờ, họ có thể rơi vào một dòng chảy máy móc tuần tự từ suy nghĩ này sang suy nghĩ kế tiếp mặc dù vẫn mắc kẹt một cách vô vọng và không thể giải thoát bản thân khỏi chu kỳ luẩn quẩn này cho đến khi toàn bộ sự việc được sáng tỏ.
Lúc này, họ có thể chuyển sang một trạng thái khác của thực tại chỉ vì hoạt động tuần hoàn của hình thái tư duy đã cạn kiệt toàn bộ năng lượng sẵn có. Họ sẽ không biết mình đã ra khỏi khuôn mẫu tuần hoàn trên như thế nào, do đó chắc chắn không thể giải thoát bản thân khỏi chu kỳ này ở lần kế tiếp nó được kích hoạt. Những trạng thái này của thực tại có thể rất phấn khích, chẳng hạn như ở trạng thái mà một cá nhân cho rằng mình sẽ đạt được những thành tựu lớn và trở nên nổi tiếng hoặc giàu có nhưng lại không ý thức được khối lượng công việc thực tế khổng lồ sắp tới trước khi có thể đạt được một mục tiêu lớn nhường vậy. Hoặc có thể có tác động ngược lại, một cá nhân nhìn nhận bản thân ở trong trạng thái tồi tệ hơn nhiều so với thực tế. Ở cả hai trạng thái, họ đều không nhìn ra được sự thật về bản thân hoặc hoàn cảnh sống của mình. Họ chắc chắn chỉ đang nhìn thấy một phần của bản thân và phóng đại nó lên. Ở trạng thái đầu, họ có thể có tiềm năng sáng tạo tất thảy những thứ lớn lao mà tự bản thân họ nhận thấy, nhưng điều này đòi hỏi rất nhiều thời gian và công sức. Mặt khác, ở trạng thái tiêu cực thứ hai, họ thấy những phần của bản thân cần thay đổi, nhưng quên mất rằng chúng có thể được thay đổi.
Trong cuốn sách How to Read the Aura (tạm dịch: Phương thức đọc hào quang), tác giả William Butler đã quan sát thấy các hình thái tư duy cụ thể này giữ nguyên trạng thái tĩnh trong trường năng lượng cho đến khi được kích hoạt do tiếp nhận một năng lượng nội tại hoặc ngoại tại. Bấy giờ, các hình thái này di chuyển khắp hào quang theo một trình tự lặp đi lặp lại nhưng không được giải tỏa. Chúng cứ thế tiếp diễn tới cạn năng lượng và quay về trạng thái bất hoạt cho đến khi thu nhận được đủ năng lượng để di chuyển tiếp. Các hình thái tư duy được nạp năng lượng thông qua những suy nghĩ theo thói quen không hoàn toàn có ý thức của chủ thể và những cảm xúc có liên quan. Chúng cũng nhận năng lượng bằng cách thu hút những suy nghĩ và cảm xúc tương đồng từ người khác. Nói cách khác, nếu bạn liên tục tự phán xét bản thân theo một cách nào đó, các hành động và cảm xúc của bạn sẽ chiểu theo những phán xét này và chẳng mấy chốc, thông qua chúng, những người quen biết bạn sẽ nắm bắt được vấn đề và đồng thuận với bạn, theo đó truyền đến bạn năng lượng dưới dạng những suy nghĩ và cảm xúc của họ về bạn sao cho phù hợp với những suy nghĩ và cảm xúc của chính bạn về bản thân. Chẳng hạn, nếu bạn cứ tự bảo bản thân rằng bạn ngu ngốc, vô giá trị, xấu xí hoặc béo ú, thì sớm thôi những người khác cũng sẽ đồng thuận với bạn. Năng lượng này được bổ sung vào kho dự trữ riêng cho đến khi hình thái tư duy của bạn có đủ năng lượng (đạt khối lượng tới hạn) để được kích hoạt. Khi đó, bạn sẽ rơi vào trạng thái tin chắc rằng bản thân ngu ngốc, vô giá trị, xấu xí hoặc béo ú, cho tới lúc năng lượng trong hình thái tư duy đó tiêu tan. Lẽ dĩ nhiên, bạn cũng có thể thu hút một sự kiện bên ngoài sẽ kích hoạt hình thái tư duy của bạn theo kiểu bùng nổ năng lượng. Trong cả hai trường hợp, quá trình đều giống nhau. Tác nhân kích thích không nhất thiết mang tính tiêu cực, bởi nếu một cá nhân đang tiến hành điều trị, họ có thể có khả năng thoát ra khỏi chu kỳ luẩn quẩn của mình và về căn bản, phá vỡ được hình thái tuần hoàn một cách vừa đủ để xử lý nó tốt hơn nhiều ở lần kế tiếp nó được kích hoạt.
