• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Bầy ong biến mất
  3. Trang 16

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 57
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 57
  • Sau

11

Nước mưa lạnh băng táp vào mặt Morrow. Bậc thang trên cùng hiện ra và màn mưa nhẹ đang vờn xung quanh cô, phủ xuống cô, gió giật viền áo khoác của cô như một đứa trẻ, khiến cô mỉm cười trong lúc lắng nghe Bannerman gào thét qua điện thoại:

“Tắt cái đó ngay! Tắt ngay và nghe tôi nói đây!”.

Điện thoại đang cách tai cô cả tấc nhưng cô vẫn nghe được giọng phụ nữ ở phía bên kia, nói năng chậm rãi như bị phê thuốc:

“Đi theo con đường trước mặt”.

Bannerman hét lên:

“Tắt cái quỷ ấy đi!”.

Chửi thề thì không giống tính cách ông ta chút nào. Hẳn ông ta muốn tới đây lắm. Chính là sức hấp dẫn của đồng tiền, số lượng chưa đếm xuể, nguồn gốc khó mà tưởng tượng nổi, cả một biển cơ hội màu hồng.

“Rẽ phải, ngay bây giờ.”

Mặc dù vậy, người ta đã huấn luyện cho những tay lái xe bọc thép cách bàng quan, huấn luyện họ không phản ứng trước tiếng gào thét hay lời đe dọa, chỉ việc phớt lờ, bình tĩnh và tiến đến cái đích đã vạch ra từ trước. Vài cảnh sát lại còn học thuộc bài hơn những người khác nữa chứ. Cô có thể nghe tiếng người lái xe trả lời những câu ngắn gọn: không, vâng, ở đây, không phải ở đây; Trong lúc giọng nữ của hệ thống GPS tiếp tục nhẹ nhàng đọc chỉ dẫn và hai chiếc cần gạt nước rít lên trên khung kính.

“Morrow? Morrow!”, Bannerman đang hét gọi cô.

Cô nghĩ đến chuyện tắt máy và sau đó sẽ bảo là do mất sóng, nhưng đằng nào ông ta cũng sẽ gọi lại trong lúc hét lên những chỉ dẫn mà người tài xế không chịu làm theo.

“Vẫn nghe đây, sếp.”

“Rồi, chúng tôi đang đến. Chậm nhưng sẽ đến.”

Đứng từ trên đỉnh cầu thang, Morrow nghĩ về Sarah Erroll. Trẻ tuổi hơn cô và sống một mình trong căn nhà này. Từ nhỏ đến lớn sống ở cùng một chỗ thì thật lạ lùng. Chắc hẳn đối với cô ấy, căn nhà này đã quá quen thuộc đến mức cô ấy không nhìn bằng mắt thường nữa. Từng viên đá, cỏ cây, bậc cầu thang và các bức tường đều bị thay thế bởi những ký ức dần chất chồng trong đời mình; Những tai nạn nho nhỏ, những bức ảnh bán thân mờ mờ, những hình ảnh được giữ lại trong hồ sơ pháp y mà chẳng vì lý do cụ thể nào cả. Morrow hy vọng đó là những ký ức hạnh phúc, một đám mây ấn tượng, cho đến ký ức cuối cùng. Cô nhìn thấy một chiếc giày đen gõ cồm cộp. Đó là tất cả những gì họ thu được từ chỗ các dấu giày, da lộn màu đen. Xem đó là loại giày thể thao, nhiều rãnh sâu nhưng không có gót. Hai đôi khác nhau nhưng gần như cùng một cỡ.

“Đi lên và rẽ ở đây!”

Cô giơ điện thoại ra xa mặt mình hơn nữa.

Mới có bốn giờ rưỡi chiều mà trời đã tối rồi. Ở tít trên này chẳng có ngọn đèn đường nào nhưng tất cả đèn đuốc trong nhà đều đã bật lên, cộng thêm đèn pha rực sáng từ phòng thí nghiệm. Thế mà cách khoảng hai mươi feet phía bên kia bậc thang cuối, bóng tối vẫn dày đặc không chen vào nổi.

