• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bảy bức thư bị đánh mất
  3. Trang 9

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 23
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 23
  • Sau

6Hồi ức buộc tôi phải viết xuân

Có được manh mối quan trọng về Triệu Phùng Đông, chúng ta có thể tạm thở phào nhẹ nhõm. Ngoảnh đầu nhìn lại, chúng ta tiếp tục nghiên cứu về bức thư thứ tư mà Ba Kim tiên sinh gửi Đại Lợi. Bức thư này cũng được dùng loại giấy của Nhà xuất bản Văn hóa và đời sống như bức thư đầu tiên, trên đó có in những chữ đỏ kiểu Tống, là loại giấy thư tín ô dọc có đường kẻ màu đỏ. Nhưng nếu tỉ mỉ đối chiếu với bức thư thứ nhất thì sẽ phát hiện ra một số điểm khác biệt. Ở bức thư thứ nhất, mép trên cũng in dòng chữ đỏ “Nhà xuất bản Văn hóa và đời sống”, song không có chữ “Giấy thư tín”, cũng không có ô và đường kẻ. Quan trọng hơn, địa chỉ và số điện thoại được in trên hai bức thư và phong thư lại hoàn toàn khác nhau. Bức thư thứ nhất in địa chỉ là: Số 20 hẻm Đức An, đường Côn Minh, Thượng Hải, điện thoại: 51560. Còn ở bức thư này, địa chỉ được thay đổi thành: Số 436 đường Phúc Châu, Thượng Hải, điện thoại: 95913. Địa chỉ trên phong thư cũng thay đổi theo. Điều này chứng tỏ Nhà xuất bản Văn hóa và đời sống mà Ba Kim tiên sinh chủ trì vào thời gian ấy đã chuyển tới nơi khác, số điện thoại do đó cũng thay đổi. Bức thư thứ nhất được viết vào tháng 4, bức thư thứ tư được viết vào tháng 10, hai bức thư cách nhau gần nửa năm, đều vào năm 1936. Nguyên nhân di dời của Nhà xuất bản này cũng đáng để cho chuyên gia suy xét.

Bức thư thứ tư vẫn được viết bằng bút máy, kiểu hàng dọc, dài gần ba trang. Nội dung như sau:

Đại Lợi:

Nhận được thư bạn đã ba, bốn tuần rồi. Đến ngày hôm nay tôi mới hồi âm thư của bạn, mong bạn lượng thứ.

Hai hôm trước tôi lại gửi đi một gói sách, bây giờ chắc bạn đã nhận được rồi nhỉ.

Dạo này việc học ở trường của bạn có bận không? Tôi nghĩ bạn không có nhiều thời gian để đọc sách ngoại khóa. Rudin là cuốn sách hay, song bản dịch không được tốt, chỗ chúng tôi có bản dịch mới, sau khi xuất bản tôi sẽ gửi cho bạn một cuốn. Cuốn Đêm trước mà tôi dịch không phải là sách do nhà văn Nga Ivan Turgenev viết, đó là một kịch bản, đã ngừng xuất bản, tôi sẽ sớm xuất bản nó trong Bộ sách văn hóa và đời sống, nhưng đổi tên thành Đêm chưa sáng, do Nhà xuất bản Văn hóa và đời sống đã có một tựa sách là Đêm trước rồi. Tới lúc đó tôi sẽ gửi cho bạn. Émile Zola là tiểu thuyết gia người Pháp theo trường phái chủ nghĩa tự nhiên. Tôi đã đọc hầu hết sách của ông ấy, nhưng đa phần tôi đều không thích, hơn nữa còn không dám đọc lại lần thứ hai. Ông ấy đã viết quá tàn khốc, quá lạnh lùng, không những vậy, thuyết số phận tuyệt vọng của ông ấy cũng thật đáng sợ (Tác phẩm Ba thành phố và Bốn chân lý được ông ấy viết vào những năm cuối đời lại khác hẳn). Như cuốn Nana, tôi đọc lần thứ hai thì không sao chịu nổi (Bản dịch khác còn tệ hơn).

Bạn từng đọc cuốn Hồi ức của tôi, song bạn lại hiểu lầm ý tôi rồi, cho rằng “Giác Tuệ” chính là con người tôi. Đây là một sự nhầm lẫn. Tôi muốn nói với bạn rằng, Gia đình trong truyện cũng gần giống như gia đình tôi vậy. Tôi quả đúng đã lớn lên trong môi trường đó. Một số nhân vật trong Gia đình và Xuân là những nhân vật có thật, song những câu chuyện trong Gia đình và Xuân đều không hẳn là □□ thật. Tôi có thể nhìn thấy bóng dáng của huynh đệ tỷ muội mình qua mỗi một nhân vật, hơn nữa tôi cũng muốn lưu giữ chút hồi ức quý giá của quá khứ, để những nhân vật mà tôi yêu mến được thấp thoáng sống trong tiểu thuyết của mình. Bởi vậy tôi mới nói hồi ức đã buộc tôi phải viết Xuân.

