Mae Sullivan cau mày nhìn lên toà nhà cũ kỹ đầy bụi bẩn và đổi thế đứng từ bàn chân đau nhức trên chiếc giày cao gót nhọn hoắt này sang chân bên kia, cố tránh không đè lên những vết phồng rộp. Vẻ ngoài của khu dân cư này cho thấy cơ hội cô bị cướp ngày có lẽ cũng chỉ cao hơn tí chút so với khả năng toà nhà sẽ đổ sập xuống đầu cô. Chỉ có kẻ thất thế mới làm việc ở một nơi như thế này.
Tốt.
Chẳng dễ gì mới tìm được một tay thám tử tư bất tài bằng một mẩu quảng cáo ngắn cũn tại một thành phố ở miền trung tây như Riverbend. Nhưng giờ đã có Mitchell Peatwick. Cô có thể hình dung ra anh ta đang ngả ngớn trên chiếc ghế bành, hói đầu và béo ục ịch, quai hàm trễ xuống và đôi mắt lóe lên sự hiểm độc, trong khi não thì bé như quả nho.
Anh ta sẽ chiếu cố đến cô vì cô là phụ nữ.
Còn cô sẽ chơi anh ta như chơi đàn piano.
Tất cả những gì cô phải làm là thuyết phục anh ta rằng anh ta đang điều tra một vụ giết người thực sự, rồi anh ta sẽ vác tấm thân phì nộn ấy đi loanh quanh, tạo nên những lời đồn đại và nỗi ngờ vực cho đến khi ai đó đã lấy cuốn nhật ký của ông bác cô sẽ buộc phải hoặc từ bỏ nó hoặc phải thủ tiêu nó vĩnh viễn nếu như kẻ đó không muốn bị bắt vì tội giết người. Phải, đó là tất cả những gì cô phải làm. Vậy thì làm thôi. Cô hít một hơi thật sâu và nhăn mặt khi cạp của chiếc váy hồng đi mượn cắt vào da. Rồi cô kéo chiếc mạng trên mũ xuống che ngang mắt và rảo bước về phía cánh cửa kính rạn nứt của toà nhà cũ kỹ, liếc nhìn bóng mình trong đó khi bước lên cầu thang.
Thậm chí là qua lớp mạng màu hồng ngớ ngẩn, trông cô vẫn cực kỳ gợi cảm. Đó là điều kỳ diệu mà váy áo có thể tạo nên.
Giờ nếu cô có thể tiến hành cho xong cuộc nói chuyện khỉ gió này trước khi cạp váy của June cắt cô thành hai và đôi cao gót nhọn hoắt của bà biến cô thành kẻ tàn tật suốt đời, thì cô sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề mà bọn họ đang mắc phải.
Cầu trời để Mitchell Peatwick là một gã ngu như bò và yếu lòng trước phụ nữ mặc váy bó, cô thầm cầu nguyện khi bấm chuông thang máy. Cầu trời để anh ta là bất cứ thứ gì theo ý mình.
Cánh cửa sổ ọp ẹp phía sau lưng anh mở toang, chiếc quạt trần trên đầu xoay xoay phả gió, và Mitch tin chắc rằng nếu như trời còn nóng hơn nữa thì anh sẽ chết. Và đúng là trời đang nóng hơn thật, anh khá chắc điều duy nhất giúp cho anh còn sống sót là vì anh không hề cử động. Nếu như anh nhúc nhích, thân nhiệt của anh sẽ tăng lên, và anh sẽ bị tan chảy ngay trên chiếc ghế bành của mình.
Dù sao thì anh cũng không muốn cử động gì ráo. Anh đang chán chường đến mức chẳng buồn cựa quậy. Anh ngả lưng trên chiếc ghế da đã rạn – tay áo xắn cao, tay vắt ra sau đầu, chân gác lên chiếc bàn kim loại méo mó – và suy nghĩ về những kế hoạch mà anh đã lập ra và về cái cách mà những kế hoạch đó diễn ra. Có sự khác biệt lớn ở đây. Kỳ vọng là sự chuẩn bị tồi tệ trước thực tế. Đó là lý do vì sao anh từ bỏ những mộng tưởng của mình. Mộng tưởng không mang lại hiệu quả đặc biệt gì, cũng chẳng sinh ra chút lợi lộc nào, nhưng mộng tưởng lại dễ dàng hạ gục thực tế.
Thực tế thì thật chó má.
Mộng tưởng làm cho nghề thám tử tư trở thành một thứ nghề nghiệp hoành tráng. Thực tế thì tiếc thương cho nó. Anh nhắm nghiền mắt và cố hình dung lại giấc mơ đó, cái phần mà anh sẽ trở thành Sam Spade[1] của thập niên 90. Rồi tiếng dây cáp treo thang máy kêu xủng xoẻng vọng qua hành lang và Mitch biết rằng một vụ ly dị khác nữa sắp sửa tìm đến mình. Trước đây anh còn ảo tưởng chút ít về các mối quan hệ, anh ảo não nghĩ thầm, nhưng bây giờ thì tuyệt đối không. Ngay cả những kẻ chưa kết hôn cũng thuê anh điều tra xem liệu những người mà họ không kết hôn cùng có thành thật hay không. Và dĩ nhiên là những người đó không thành thật. Đó là một sự thật không thể thay đổi mà Mitch đã học được trong một năm qua, là điều duy nhất mà giờ đây anh nhận ra là mình có thể tin tưởng được.
[1] Thám tử Sam Spade: Nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết trinh thám Chim ưng xứ Manta của nhà văn Dashiell Hammett, xuất bản năm 1930.
Tất cả mọi người đều nói dối.