Điện thoại của cô có tiếng bíp, một cuộc gọi khác, chưa biết là ai. Cô nói với Bannerman:

“Tôi có một cuộc gọi khác”.

Rồi chuyển sang nghe nó: “Xin chào?”.

Giọng nói mềm mỏng và nữ tính:

“Xin chào? Xin hỏi có phải là Alexandra Morrow không ạ?”.

Không phải là người ở cơ quan, nhưng làm gì có ai khác biết số này.

“Vâng?”

“Chào cô, ừm, tên tôi là Val MacLea. Tôi là nhà tâm lý học tòa án. Anh Daniel McGrath đã cho tôi số của cô?”

Morrow gục cằm và hạ giọng:

“Danny cho cô số này à? Cô băn khoăn làm sao mà anh ta có thể tìm được số điện thoại dùng cho công việc của cô. Nó chẳng được đăng ở bất kỳ chỗ nào. Thậm chí Brian còn không có số này”.

“Vâng.” Người phụ nữ do dự, cảm nhận được mọi điều cô chưa nói ra. “Xin lỗi, bây giờ cô không có mặt ở đồn cảnh sát đường London à?”

Anh ta không có số, cuộc gọi đã được chuyển cho cô từ chỗ làm.

“Xin lỗi, không, tôi... Cô đang gọi vào số di động dùng để làm việc của tôi, cuộc gọi đã được chuyển tiếp tới.”

“Được rồi”, người phụ nữ kiên nhẫn nói, “có lúc nào thuận tiện hơn để gọi cho cô không?”.

Morrow nhìn xuống đường, không thấy dấu hiệu đèn pha nào trên đại lộ.

“Không hẳn.”

“À, tôi hy vọng cuộc gọi này không làm phiền cô, việc liên quan đến John McGath, thằng bé là cháu cô phải không?”

Cô ta chờ câu trả lời và Morrow vẫn dõi mắt theo đại lộ:

“Ừm”.

“Tôi đang tiến hành đánh giá rủi ro nhân danh tòa án và không biết tôi có thể nói chuyện với cô một chút về tiểu sử của thằng bé không?”

“Đánh giá rủi ro à?”

“Đó là một cách để nhìn lại quá khứ của John, một cách để quyết định liệu có bao nhiêu khả năng tái phạm trong tương lai.”

“Nó sẽ lại làm thế.”

Cô ta ngập ngừng trước câu nói đó:

“À, có lúc nào thuận tiện để tôi nói chuyện trực tiếp với cô được không?”.

Giọng cô ta có vẻ dễ chịu và biết điều. Morrow thích nói chuyện với người nào đó về quá khứ của mình mà không cần phải kìm nén hay giải thích. Nhưng nếu cô chịu thì Danny sẽ biết và coi đó là một ân huệ.

“Tôi không muốn.”

Thừa nhận tính xấu của John là một việc làm đầy trách nhiệm. Cô đã đoán được từ trước điều đang xảy ra với thằng bé khi nó bị đẩy từ chỗ kẻ điên này sang kẻ điên khác, đã biết nó lớn lên trong tình cảnh hỗn loạn như thế nào nhưng lại không làm gì cả. Một lần, hồi cô còn đang học đại học và nó chỉ là một đứa bé, cô đã gặp nó.