Nếu nhà trị liệu có khả năng nhận biết những thực tại này và mô tả chúng hoặc giúp bệnh nhân mô tả chúng, thì bấy giờ, nhà trị liệu mới có thể giúp bệnh nhân giải phóng bản thân khi họ chuyển dịch từ thực tại này sang thực tại kế tiếp. Mô tả của nhà trị liệu về từng trạng thái thực tại, khi bệnh nhân đang trải nghiệm nó, sẽ cho bệnh nhân cái nhìn khái quát về toàn bộ quá trình. Điều này sẽ giúp bệnh nhân tạo ra cho mình một chứng nhân khách quan ở bên trong, vốn cũng có thể xác định từng không gian mỗi khi họ đi vào và rời khỏi không gian đó. Nhờ công đoạn này, bệnh nhân và nhà trị liệu sẽ có thể xác định rõ hơn chu kỳ luẩn quẩn của bệnh nhân và cùng nhau tìm ra giải pháp. Bấy giờ, họ có thể tìm ra phương thức phá vỡ nó ở lần kế tiếp nó được khởi động.
Chẳng hạn, khi một bệnh nhân tâm thần phân liệt của tôi (xem Chương 13) mắc kẹt trong một hình thái như vậy, tôi chỉ tiến tới tấm bảng đen và bắt đầu vẽ và gán mác cho những hình thái đó trong lúc anh ta bộc lộ chúng. Khi anh ta thuật lại những ý nghĩ đó thành tiếng, tôi vẽ một mũi tên từ ý nghĩ trước đến ý nghĩ đang được bộc lộ. Chẳng mấy chốc, toàn bộ những ý nghĩ đều được vẽ lên bảng. Bề mặt bên ngoài của những hình thái này thường khá giới hạn, có nghĩa là bệnh nhân trải nghiệm một thực tại hết sức hạn hẹp, ở đó những định nghĩa và/hoặc những sự tương phản đều bị xem là tiêu cực và đôi khi mang tính tuyệt đối – chẳng hạn dường như tất cả mọi người khác đều xa cách hoặc thậm chí là nguy hiểm. Hoặc bệnh nhân có thể hoàn toàn tin rằng họ là một nạn nhân trong cuộc sống này. Điểm đột phá xảy đến khi bệnh nhân có khả năng giữ lại một trong những ý nghĩ, vốn chứa đựng cảm xúc mãnh liệt đặc biệt, đủ lâu để bộc lộ cảm xúc đó. Thông thường, nếu bệnh nhân có thể chịu đựng cơn giận hoặc nỗi đau gắn với ý nghĩ, thì họ có thể thoát ra và kết nối với các cấp độ sâu hơn bên trong hình thái tư duy đó.
Hình 11‒3 cho thấy một ví dụ như vậy. Trong trường hợp cụ thể đó, khi tôi vẽ các hình thái ra, bệnh nhân thấy được bức tranh tổng quan. Sự nhận biết sâu hơn này giúp cô tập trung vào bản thân và tự giải thoát mình khỏi chu kỳ luẩn quẩn. Cô đi sâu vào cơn giận của mình, bộc lộ nó và rồi nhìn ra những vấn đề sâu kín hơn có liên quan. Phần nhiều cấp độ bên ngoài của hình thái tư duy này là lớp mặt nạ, ở đó cá nhân không nhận thấy hoặc không tự chịu trách nhiệm về bản thân, mà lại đổ lỗi cho người khác. Cô làm như vậy là để tỏ ra “tốt đẹp”. Lẽ dĩ nhiên, điều này khiến cô bất lực cho đến khi nào tiếp cận được thực tại sâu sắc hơn vốn là trung tâm của hình thái tư duy. Do tổn thương tinh thần từ thời thơ ấu, khi cô cảm thấy bên trong mình hoàn toàn “xấu xa” và không thể làm gì khác được, bệnh nhân của tôi hiểu rằng trong tương lai, cô có quyền lựa chọn nhìn ra và hiểu rõ toàn bộ cấu trúc này, trước hết là đi sâu vào cơn giận của mình khi cảm thấy bị mắc kẹt, và rồi đi sâu vào nỗi đau tàng ẩn bên trong hình thái tư duy. Cô thường né tránh nỗi đau này bằng cách trú lại trên bề mặt của hình thái tư duy (và do đó, trú lại trong cái không có thực). Bằng cách cảm nhận nỗi đau, cô có khả năng hợp nhất đứa trẻ bên trong vốn cảm thấy “xấu xa” với con người trưởng thành bên trong vốn biết cô không phải là như vậy.