Hẳn là Sam Spade đã hiểu được phần này, nhưng anh ta sẽ phỉ nhổ vào các vụ ly dị. Mitch có một cảm giác không mấy dễ chịu là lẽ ra anh cũng nên phỉ nhổ vào công việc này thay vì dựa vào nó để sống tạm bợ. Quá là tạm bợ. Anh vẫn còn một tuần nữa trong năm, một tuần nữa để kiếm được những đồng cuối cùng trong món tiền hai mươi nghìn đô và thắng vụ cá cược ngớ ngẩn rồi quay lại với cuộc sống bình thường của mình, nhưng để làm được điều đó cần phải có một khách hàng sẵn sàng trả cho anh hai ngàn sáu trăm chín mươi bốn đô trước ngày thứ Sáu.
Chuyện đó sẽ không xảy ra. Moi tiền từ phía khách hàng là điều kém ưa thích thứ hai mà anh đã học được từ cái nghề này.
Vì vậy khi nghe thấy tiếng dây cáp treo thang máy kêu xủng xoẻng ở ngoài hành lang đối diện với cửa văn phòng, anh chẳng hề sốt sắng bật dậy. Không chỉ vì nhiệt độ tăng lên sẽ giết chết anh nếu anh cử động, mà còn vì lâu lắm rồi anh đã chẳng hăng hái làm bất cứ chuyện gì, và anh cũng quên mất không biết chuyện tỏ ra nhiệt tình kiểu đó diễn ra như thế nào.
Nếu mình là Sam Spade, thì đây ắt phải là Brigid O’Shaughness[2]. Chiếc quạt trần cũ kỹ kêu kẽo kẹt trên đầu Mitch, ánh mặt trời vàng vọt phủ lên người anh, và thật ngạc nhiên, anh bắt đầu cảm thấy lạc quan trở lại. Có lẽ niềm hi vọng vẫn chưa tắt hết. Có lẽ đây là một vụ Brigid dành cho anh, một người phụ nữ không hứng thú gì với hôn nhân và ràng buộc, sẵn sàng quyến rũ anh để đạt được những gì cô ta muốn.
[2] Trong tiểu thuyết Chim ưng xứ Manta, Brigid O’Shaughnessy là một người phụ nữ xinh đẹp đã thuê Sam Spade và đồng sự là Miles Archer tìm tung tích một người đàn ông. Tuy nhiên, O’Shaughnessy thực ra có dính dáng đến một vụ lùng tìm bức tượng con chim ưng xứ Manta (Maltese Falcon) và đã lợi dụng hai thám tử nói trên để chiếm lấy con chim ưng quý giá cho riêng mình. Sau đó cô ta đã giết chết Archer và quay trở lại quyến rũ Sam Spade để đạt được nhiều mục đích, nhưng lại dần trở nên yêu Sam Spade.
Chắc như bắp là anh sẵn lòng để bị quyến rũ.
Cô ta sẽ bước vào văn phòng, lạnh lùng, thon thả, duyên dáng và bốc lửa trong một bộ vest trắng cổ rộng và một chiếc váy bó xẻ dọc đến tận hông. Cô ta sẽ có đôi chân tuyệt hảo. Và có thể cô ta sẽ đội một chiếc mũ trên mái tóc xoăn đỏ rực, một chiếc mạng tối che đi đôi mắt xanh thăm thẳm và chiếc mũi thẳng nhỏ xinh bên trên đôi môi căng mọng, ẩm ướt. Và ở giữa đôi môi và đôi chân sẽ là phần đẹp đẽ nhất. Chiếc áo vest sẽ bó chặt lấy ngực cô ta. Bộ ngực tròn. Bộ ngực căng, tròn. Bộ ngực cao, căng, tròn.
Mitch cố xua hình ảnh bộ ngực kia ra khỏi đầu.
Thế rồi cô ta bước vào và nói: “Tôi cần anh tìm Chim ưng xứ Manta[3].” Giọng nói của cô ta hơi khàn và nhẹ nhàng. Và từ lúc nào đó cô ta sẽ bỏ mũ xuống, và họ sẽ có một cuộc mây mưa đầy đam mê, ướt át, trơn trượt và đẫm mồ hôi…
[3] Maltese Falcon: Bức tượng Chim ưng xứ Manta.
Mitch nấn ná một lúc với màn mây mưa.
…và rồi anh sẽ phát hiện ra từ đầu đến cuối cô ta là kẻ có tội. “Anh sẽ không chịu tội thay cho em đâu[4], bé cưng”, anh sẽ nói thế, và họ sẽ giao nộp cô ta vì tội ám sát cộng sự của anh. Thôi được rồi, anh chẳng có cộng sự nào trừ phi anh tính đến Newton, và chẳng ai từng tính đến Newton cả, thế nhưng… Chả trách mà cuốn sách đó lại là một cuốn kinh điển. Sam Spade đã tóm được cô ả mà không cần phải ràng buộc bất cứ điều gì và vẫn cảm thấy rất tuyệt về bản thân khi đá cô ta. Đầu tiên là ăn nằm với nhau cho thoả thích, rồi sau đó anh ta bỏ rơi cô ả, tự do thảnh thơi như chim trời, như một người anh hùng thay vì một tên sở khanh.
[4] Nguyên văn: I won’t play the sap for you, baby. Đây là câu nói mà Sam Spade đã nói với O’Shaughnessy sau khi cô ta thú nhận toàn bộ tội ác của mình và cầu xin anh không giao nộp cô ta cho cảnh sát, thay vào đó cô ta sẽ trao cho anh một số tiền lớn cùng với bức tượng con chim ưng.
Nào nào, cũng phải có tí mơ mộng chứ.
Rồi cửa phòng mở ra, anh nhìn lên và cô bước vào.
Tóc cô màu nâu sẫm, giống như màu mắt phía sau mạng che mặt, bộ vest màu hồng chứ không phải màu trắng, nhưng tất cả những thứ còn lại khá giống với trong tưởng tượng. Chiếc mũi, đôi môi, bộ…
“Mình sẽ bị đày xuống địa ngục mất.” Với nỗ lực to lớn, Mitch dứt ánh mắt khỏi bộ ngực để nhìn lên mặt cô.