Bạn không cần phải lo lắng về kết cục của Thục Anh. Cô ấy là nhân vật chính của Xuân, cô ấy sẽ được giải cứu. Kết thúc của Xuân đương nhiên sẽ vào một mùa xuân tươi sáng, khi ấy hạnh phúc của Thục Anh mới chỉ bắt đầu!

Chúc tốt lành.

Kim, ngày mùng một tháng Mười

Trong bức thư này, Ba Kim tiên sinh đã giãi bày không ít cảm tưởng về chuyện đọc sách và sáng tác, lời lẽ thân thiết mà uyển chuyển. Đầu tiên, ông nhắc tới cuốn Rudin, gần đây, tôi đã nghe một vị trung niên thành đạt nói rằng, bây giờ anh ấy không còn tìm lại được hứng thú khi đọc Rudin như thủa ban đầu. Ba Kim ca ngợi tác phẩm này “là một cuốn sách hay”, còn muốn gửi cho Đại Lợi một bản dịch tốt hơn. Trong thư, Ba Kim nhắc tới việc ông đã dịch lại kịch bản Đêm chưa sáng, có tên cũ trùng với cuốn Đêm trước do Turgenev viết. Tác giả của Đêm chưa sáng là một nhà văn Ba Lan theo chủ nghĩa tự do. Về điều này, Trần Đan Thần tiên sinh từng viết: “Ba Kim tiên sinh sau khi đọc xong cuốn Đêm chưa sáng thì đã coi nó như bảo bối để giới thiệu tới các bạn học chuyên gia nước ngoài. Họ đã sao chép chúng từng dòng từng chữ và diễn tập vài lần. Họ khát khao được trở thành những người như Vasily hay Anna.” Bạn thấy đấy, bây giờ Ba Kim lại giới thiệu tác phẩm này tới vùng Sơn Tây xa xôi.

Trong cuốn Xuân của Ba Kim cũng có cảnh những người thanh niên diễn tập vở kịch Đêm chưa sáng.

Trong thư cũng nhắc tới Bộ sách văn hóa và đời sống, đây là ấn phẩm quan trọng của Nhà xuất bản Văn hóa và đời sống, cũng là một sự kiện lớn trong lịch sử xuất bản hiện đại Trung Quốc. Nghiên cứu của Lý Tồn Quang và một số người khác đã nêu ra, từ tháng 6.1935 đến tháng 8.1949, bộ sách này đã được phát hành trên 50 cuốn, trong đó có 24 cuốn được xuất bản trước khi cuộc chiến tranh kháng Nhật nổ ra. Ngoài 3 cuốn là tác phẩm sáng tác của Trung Quốc, số còn lại đều là danh tác trên thế giới với nhiều thể loại khác nhau, thậm chí có thể sánh ngang với Bộ sách văn học do Ba Kim chủ biên. Ba Kim tiên sinh từng có bài viết đặc biệt trên tờ Kiểm báo để quảng bá cho Bộ sách văn hóa và đời sống, thời gian vào ngày 20.9.1935. Cả một lý tưởng cao cả của Ba Kim tiên sinh đều được gửi gắm qua bộ sách này, cho tới hôm nay nó vẫn đủ sức lay động độc giả. Ba Kim viết: “Chúng tôi xuất bản bộ sách này là muốn xây dựng một kho tàng văn học quy mô lớn và mang tính quần chúng với những nỗ lực lâu dài. Mong muốn đem học vấn từ tầng lớp đặc quyền tới đông đảo người dân, để cho mọi người đều có thể tận hưởng lợi ích của nó với cái giá thấp nhất.” Ông còn nói: “Tinh thần vì tri thức mà khốn khổ đấu tranh với nghịch cảnh của lớp thanh niên có thể khiến những người có lương tâm phải rơi lệ cảm kích, chúng tôi theo đuổi công việc của mình bằng tấm lòng như vậy đó. Tuy năng lực của chúng tôi còn hết sức yếu kém, song tham vọng của chúng tôi lại không hề nhỏ bé”.

Nhìn lại giới xuất bản ngày nay, tác giả, biên tập đặt lợi ích cá nhân lên trên hết, việc xuất bản những cuốn sách có giá trị cực kỳ khó khăn, còn sách báo dung tục lại tràn ngập thị trường. Ngẫu nhiên bắt gặp sách hay thì giá của nó lại quá đắt đỏ, những độc giả phổ thông chỉ đành ôm tiếc nuối mà bỏ đi.

Trong bức thư này, Ba Kim tiên sinh lại một lần nữa làm rõ mối quan hệ tương hỗ giữa các nhân vật trong tác phẩm của mình. Thử ngẫm, thế hệ nhà văn chúng ta ngày nay có còn sự kiên nhẫn và gần gũi dành cho độc giả như vậy không? Chúng ta rất phiền não, chúng ta rất nóng nảy, ai cũng coi mình là vĩ nhân. Kỳ thực, kiểu “vĩ nhân” này chỉ là “ngụy nhân” mà thôi.