Hình 11-3: Hình thái tư duy bị phân ly
Thường thì việc bộc lộ và giải tỏa các cảm xúc là chìa khóa then chốt để thoát khỏi khuôn mẫu tư duy tuần hoàn. Trong phần lớn thời gian, những hình thái này trở nên phân ly ngay từ đầu, cốt để cá nhân đó không phải trải nghiệm những cảm xúc chứa đựng bên trong chúng. Trong cuộc sống thường nhật, cá nhân này bỏ nhiều tâm sức hòng tìm cách né tránh khởi động hình thái tư duy, bởi nó có thể gợi lên cảm xúc không mong muốn. Thế nhưng, kể cả tránh được những tình huống gợi lên những cảm xúc như vậy thì vẫn không mang lại hiệu quả hoàn toàn, bởi anh ta đang liên tục tái nạp năng lượng cho những hình thái tư duy. Theo thời gian, khi một cá nhân tiếp tục quá trình điều trị, hình thái này trở nên ngày càng kết nối hơn với phần còn lại của phàm ngã; những khía cạnh tiêu cực được chuyển hóa thành những chức năng tích cực và được hợp nhất vào hào quang “bình thường” của người đó dưới dạng những màu sắc sáng rõ không có hình thù cụ thể.
Thanh lọc hào quang trong một buổi điều trị
Mục đích của liệu pháp năng lượng cốt lõi (năng lượng bản thể) là nhằm giúp mọi người giải tỏa các tắc nghẽn trong trường hào quang thông qua sự tập trung và vận động cơ thể. Hình 11‒4 minh họa một trường hợp giải tỏa kiểu vậy. Bằng cách ngả lưng xuống một chiếc ghế đẩu nệm bông, các cơ của phần thân được kéo giãn và bắt đầu bớt căng cứng. Điều này giúp giải tỏa năng lượng và nới lỏng chỗ tắc nghẽn. Bệnh nhân có một điểm tắc nghẽn năng lượng kiên cố tại những cơ ngay trước cột sống gần mép cơ hoành. Trong khi anh ta thao tác trên ghế đẩu năng lượng sinh học, điểm tắc nghẽn này đột ngột được giải tỏa, cùng với đó là năng lượng bật tung ra. “Đám mây năng lượng” nhanh chóng di chuyển lên dọc theo cột sống. Khi nó lên tới đầu bệnh nhân và thâm nhập ý thức của anh ta, tôi quan sát thấy anh ta đi vào một không gian khác của thực tại. Anh ta bắt đầu kêu khóc và bộc lộ nỗi đau từ thời thơ ấu. Khi anh ta càng bộc lộ những cảm xúc này, đám mây năng lượng càng thoát ra nhiều hơn, và nó rời khỏi trường của anh ta.
Hình 11-4: Người đàn ông thao tác trên ghế đẩu năng lượng sinh học
Phần sau đây mô tả những gì diễn ra trong một buổi điều trị điển hình. Trước hết là một số thông tin cơ bản về bệnh nhân này, tôi sẽ gọi cô là Susan.