“Chắc vậy.” Chất giọng trầm trầm của cô dội thẳng vào sống lưng anh. “Anh là Mitchell Peatwick?”
“Ừ, phải.” Mitch vung chân xuống sàn và đứng dậy, quẹt lòng bàn tay đẫm mồ hôi lên áo trước khi chìa tay cho cô. “Mitch Peatwick, thám tử tư. Nghe này, cô đã bao giờ đọc cuốn Chim ưng xứ Manta chưa?”
“Rồi.” Cô phớt lờ tay anh trong khi quan sát căn phòng bẩn thỉu, môi trề ra dè bỉu khi nhìn thấy những vết rách trên đệm ghế bọc và lớp bụi bặm. “Có thật đây là văn phòng của anh không?”
Đó là cách mà cái thế giới này vận hành đấy. Sự kỳ vọng lần nào cũng làm anh vấp ngã. Giá như chỉ cần im miệng lại, cô ta sẽ rất hoàn hảo, thế nhưng không…
Thực tế. Sự thất vọng của tạo hóa.
Mitch thở dài và rút tay lại. “Cứ coi đó là không khí. Tôi thường làm vậy.” Anh ngã vào ghế và lại gác chân lên mặt bàn. “Thế tôi giúp gì được cô? Mất chó xù à?”
Cô nhướn mày nhìn anh. “Nếu đúng thế thì anh có tìm lại được không?”
“Đúng là những gì tôi cần - một khách hàng kiêu kỳ.” Mitch cố để giọng mình không lộ ra vẻ khó chịu, nhưng điều đó thật khó. Có gì đó kiểu như bị một cô nàng xinh đẹp với bộ ngực như mơ làm mất mặt giữa cái nóng hừng hực thế này làm cho anh cảm thấy tồi tệ hơn bao giờ hết. Và dù sao đi nữa, cô ta cũng chẳng đẹp đến thế. Chiếc mũi đúng là khá chuẩn, đôi môi không thực sự tự trề ra, và bộ ngực thì… Đừng nghĩ đến ngực ngà gì nữa, Mitch tự nhủ, nó chỉ làm cho mày thấy não nề thêm thôi.
“Xem xét bề ngoài mọi thứ thì anh có thể tiếp nhận bất cứ loại khách hàng nào.” Cô săm soi đế giày đang vắt vẻo trên mặt bàn ngay trước mặt mình. “Trước đây tôi chưa thực sự nhìn thấy cái đế giày nào mỏng như giấy thế này. Thật đáng kinh ngạc. Từ đây tôi có thể thấy được màu tất anh đang đi đấy. Chúng bị thủng lỗ chỗ nữa này.”
“Chuyện lớn đây.” Mitch mỉm cười phớt đời và chẳng hề tỏ ra yếu thế. “Giờ hãy nói tôi nghe điều gì đó thật khủng xem, như màu đồ lót tôi mặc chẳng hạn.”
“Anh có mặc tí đồ lót nào đâu.” Cô nói, và Mitch thả hai chân xuống sàn.
“Cô muốn gì?” Anh trừng mắt nhìn cô qua ánh nắng mờ đục. “Nếu cô chỉ ghé qua và phá hoại ngày làm việc của tôi, thì cô xong việc rồi đấy.”
Cô lại nhìn quanh căn phòng và bước về phía giá mắc áo với điệu bộ lắc hông làm căng lớp váy bó và phần nào làm dịu đi đáng kể cơn cáu kỉnh trong người Mitch. Rồi cô nhặt lấy chiếc áo khoác vải lanh của anh, bước trở lại chỗ chiếc ghế anh dành cho khách hàng và dùng chiếc áo đó phủi bụi chỗ ngồi. Mitch lẽ ra đã nổi cáu trở lại, nhưng khi đang cúi người để lau chỗ ngồi, áo ngoài của cô bắt chéo quá cao để lộ ra một cảnh tượng cực kỳ ngoạn mục - mọi thứ dường như đều đổ dồn về phía trước, tì vào lớp vải mềm mại và rộng lùng thùng - và anh nhớ ra rằng dù thế nào thì mình cũng chẳng thích đồ vải lanh đến thế. Thế rồi cô quay lại và treo chiếc áo khoác lên giá. Anh ngắm nhìn cô từ phía sau, lại nghĩ rằng phụ nữ thật là một tạo vật kỳ lạ biết bao và anh sung sướng thế nào khi mình là đàn ông.
Rồi cô ngồi xuống, và anh cố gắng tập trung.
Cô chớp mắt nhìn anh, đôi mắt thật to. “Chuyện này phải được giữ bí mật.”
Mitch khịt mũi. “Dĩ nhiên rồi. Chưa ai bước vào đây mà bảo rằng, ‘Nghe này, tôi muốn tất cả mọi người biết điều này.’” Anh lôi ra một tập ghi chú màu vàng và nhặt lên một cây bút. “Hãy bắt đầu bằng tên cô đi nào.”
“Mae Sullivan.” Cô trả lời, và anh ghi lại.
“Và chuyện gì có vẻ là vấn đề của cô thế?”
Cô trừng mắt nhìn anh: “Dường như ai đó đã giết bác của tôi.”
Giọng cô có vẻ kiêu kỳ hơn những gì mà anh đã hình dung là một giọng nói quyến rũ nên có. Thật chẳng dễ chút nào khi đồng thời vừa bị nổi hứng lại vừa thấy bực mình. Điều đó làm anh tiêu hao nhiều năng lượng, trong khi anh cần chỗ năng lượng đó để không nghĩ đến cái nóng xung quanh, đây chính là một lý do khác làm anh không thích cô. “Giết người. Chà, cô biết đấy, những vụ thế này thì cảnh sát tài lắm. Cô đã cho giám định tử thi chưa?”