Điều thú vị là Ba Kim tiên sinh, trong bức thư viết vào tháng 10.1936, đã hé lộ kết cục của Xuân. Trên thực tế phải tới tháng 3.1938, cuốn sách này mới hoàn thành bản thảo, chứng tỏ tác giả đã có cấu tứ hoàn chỉnh cho câu chuyện từ lâu. Trong thư, Ba Kim đã an ủi Đại Lợi rằng: “Bạn không cần phải lo lắng về kết cục của Thục Anh. Cô ấy là nhân vật chính của Xuân, cô ấy sẽ được giải cứu. Kết thúc của Xuân đương nhiên sẽ vào một mùa xuân tươi sáng, khi ấy hạnh phúc của Thục Anh mới chỉ bắt đầu!” Sau khi xuất bản, kết thúc của Xuân quả nhiên là: Thục Anh cuối cùng đã chạy trốn tới Thượng Hải, rồi viết một lá thư cho người chị họ tên Cầm, họ tràn đầy niềm tin và lạc quan về tương lai, họ cùng thốt lên câu: “Mùa xuân thuộc về chúng ta!” Cấu tứ ban đầu thống nhất với bản thảo cuối cùng.

Tiếp sau bức thư thứ ba, Ba Kim lại một lần nữa cùng Đại Lợi nhắc về Zola. Ở bức thư trước, ông nói: “Tiểu thuyết của Zola rất hay”. “Tôi đã đọc rất nhiều sách của ông ấy, nhưng ngoài một hai cuốn thì còn nhiều cuốn khác tôi thực sự không dám đọc”. Lần này lại nói, sách của Zola “Đa phần tôi đều không thích, hơn nữa còn không dám đọc lại lần thứ hai. Ông ấy đã viết quá tàn khốc, quá lạnh lùng”. Ba Kim cho rằng, Zola là “Một tiểu thuyết gia theo trường phái chủ nghĩa tự nhiên”, “thuyết số phận tuyệt vọng của ông ấy cũng thật đáng sợ, như cuốn Nana, tôi đọc lần thứ hai thì không sao chịu nổi…” Ở Trung Quốc, lại có học giả nhận định Zola là “Người khai sinh ra văn học phóng sự cận đại”, tôi cảm thấy thật khó để đánh giá một cách chuẩn xác về tác gia này.

Bức thư thứ tư của Ba Kim tiên sinh là như vậy đó. Viết tới đây, tôi lại nhớ tới người bạn cũ Tạ Vịnh, anh từng viết bài đề xuất “Ý tưởng xây dựng tư liệu lịch sử văn học hiện đại Trung Quốc”. Anh đã nâng tầm công việc thu thập, chỉnh lý và giám định tư liệu lịch sử lên một vị trí rất cao và nhấn mạnh: “Tầm quan trọng của tư liệu lịch sử chưa được định hình trong nghiên cứu học thuật.” Tạ Vịnh hy vọng: “Xây dựng ý thức về nguồn gốc tư liệu lịch sử văn học hiện đại. Có được ý thức này thì tầm nhìn tìm kiếm tư liệu lịch sử sẽ khác với người thông thường. Nghiên cứu học thuật, theo nghĩa căn bản nhất, thì cũng là một kiểu trò chơi trí tuệ, mà trò chơi trí tuệ thì phải có sự thú vị. Điều gì mới tạo nên sự thú vị? Phát hiện bất ngờ mới mang tới sự thú vị, việc phát hiện ra tư liệu lịch sử hữu ích mà người khác không ngờ tới cũng mang lại niềm vui như phát hiện khoa học vậy.” Tạ Vịnh cũng thích dạo những hiệu sách cũ, theo anh thì việc phát hiện tư liệu lịch sử trực tiếp bằng hiện vật sẽ dễ truyền cảm hứng hơn so với tư liệu lịch sử gián tiếp, cái trước giúp thúc đẩy nghiên cứu và sáng tạo, còn cái sau chỉ là khái niệm chung chung; cái trước sống động và thú vị, còn cái sau lại cũ kỹ và cứng nhắc. Khi đem chuyện phát hiện được bảy bức thư cũ của Ba Kim kể cho lão Tạ, anh ấy bèn ngay tức khắc giảng giải cho tôi một tràng dài, khiến tôi ngộ ra được “sự thú vị của những phát hiện bất ngờ”. Suy rộng ra, Lương Khởi Siêu tiên sinh cũng là một người trung thành với “Thuyết thú vị” này…

Quay lại chủ đề ở phần trước, hiện giờ tôi đã phát hiện ra “Hội biện” của xưởng công binh quân đội Sơn Tây – Triệu Phùng Đông. Vị kỹ sư cấp cao này sẽ mang tới cho chúng ta những điều thú vị gì? Ông ấy rốt cục có phải là cha đẻ của thiếu nữ Triệu Đại Lợi hay không?