Susan là một người phụ nữ tóc vàng xinh đẹp chạc ba mươi tuổi. Cô là một nhà trị liệu chuyên nghiệp, đã kết hôn và có một cô con gái hai tuổi. Cô và chồng mình, cũng là một nhà trị liệu, có một cuộc hôn nhân vô cùng đầm ấm và vững chắc, họ đều là những người đứng đầu trong giới của mình. Họ gặp gỡ và kết hôn từ hồi còn rất trẻ. Bố của Susan mất trước khi cô ra đời hai tuần. Mẹ cô phải một thân một mình chăm sóc đứa con gái mới sinh và hai đứa con trai nhỏ. Bà gần như không có thu nhập và phải nhờ người khác đưa Susan về nhà họ chăm sóc. Susan lớn lên ở hai mái nhà: một nhà Cơ đốc giáo vô cùng sạch sẽ, ngăn nắp, nghiêm khắc và một ngôi nhà bừa bộn, ngổn ngang của mẹ cô. Mẹ cô đã mãi mãi không thể chữa lành vết thương lòng do mất chồng vào một thời điểm quan trọng đến như vậy. Bà không bao giờ tái hôn nhưng có rất nhiều người tình.
Việc kết hôn sớm giúp Susan thỏa mãn nhu cầu có một người đàn ông chăm sóc cô, bởi cô chưa từng thực sự có một người bố. Susan cũng chất chứa trong lòng nỗi lo sợ rằng cô sẽ không bao giờ thực sự có được một cuộc hôn nhân yên ấm (giống như mẹ cô) hoặc cô cần phải trở nên hoàn hảo nếu muốn được như vậy (giống với gia đình Cơ đốc giáo).
Sáng nọ, khi cô đến buổi điều trị của mình, trông cô có vẻ vô cùng hạnh phúc và phấn khởi. Cô nói về tuần lễ vừa qua ở bên chồng mình. Khi cô nói và cử động cánh tay, cô tung lên một đám mây trắng hồng của “hạnh phúc” (xem Hình 11‒5, Phụ lục hình màu). Thế nhưng, niềm hạnh phúc này đang được sử dụng nhằm che đậy những cảm xúc sâu kín hơn vốn được bộc lộ ra trong trường năng lượng của cô. Tôi quan sát thấy ở đó có một khối tắc nghẽn, một đốm màu xám đậm tại đám rối dương (vùng dạ dày), liên quan đến sự sợ hãi và những cảm xúc khác. Khối tắc nghẽn thứ sinh nằm ở trán (màu xám nhạt hơn, biểu thị rối loạn tâm thần), kết nối trực tiếp với nỗi đau đớn về mặt cảm xúc trong tim cô (màu đỏ). Cô cho thấy nhiều hoạt động trí óc (năng lượng cao) ở hai bên đầu (màu vàng). Cô cũng có nhiều năng lượng đời sống – tính dục rung động mạnh mẽ được lưu giữ tại khung xương chậu (màu cam – đỏ).
Khi cô tiếp tục khua cánh tay và vui vẻ trò chuyện, làm bật tung lên những đám mây mềm mại màu trắng hồng, năng lượng chói vàng tỏa ra từ hai bên đầu bắt đầu bao phủ hoặc che giấu khu vực trán màu xám có vấn đề. Cô đang thực sự thuyết phục bản thân rằng cô hạnh phúc khi che giấu phần màu xám bằng năng lượng (trí óc) màu vàng. Khi tôi mô tả lại những gì mình đang nhìn thấy, cô lập tức ngừng tạo ra đám mây màu hồng “giả”. Vùng màu xám ở phần đầu cô chiếm cứ lại vùng bao phủ ban đầu của nó.
Sự điềm tĩnh của Susan biến đổi hoàn toàn thành nỗi sợ hãi và đau đớn tinh thần. Thế rồi cô bắt đầu chia sẻ những gì đã thực sự diễn ra. Không lâu trước khi Susan đến buổi điều trị hằng tuần của mình, cô biết được mẹ mình đang nằm viện do mất cảm giác ở mắt. Bác sĩ phụ trách cho rằng đây là dấu hiệu của một chứng bệnh nghiêm trọng, chẳng hạn như đa xơ cứng. Susan đã rất lo lắng trước tình huống này và cần đến sức mạnh để chịu đựng đủ loại cảm xúc mà cô đang có về mẹ mình. Bằng cách chặn năng lượng đời sống – tính dục của mình ở khung xương chậu và không cho nó chảy xuống chân, cô cắt rời bản thân khỏi mặt đất và bệ đỡ của mình – một con người tồn tại trên địa cầu. Thế nên lúc này, việc quan trọng cần làm là chuyển dịch năng lượng đó xuống đất và kết nối cô với bệ đỡ năng lượng của mình, sức mạnh ở chân và khung xương chậu.