“Đám tang sẽ cử hành vào ngày kia.”
“Vậy đây không phải là tin mới với cảnh sát.”
“Bên cảnh sát không có hứng thú.” Đôi mắt nâu của cô đối chọi ngang ngửa với đôi mắt xanh của anh. “Còn anh thì sao?”
Mitch nhìn vào đôi mắt ấy và nghĩ đến một vụ giết người thay vì một vụ ly dị rồi thở dài. “Có. Tôi sẽ hối tiếc cho xem, nhưng có, dĩ nhiên là tôi có hứng thú.”
Cô cựa mình trên ghế, tất cả những phần cơ thể đang di chuyển quyện lại thành một cử động duyên dáng, mời gọi, và Mitch nghĩ, Ơn Chúa là mình không có cộng sự, nếu không cô nàng cầm chắc sẽ xử cậu ta.
Nói dối không phải là sở trường của Mae, nhưng những gì vừa được chứng kiến đã làm cô rất phấn khởi. Nhấp nháy mắt với cô, loạng choạng vì cái nóng tràn ngập cả căn phòng, Mitchell Peatwick không có vẻ gì là sẽ hiểu ra dù cho cô có nói với anh cô là một thành viên trong ban nhạc Pointer Sisters[5] đi chăng nữa. Anh chỉ nằm ườn ra đấy sau chiếc bàn làm việc Goodwill, mái tóc bờm xờm rủ xuống che đôi mắt, và đối đáp xấc xược với cô khi cô làm anh mất mặt. Khi không nói gì, trông anh ta còn có vẻ dễ mến theo cái kiểu khù khờ ngờ nghệch, nhưng cái văn phòng mà anh ta sở hữu dứt khoát là được lôi ra từ một cuốn tiểu thuyết rẻ tiền, và đầu óc chủ nhân của nó thì rõ ràng là vẫn đang ở trong đấy. Chim ưng xứ Manta ư? Đúng là đồ mơ ngủ.
[5] Pointer Sisters: một ban nhạc Pop/R&B của Mỹ ở thập niên 70-80 bao gồm 3 thành viên nữ da đen.
Thế nhưng điều đó lại tốt. Sẽ cần đến một kẻ mơ ngủ để tin vào câu chuyện của cô. Và trông anh thì không hoàn toàn hết thuốc chữa. Quần áo anh đang mặc vừa cũ kỹ vừa chẳng theo một kiểu cách nào, mái tóc thì cần phải được cắt tỉa, và gương mặt có nhiều góc cạnh hơn là cần thiết, nhưng anh là một người đàn ông thực thụ, tuýp có bờ vai rộng, không đeo xích vàng lòng thòng và phát ngôn câu để-tôi-lấy-xe-cho-quý-cô với một vẻ gợi cảm ngây ngô làm cho phái đẹp nghĩ rằng có lẽ mình đã quá hấp tấp với phong trào bình quyền nam nữ.
Rồi sau đó, dĩ nhiên, anh ta mở miệng lên tiếng, và thế là toàn bộ phái đẹp lùng tìm ngay cột đèn gần nhất để treo ngược anh ta lên đó. Giá như anh ta chỉ cần im miệng lại…
“Kể tôi nghe về ông bác của cô nào.” Anh nói bằng giọng kiên nhẫn, và cô nghĩ rằng mình đã nhìn thấy sự cảm thông trong đôi mắt kia, điều đó làm cô cảm thấy tội lỗi khi lợi dụng anh. Dĩ nhiên, có thể nó chỉ giống như sự cảm thông thôi. Có thể đó chỉ là tàn dư của bia rượu cũng nên.
“Ông ấy đã bị giết.” Mae hơi chồm về trước, chỉ đủ để ngực cô dịch chuyển bên dưới lớp áo vest. Cách này đã hiệu quả với anh trước đó, mặc dù cô cũng phải cẩn trọng để không quá trớn. Đôi khi cánh đàn ông trở nên phát chán với việc mất quá nhiều thời gian thay đổi quần là áo lượt. Hoặc là họ sẽ cứ đờ mặt ra mà nhìn ngắm. Cô liếc nhìn mắt anh. Vẫn còn khá tỉnh táo. Hoàn toàn nhanh nhạy. “Nhưng không ai chịu tin khi tôi nói với họ điều đó.”
“Kể cả cảnh sát à?”
Mae cố tỏ ra trông thất bại và yếu đuối. Anh ta trông giống tuýp người sẽ đứng về phía những người như thế. Brigid O’Shaughnessy đã thành công với cái vẻ thất bại và yếu đuối đó. “Tôi vẫn chưa báo cảnh sát. Họ hẳn sẽ không tin lời tôi. Bác sĩ đã kí vào giấy chứng tử. Cảnh sát không thể làm gì cả.”
Anh lại nhặt cây bút lên. “Tên ông ta là gì?”
“Armand Lewis.” Mae nhìn theo bàn tay đang chuyển động và tạo nên những nét bút hằn thật sâu trên tập ghi chú màu vàng, . Anh có đôi tay to khoẻ, động tác kiên quyết dứt khoát, và trong lúc đang lang thang trên con đường tưởng tượng của chính mình thì cô nhận thức được chuyện gì đang xảy ra, liền ngay lập tức đặt dấu chấm hết cho việc tưởng tượng đó. Quá nhiều thứ có nguy cơ tan tành vì một đôi tay đẹp, nhất là khi nó đi đôi với một bộ óc thiểu năng đến mức tin vào câu chuyện của cô.
Anh ngẩng lên nhìn cô. “Bác sĩ đã viết gì trong giấy chứng tử?”
“Đau tim.”
Anh ghi lại điều đó rồi hỏi tiếp, “Bác cô có vấn đề gì về tim không?”
“Có.”
“Ông ta bao nhiêu tuổi?”
“Bảy mươi sáu.”
Khi lên tiếng trở lại, có vẻ như anh đã chọn lựa câu chữ rất cẩn thận. “Rõ ràng là cô không cho rằng bác cô chết vì một cơn đau tim ở độ tuổi bảy mươi sáu.”
“Hiển nhiên rồi.” Mae mỉm cười với anh, đúng kiểu Brigid đến tận răng.
“Cô có lý do nào để nghĩ rằng bác cô bị giết không?”
“Không.” Mae hơi nhoài người về phía trước và liếm ướt môi. “Tôi chỉ biết là ông ấy đã bị giết. Đôi khi tôi có giác quan thứ sáu về mọi chuyện.”
Anh mỉm cười với cô, kiểu cười mà người ta thường dùng với lũ trẻ con không biết điều và mấy kẻ loạn trí. “Và đây là một trong những khi đó?”
“Phải.”
“Được rồi.” Anh quay lại với tập ghi chú, và Mae cảm thấy dễ chịu hơn tí ti. “Ông ấy có để lại nhiều tài sản không?”
“Có. Tài sản của ông ấy đâu khoảng chừng hai mươi triệu đô.”
“Khoảng chừng khá đấy. Ai sẽ thừa kế?”
“Tôi, một khi di chúc được công bố.”
Anh ngẩng phắt lên, “Tất cả à?”
Mae gật đầu, “Một nửa số cổ phần của ông ấy và tất tần tật những thứ khác.”
“Ai sẽ nhận nửa số cổ phần còn lại?”
“Em trai ông ấy, Claud Lewis.”
“Claud có cần số cổ phần đó không?”
“Không.”
Mitch cau mày, “Và không có gì để lại cho người giúp việc, không gì cho từ thiện, không những chiếc hộp khoá kín dành cho họ hàng xa à?”
Mae lại bắn cho anh một nụ cười Brigid khác để kéo anh quay lại đúng hướng. “Thực ra chuyện này chẳng cần thiết đâu. Có một khoản nho nhỏ cho quản gia, nhưng họ sẽ không hại bác tôi.”
“Nho nhỏ thế nào?”
“Mỗi người năm mươi nghìn.”
Anh nhìn vào mắt cô. “Trong khoảng chừng của tôi, năm mươi nghìn không hề nhỏ chút nào.”
Kiên nhẫn lẽ ra chẳng phải là thế mạnh của một quả bom sex, nhưng Mae không có nhiều lựa chọn. Hóa ra Mitchell Peatwick lại trở nên chuyên tâm hơn là cô đã tưởng. Điều này không ổn chút nào. “Khoản đó không đủ cho họ nghỉ hưu và an dưỡng tuổi già. Nếu như bác Armand còn sống, họ có thể kiếm được khoản lương gần như thế mỗi năm, cộng với nơi ăn chốn ở miễn phí. Họ đã hơn sáu mươi rồi, và họ sẽ không tìm được nơi nào khác như ở với bác tôi. Cái chết của ông ấy đúng là một thảm hoạ cho họ. Giờ, về phần bác tôi…”
“Tôi không nghĩ rằng ngày nay người ta còn cần nhiều đến quản gia.” Mitch đồng ý. “Tuy vậy, cứ đọc tên họ cho tôi.”
Mae hít vào thật sâu. Tại sao đám đàn ông luôn nói rằng họ muốn giúp đỡ cô rồi sau đó lại không chịu lắng nghe cô? Là do cô, hay do một thứ phụ phẩm vớ vẩn nào đó của kích thích tố sinh dục nam? “Họ không giết ông ấy.”
“Đọc cho tôi tên của họ.”
Cô lại mỉm cười, lần này thì lạnh nhạt hơn một chút. “Harold Tennyson và June Peace.”
“Họ đang sống ở đâu?”
“Trong nhà.” Mae cố nới kẽ răng ra. Sự nóng nực làm cô cáu tiết, đôi giày chật cũng làm cô cáu tiết, nhưng phần lớn là Mitchell Peatwick đang làm cô điên tiết. “Ngôi nhà của bác tôi.”
“Vậy là cô vẫn giữ họ ở lại.”
“Ồ, dĩ nhiên rồi.” Sự kiên nhẫn của Mae cuối cùng đã đạt đến giới hạn. “Tôi không thể quăng họ ra ngoài trời tuyết được.”
Anh mỉm cười nhìn cô. “Giờ là tháng Bảy. Cô sẽ chỉ phải quăng họ ra bãi cỏ thôi. Và bởi vì cô vẫn chưa làm thế, họ chả mất gì khi bác cô qua đời.”
Mae nén lại cơn giận. “Họ không biết là tôi sẽ không đuổi họ đi.”
“Họ không quen biết gì cô à?”
“Dĩ nhiên là họ biết tôi chứ. Nhưng tôi chưa bao giờ hứa sẽ giữ họ lại nếu như có chuyện gì đó xảy ra với bác Armand. Chúng tôi chưa bao giờ đề cập đến chuyện đó.”
“Họ biết cô bao lâu rồi?”
“Điều đó thì có gì khác biệt?”
“Nếu họ biết cô càng lâu, thì hẳn là họ sẽ đoán được cô định làm gì. Họ và cô biết nhau bao lâu rồi?”
“Hai mươi tám năm.”
Mắt anh ta hơi mở lớn. “Từ lúc cô sinh ra à?”
“Không, từ lúc tôi lên sáu và chuyển đến sống với bác tôi.”
“Cô ba mươi tư tuổi rồi?”
“Ừ.”
“Trông cô chẳng giống cái tuổi ấy gì cả.”
“Đó là vì tôi chưa lập gia đình.” Mae mỉm cười như thể điều đó là chân lý. “Hôn nhân thường làm phụ nữ già đi.”
“Việc đó chả ảnh hưởng đến đàn ông lắm.”