Qua các bài tập chân và khung xương chậu, chúng tôi bắt đầu chuyển dịch năng lượng ở khung xương chậu xuống chân cô để tạo cơ sở cho những thao tác khó hơn. Năng lượng này di chuyển nhanh chóng xuống dưới chân để kết nối cô với mặt đất. Sau đó, nó chảy khắp cơ thể và nạp hệ thống một cách đồng đều hơn. Khi khối tắc nghẽn ở khung xương chậu được giải tỏa, sự thay đổi năng lượng đem lại cho cô cảm giác an toàn trong chính những cảm xúc về tính dục và lực sống của bản thân. Khối tắc nghẽn ở khung xương chậu này có liên quan đến mẹ cô, người đã không xử lý tốt với năng lượng tính dục của mình. Susan vẫn sợ trở nên giống mẹ. Bởi lẽ Susan có mối liên kết trái tim – tính dục mạnh cho nên vấn đề này thực sự không có gì nguy hiểm, đó chính là lý do vì sao năng lượng di chuyển rất nhanh xuống dưới chân và vào trong mặt đất. Một khi năng lượng đã được nối đất, Susan biết rằng cô có thể có những cảm giác thích thú này mà vẫn kiểm soát được chúng, thế nên cô có thể tùy ý lựa chọn làm gì với chúng.
Tiếp đó, Susan đã có thể nói về nỗi đau đớn mà cô đang cảm nhận trong trái tim mình về căn bệnh của người mẹ. Cô bắt đầu khóc. Điều này giải tỏa phần màu đỏ xuất phát từ vùng tim. Thế rồi chúng tôi tiếp tục xử lý khối tắc nghẽn chính nằm ở đám rối dương của cô, vốn có liên quan đến những nhu cầu chưa được đáp ứng từ thời thơ ấu, đây cũng chính là lý do cô chối bỏ mẹ mình. Bởi vậy mà trường năng lượng của cô cho thấy tình trạng xung đột nội tâm. Một mặt, cô cảm thấy đau đớn và yêu thương người mẹ đang ốm nặng, mặt khác, cô cảm nhận cơn giận dữ của sự chối bỏ, kiểu như “bà đã không chăm sóc tôi; tại sao giờ tôi phải chăm sóc bà chứ?” Việc nhận thức và thấu hiểu xung đột này giúp cô bắt đầu giải tỏa vùng màu xám ở trán.
Việc giải tỏa đốm tối màu ở đám rối dương đòi hỏi thao tác mạnh trên cơ thể. Nằm ngả lưng lên ghế đẩu năng lượng sinh học, Susan uốn cong người ra sau để kéo giãn và nới lỏng khối tắc nghẽn. Sau đó, cô thực hiện các động tác vận lực lớn, đẩy mạnh nửa thân trên ra trước và xuống dưới nhằm làm trào ngược khối tắc nghẽn và tất cả những thứ mà nó tượng trưng cho. Không chỉ tượng trưng cho sự chối bỏ người mẹ, nó còn tượng trưng cho chủ định của Susan là trách móc bà vì tất cả những sự túng thiếu mà cô đã phải nếm trải. Susan duy trì một trạng thái “an toàn” cho sự túng thiếu trong cuộc sống hiện tại; thông qua thói quen, sự túng thiếu thời thơ ấu được thay thế bằng thái độ tự làm cho bản thân nghèo nàn. Đốm tối màu (đường kính 4 inch) ở đám rối dương nhẹ bớt và tản thành một vùng rộng hơn (đường kính 8 inch), nhưng nó vẫn lưu lại một ít trong trường năng lượng, cho thấy vấn đề vẫn chưa được giải quyết hoàn toàn. Sẽ phải mất một thời gian dài để giải tỏa đốm tối màu này bởi nó chứa đựng những vấn đề lớn trong cuộc đời cô.