“Thực ra là có đấy. Những người đàn ông có vợ thường sống lâu hơn mấy anh chàng độc thân.”
“Chỉ có vẻ là lâu hơn thôi.” Anh ngả người ra ghế và quan sát cô. “Vậy là Harold và June đã chơi trò tung hứng trên đầu gối với cô và bón bánh cho cô ăn, nhưng cô lại cho rằng họ không biết là cô sẽ lo cho cuộc sống của họ nếu như họ làm thịt ông bác Armand của cô.”
Mae nhắm mắt lại trong giây lát. “Họ không làm thịt bác Armand.”
“Chúng ta sẽ quay lại với họ sau. Được rồi, ngoài cô, Harold, June và ông bác Claud, không còn ai trong di chúc nữa chứ?”
“Không.”
“Bác cô có sở hữu công ty nào không?” Anh gõ bút lên tập giấy. “Ông ấy có dính dáng đến cái gì mà ai đó có thể muốn tiếp quản không?”
“Ông ấy là người chung phần với bác Claud.”
“Còn người chung phần nào khác nữa không?”
“Không. Chỉ có bác Claud thôi.”
Anh lại mở miệng, và Mae ra tay chặn lại trước khi anh lại đi nhầm hướng. “Ông ấy cũng không giết bác Armand.”
“Họ thân nhau chứ?”
“Không. Bác Claud không thích bác Armand vì ông ấy cho rằng Armand quá phóng đãng, trác táng và là một mối nhục cho tên tuổi của dòng họ Lewis.”
“Nghe có vẻ là một trích dẫn nguyên văn nhỉ.”
“Chuẩn đấy.”
“Điều đó đúng chứ?”
“Đúng.”
Mitch nhướn mày, “Trác táng ở tuổi bảy mươi sáu á?”
Mae thở dài. Mitchell có thể là một tên đần độn, nhưng anh ta là một tên đần độn dằng dai. “Ông ấy có một cô nhân tình. Trên thực tế, họ đã ngủ với nhau vào cái đêm mà ông ấy chết. Cô ta kể cho tất cả mọi người nghe chuyện đó dù họ có hỏi hay không. Rồi cô ta than khóc.”
Anh ngồi thẳng người trên ghế. “Chúng ta có thể lạc đề chút được không?”
Mae nhìn anh với vẻ bực tức, “Tôi có được lựa chọn không?”
“Không. Ông ta đã bảy mươi sáu tuổi, bị bệnh tim và ông ta đã ngủ với cô nhân tình mới chỉ… bao nhiêu? Năm mươi à?”
“Hai lăm. Tên cô ta là Stormy Klosterman. Điều này chẳng liên quan gì…”
“Klosterman?”
Mae đầu hàng. “Nghệ danh của cô ta là Stormy Weather. Dĩ nhiên, cô ta tạm thời giải nghệ khi cặp với bác tôi.”
“Dĩ nhiên.” Anh ta chớp mắt. “Họ cặp với nhau bao lâu rồi?”
“Bảy năm.” Mae đáp không chút e dè. “Ông ấy đã bắt được cái ô của cô ta khi nó lăn khỏi đường tàu một đêm nọ. Thật là thần kỳ.”
Anh cười toe toét. “Cô không phải là fan của Stormy. Tôi có thể thấy điều đó.”
Mae nhún vai. “Cô ta thì ổn. Ít ra tôi không nghĩ rằng cô ta giết bác tôi. Cô ta chẳng kiếm được một xu từ chuyện đó.”
“Cô ta biết điều đó trước khi ông ta chết chứ?”
“Biết. Ông ấy rất rõ ràng về chuyện này với tất cả các cô nhân tình.”
“Còn có những người khác nữa à?”
“Chà, trước Stormy thì có. Từ nhỏ đến lớn tôi đã có rất nhiều bà bác.”
“Cô lớn lên cùng với ông bác Armand à?”
Mae thoáng nghĩ đến chuyện với người qua cái bàn, túm lấy cổ áo anh và hét lên, “Chúng ta có thể nói luôn về cuốn nhật ký được chứ?” nhưng điều đó hẳn sẽ phản tác dụng. Chiều theo ý anh ta vậy. “Bố mẹ tôi đã qua đời trong một tai nạn xe hơi lúc tôi lên sáu. Trong di chúc, họ chỉ định ba ông bác của tôi là người giám hộ và thực hiện di chúc. Bác Armand, bác Claud và bác Gio. Cả ba người đều muốn chăm sóc tôi, thế nên họ đã rút thăm.”
“Ông Gio à?” Giọng anh có vẻ nghèn nghẹt.
“Tất cả chúng tôi đến văn phòng của luật sư, rồi họ rút thăm, và bác Armand thắng. Giờ chúng ta có thể trở lại với cái chết của bác Armand được chứ?”
“Thế ông bác Gio của cô có họ là…?”
“Donatello.”
“Tuyệt.” Anh quăng cây bút xuống bàn và nhìn chòng chọc vào cô với vẻ chẳng thiện cảm tí nào.
Mae cố lái câu chuyện quay trở về đúng hướng. “Tôi thấy là anh đã nghe những lời đồn đại về bác Gio của tôi. Đừng lo. Những lời đồn đại đó không đúng đâu. Giờ, về chuyện…”
“Tôi đã nghe chuyện về toàn bộ gia đình kìa. Ông anh họ Carlo của cô thế nào rồi?”
“Anh ấy được thả rồi.” Mae trả lời. “Đó là một vụ bắt nhầm.”
Anh ngồi im lặng một lát, và Mae cảm thấy đôi mắt kia đang dò xét cô, và cho đến lúc này cô mới nhận ra rằng có lẽ cô đã sai lầm khi đến gặp Mitchell Peatwick. Anh ta trông như có chỉ số thông minh của một chàng hậu vệ ấy, nhưng có điều gì đó đang diễn ra trong cái đầu láu cá của gã đàn ông này . Chỉ có Chúa mới biết nó là gì, nhưng Mae chắc chắn nó chẳng hay ho chút nào.
Anh chồm người tới trước. “Được rồi, quên ông bác Gio của cô một lát vậy. Ngoài cái giác quan thứ sáu mà tôi cho là cực kỳ chính xác của cô, hẳn cô phải có lý do nào khác để đến đây bởi vì, theo ý cô, bác của cô không bị giết bởi một người mà ông ta quen biết. Vậy hãy nói tôi nghe sự thật. Sao cô lại nghĩ là ông ấy bị giết?”
Đến rồi đây. Mae liếm ướt môi một lần nữa. “Anh không được nói chuyện này cho ai biết đấy.” Cô khẽ nhoài người lên trước đối diện với anh. “Nhật ký của ông ấy đã biến mất. Tôi nghe ông ấy đề cập đến nó qua điện thoại vào ngày ông ấy qua đời, và giờ thì nó biến mất. Cuốn nhật ký không quan trọng, nhưng người nào có nó đã giết ông ấy. Tôi chắc chắn điều đó.”
Dĩ nhiên là cô đang nói dối. Lòng tin của Mitch đối với con người đã giảm sút đến mức, anh thường cho rằng ai đó sẽ nói dối ngay khi người đó vừa mở miệng, nhưng không nghi ngờ gì là cô đang nói dối về cuốn nhật ký. Hoặc là không hề tồn tại một cuốn nhật ký nào, hoặc là có và nó rất quan trọng. Dù là khả năng nào thì cũng chả liên quan gì cả, điều quan trọng là phải tìm ra lý do vì sao cô nói dối.
Và với người phụ nữ này, điều quan trọng có thể là vì giác quan thứ sáu của cô ta. Hoặc là vì hai mươi triệu đô.
Hai mươi triệu.
Quỷ tha ma bắt, với hai mươi triệu đô la, cô ta có thể nói dối anh suốt cả đời miễn là cô ta trả anh hai ngàn sáu trăm chín mươi tư đô.
Giá như cô ta không đả động gì đến ông bác Gio của mình.
Thực sự là anh đã có hứng thú tiếp nhận vụ này. Và không chỉ vì số tiền hay vì cô có một thân hình bốc lửa. Chà, được rồi, một phần là vì thế. Nhưng phần lớn là vì cảm giác thật tuyệt khi tiếp nhận vụ điều tra cuối cùng mà không cần phải uống tách cà phê nhạt nhẽo trong bãi đỗ xe bên ngoài mấy khu nhà trọ rẻ tiền. Anh đã dần chấp nhận thực tế rằng vụ cá cược của anh là hậu quả của một cơn khủng hoảng tuổi trung niên, và rằng chuyện mua một chiếc Porsche và hẹn hò với một cô nàng hai mươi tuổi là dễ hơn cả tỷ lần, nhưng vì lý do nào đó anh đã muốn có ít nhất là một lần đấu-tranh-chống-lại-sự-bất-công thực sự trước khi anh bái bai và quay trở lại là Mitchell Kincaid, một nhân viên môi giới chứng khoán đầy hoài bão.
Nhưng giờ lại vớ phải Gio Donatello. Anh liếc lên nhìn người phụ nữ trước mặt và định nói với cô nàng rằng anh không nghĩ là mình sẽ hứng thú, và cô đang nhìn lại anh, tin tưởng và yếu đuối. Anh không biết chắc đó là sự yếu đuối chân thành hay yếu đuối giả vờ, dù theo thiển ý thì anh cho rằng đó chỉ là giả vờ thôi, nhưng khi sự yếu đuối biến mất thì thứ còn lại lại vô cùng hấp dẫn.
“Vậy là,” Mitch cựa mình trên ghế, co duỗi cả người khi chiếc áo sơ mi nhớp nháp mồ hôi sau lưng anh. “Tổng kết lại xem nào. Cô có một ông bác bảy mươi sáu tuổi mắc bệnh tim đã ngủ với một cô nhân tình hai lăm tuổi và từ giã cõi đời. Bác sĩ kết luận đó là một cơn đau tim. Cô, người thừa kế một nửa số cổ phần và tất cả những thứ khác mà ông ta sở hữu, lại cho rằng đây là vụ giết người. Nghi can là quản gia và người giúp việc, người em trai sẽ thừa hưởng một nửa số cổ phần còn lại của ông ta, cô nhân tình không thừa kế gì cả và một ông trùm mafia địa phương cùng với gã cháu trai đồ tể của ông ta, nhưng theo ý cô thì không ai trong số họ là thủ phạm.”
“Là thế đấy.” Cô gật đầu. “Tôi biết những người này. Tôi đã hỏi họ có biết gì về cái chết của ông Armand không, và họ bảo không. Họ không nói dối tôi.”
Mitch lắc đầu trước sự ngây thơ của cô. “Dĩ nhiên là họ phải làm thế rồi. Nguyên tắc đầu tiên trong cuộc sống là ‘mọi người đều nói dối.’ Hãy nhớ kĩ điều đó và cô sẽ trưởng thành hơn.”
Cô chớp mắt nhìn anh, rèm mi dày làm cho hành động đó đẹp mắt hơn nhiều so với người bình thường. “Đó là thái độ hoài nghi tiêu cực, anh Peatwick à.”
“Tôi là thế đấy. Và hoài nghi không có nghĩa là tôi không đúng. Lấy ví dụ, tôi cược năm mươi đô rằng hôm nay cô đã nói dối tôi.”
Ánh mắt họ chạm phải nhau, lần này cô không hề chớp mắt. “Dĩ nhiên là không rồi.” Đôi mắt kia mở to, trông có vẻ bị tổn thương. “Sao anh có thể nghĩ thế chứ?”