Khi nói một trạng thái “an toàn” cho sự túng thiếu, ý tôi là cô cảm thấy thoải mái với một số sự thiếu thốn. Điều này dường như bình thường đối với cô. Con người chúng ta cảm thấy an toàn nhất khi ở trong bất kể thứ gì mà chúng ta xem là quy chuẩn, dù nó có thực sự bình thường hay không; quy chuẩn này được thiết lập trong môi trường thơ ấu của chúng ta.
Chẳng hạn với Susan, có thể dễ nhận thấy “quy chuẩn” này qua không gian sống của cô. Khi còn nhỏ, cô cảm thấy bối rối về chỗ ở của mình. Đâu mới là mái ấm thực sự của cô? Không nơi nào thực sự là mái ấm với cô cả. Vấn đề tiếp tục tồn tại. Cô đã sống trong một căn nhà chưa hoàn thiện suốt gần tám năm hôn nhân. Cô chưa từng thực sự sở hữu một căn nhà được hoàn thiện trọn vẹn và trang bị đầy đủ đồ đạc.
Khi quá trình điều trị tiến triển, không gian sống của cô cũng ngày càng được hoàn thiện đẹp đẽ và trang bị đồ đạc một cách hài hòa. Trong trường hợp của cô, đây thực sự là một biểu hiện ra bên ngoài của trạng thái nội tâm.
Từ những quan sát trên về trường năng lượng, hẳn bạn đã bắt đầu thấy được rõ hơn mối liên hệ giữa bệnh tật và các vấn đề tâm lý. Chúng ta chặn các cảm xúc của mình lại bằng cách chặn dòng chảy năng lượng. Điều này tạo ra những vũng năng lượng ứ đọng trong hệ thống mà nếu bị giữ ở đó đủ lâu thì sẽ làm phát sinh bệnh tật cho cơ thể vật lý. Vấn đề này sẽ được bàn chi tiết hơn ở Phần IV. Mối liên hệ giữa phép trị liệu và phép chữa lành trở nên rõ ràng khi bệnh tật được xem xét theo hướng này. Người chữa lành có cái nhìn bao quát về toàn bộ con người. Trong phép chữa lành, không có sự chia cắt giữa cơ thể và tâm trí, cảm xúc và tinh thần – tất cả đều cần được cân bằng để tạo ra một con người khỏe mạnh. Người chữa lành tập trung vào tình trạng hoạt động bất thường về thể chất, tâm lý và tâm linh. Không thể nào tiến hành chữa lành mà không tác động đến các cấp độ tâm lý của phàm ngã. Càng hiểu các động lực tâm lý của bệnh nhân, người chữa lành sẽ càng được trang bị để giúp bệnh nhân tự chữa lành.
Điểm lại Chương 11
1. Thế nào là một khối tắc nghẽn năng lượng?
2. Khối tắc nghẽn năng lượng được tạo thành như thế nào trong trường năng lượng con người?
3. Làm thế nào để biết thời điểm một khối tắc nghẽn trong trường năng lượng con người được giải tỏa?
4. Làm thế nào để biết một người đang giải tỏa những cảm nghĩ trái với những cảm nghĩ đang kìm nén họ?
5. Điều gì xảy ra trước ‒ các hiện tượng hào quang hay các hiện tượng cơ thể?
6. Các cảm xúc sau hiện ra với màu sắc gì trong hào quang: Sợ hãi, giận dữ, yêu thương, vui sướng, hoang mang, ghen tỵ, thù ghét?
7. Màu nào là tốt nhất trong hào quang? Màu đỏ rực rỡ, tươi sáng gần khung xương chậu hay màu xanh lá đậm đà êm dịu, gần vùng ngực – đám rối dương?
8. Hút cần sa gây ra tác động gì đến hào quang? Về ngắn hạn? Về lâu dài?
9. Hình thái tư duy bị phân ly là gì?
Suy ngẫm
10. Thực hiện các bài tập (quan sát hào quang của người khác) và mô tả lại những gì bạn nhìn thấy.
11. Lần theo một trong những hình thái tư duy mà bạn bị mắc vào từ lúc bắt đầu cho đến lúc kết thúc chu kỳ. Điều gì khởi động nó? Căn nguyên của nó là gì? Làm thế nào để thoát ra khỏi nó? Nó che đậy và bảo vệ bạn không phải cảm nhận những cảm xúc sâu kín nào?