Mitch cười toe. “Cô khá lắm, cưng ạ. Phải nói là cực khá. Nhưng đến phút cuối cô đã thổi phù cả đi rồi. Đừng trợn mắt lên như thế. Nó làm cô lộ tẩy đấy.”
Mắt cô nheo lại. Thật kỳ lạ. Ngay cả khi nheo lại như thế, đôi mắt cô trông vẫn tuyệt. Hơi đanh đá và có ác ý, nhưng tuyệt. “Anh Peatwick,” cô hỏi. “Anh có muốn nhận việc này không?”
Anh suýt buột miệng ra nói không, cám ơn, tôi không thích họ hàng nhà cô, hơn nữa, cô nói dối tôi, và cô chẳng có ý định tử tế gì, còn cuốn nhật ký thì hơi quá mơ hồ, và dù sao đi nữa cô đang cố làm cái quái gì thế? Thế rồi anh nhận ra rằng cách duy nhất mình có thể tìm ra cô đang cố làm gì là anh phải tiếp nhận vụ này.
Đây đúng là một vụ kiểu Sam Spade.
Và anh thì cần tiền để thắng vụ cá cược.
Mitch thở dài. “Ông bác cô đã nói gì về cuốn nhật ký qua điện thoại mà làm cho cô nghĩ rằng có ai đó đã giết ông ta?”
“Ông ấy nói, ‘Đừng lo, không ai tóm được bác nếu không có cuốn nhật ký.’”
Mitch cảm giác được sự chán nản bao trùm lên người mình. Lần đầu tiên trong suốt buổi chiều, cô nói một câu nghe có lý. “Cô chắc là nó không biến mất trước khi ông ta qua đời chứ?”
“Tôi không nghĩ thế.” Cô nhìn anh chăm chú, mắt mở to ngây thơ, và anh biết cô gái này đang dự tính điều gì đó. “Ông ấy nói như thế qua điện thoại vào tối thứ Hai, và ông ấy qua đời ngay sau đó. Đêm nào ông ấy cũng viết nhật ký, vì thế lần cuối cùng ông ấy nhìn thấy nó là tối ngày hôm trước.”
Mitch quăng cây bút lên bàn. “Thôi được, năm trăm đô một ngày cộng với phụ phí.”
Cặp chân mày của cô cau lại. “Thật buồn cười.”
Mitch nhún vai. “Đó là giá của tôi.”
Cô quắc mắt nhìn anh một lúc, và anh mỉm cười đáp lại không chút hổ thẹn. “Thôi được.” Cô mở túi xách và lấy ra một quyển séc. Anh nhìn cô nguệch ngoạc viết số tiền và ký tên vào tờ séc, chữ viết tay là thứ không bị kìm hãm đầu tiên mà anh thấy ở cô.
Rồi cô xé tờ séc và quăng lên bàn cho anh. Ba ngàn năm trăm đô. Anh hít một hơi thật sâu và cố không tỏ vẻ bị ấn tượng. “Cái này là cho một tuần. Sẽ thế nào nếu tôi giải quyết xong vụ này trong một buổi chiều?”
“Anh có thể trả lại phần thừa cho tôi.”
Cô chẳng có vẻ gì là quá hứng thú vào khả năng đó. Cô nàng này chẳng có lòng tin vào anh. Thế cũng tốt. Làm gì có chuyện anh sẽ trả lại phần thừa nào cho cô chứ.
Anh sẽ chỉ thắng vụ cá cược.
Mitch bước vòng qua bàn và lấy chiếc áo khoác từ trên giá. “Giờ thì đi thôi, đến gặp ông bác Gio của cô.”
Cô hít một hơi thật sâu, và anh nhìn cô dò hỏi. “Anh Peatwick, tôi chỉ trả công cho anh để tìm cuốn nhật ký…”
“Và tôi sẽ làm điều đó, cô Sullivan à. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì cô muốn. Nhưng trước hết chúng ta sẽ đến gặp Gio Donatello.”
“Sao lại là bác Gio? Tôi đã nói với anh…”
“Tôi phải nói chuyện với tất cả những người này.” Mitch kiên nhẫn giải thích. “Và nếu tôi vẫn còn có thể sống sót qua một buổi chiều sau khi buộc tội giết người cho một ông trùm mafia, thì phần còn lại của vụ này sẽ chạy bon bon thôi.”
“Bác Gio không làm việc với mafia.”
“Ông anh họ Carlo của cô đã chặt ngón tay người ta. Ai quan tâm họ có dính dáng gì đến mafia không chứ? Họ là những kẻ tâm thần.”
Cô cựa mình trên ghế. “Họ chỉ nhẹ dạ thôi.”
“Nhẹ dạ.” Mitch khịt mũi. “Dễ thương nhỉ. Thôi nào, đi thôi, nhưng tôi cảnh cáo cô – cô phải bảo vệ tôi khỏi những người họ hàng đồ tể của cô, nếu không tôi sẽ tăng giá gấp đôi.”
Cô cầm lấy túi xách, vẻ khinh bỉ hiện rõ trong mắt. “Được thôi.”
Anh nhìn cô đứng dậy, đôi bắp chân nâng đỡ sức nặng của cả cơ thể cong lại một cách uyển chuyển khi bước đi và rồi anh ngắm cô xoay người về phía cửa.
Giá như cô chỉ cần ngậm miệng lại…
Cô quay lại nhìn anh, vẻ thiếu kiên nhẫn làm nét mặt cô trở nên lạnh lùng. “Tôi không rỗi cả ngày đâu, anh Peatwick, và anh đã làm tôi mất thời gian vì chuyến đi này rồi. Anh có đi không thì bảo?”
Mọi tưởng tượng của anh bay biến hết, và thực tế quay trở lại, vẫn chó má. Mitch thở dài và đi theo cô ra khỏi văn phòng.