Lúc ấy là mùa hè và nó đang ngồi trên xe đẩy, bị cài đai, đặt ở ngoài một quán rượu một mình. Trông thằng bé rất nghèo khổ. Những ngón chân đi xăng đan của nó bẩn thỉu. Nó không biết cô nhưng đáng lẽ cô đã có thể mang nó đi, ai cũng có thể mang nó đi lúc ấy. Morrow đứng ở góc đường nhìn nó hai mươi lăm phút trong chiếc xe đẩy. Khi đứng ở đó, cô đã nghĩ đến chuyện đánh cắp John, mang nó về nhà, tắm rửa và cho nó ăn. Nhưng cô còn quá trẻ lại không có tiền, chẳng biết đưa nó đi đâu. Mẹ nó chạy ào ra khỏi quán rượu, giật phăng cái phanh ra, không buồn nhìn hay nói chuyện với thằng bé con đang ngẩng lên mỉm cười với chị ta. Morrow nhìn chị ta bỏ đi và cảm nhận lại niềm tin thuở bé, rằng cô sẽ có trách nhiệm hơn người mẹ bỏ trốn của cô.

Một đốm sáng tí hon màu vàng xuyên qua các thân cây ở cuối phố.

“Tôi phải đi đây”, cô nói.

“Tôi có thể gặp cô được không?”

“Cô biết tôi là cảnh sát rồi đấy, không ai được biết quá khứ của tôi, tôi không cần phải cộng tác trong việc đó...”

“Tôi có thể phỏng vấn cô ở nhà riêng nếu cô muốn. Hoặc là cô sẽ rất được đón chào ở văn phòng tôi.”

Những ngọn đèn đang đến gần, chậm lại chỗ ngã ba đường, chọn đi xuống và rẽ, xuyên qua đêm tối dày đặc khi chiếc xe đổ dốc.

“Không.” Cô kết thúc cả hai cuộc gọi.

Cảm thấy tội lỗi như một cô nữ sinh bị bắt quả tang hút thuốc, cô gắn một nụ cười méo mó lên mặt và nhìn chiếc xe bọc thép đỗ lại trước mặt mình.

Trông nó chẳng có gì đặc biệt, chỉ là một chiếc xe tải nhỏ màu đen với máy quay trên đầu. Bên trong nó mới khác. Cửa sau xe mở ra một cánh cửa khác, cửa an toàn với khóa tính giờ. Két được đặt trên sàn xe sao cho bọn trộm sẽ phải cắt đôi chiếc xe mới lôi được nó ra ngoài. Nó chuyên được dùng để chở những món tiền hay ma túy lớn. Ngay cả đội tài xế chuyên nghiệp cũng rất đắt đỏ.

Chiếc xe tải khựng lại khi bị phanh gấp. Bannerman mở cửa hành khách và trèo ra ngoài, đóng sầm nó lại sau lưng một cách tức giận. Ông ta hùng hổ đi đến chỗ cô, cứ như cô còn chưa biết ông ta đang tức giận, dừng lại ở bậc thang cuối cùng và chửi thề với người tài xế.

“Anh ta đưa tôi đến cửa hàng bán len cashmere1 tên là Glenarvon ở làng bên cạnh.”

1 Một loại len đắt tiền làm từ lông loài dê ở Himalaya.

Morrow chẳng buồn quan tâm.

“Tôi hiểu.”

“Nó đâu?”

“Thi thể à?”

“Không, tiền.” Đúng kiểu Bannerman, ông ta sẵn sàng bước qua xác người để đi thẳng tới chỗ những vật nổi danh. Cho dù số tiền này chẳng liên quan gì đến ma túy thì ông ta cũng chiếm được một chỗ trên trang nhất tờ bản tin của cảnh sát Strathclyde. Các sếp đều đọc bản tin, thực ra chỉ có các ông ấy đọc. Họ cảm thấy việc làm đó đưa họ gần gũi với nhân viên hơn và Bannerman thích người ta nhìn thấy mình trong đó.

Họ nghe tiếng cửa mở khi tài xế cẩn trọng bước ra khỏi xe. Tấm kính che mặt của cậu ta đã được kéo xuống, tay đã đeo găng và cậu ta nhìn khắp lượt tìm kiếm những kẻ cướp. Morrow đoán tay này vừa mới tốt nghiệp lớp huấn luyện. Hết sức nghiêm túc. Cô cảm thấy tội nghiệp cho cậu ta. Cậu ta nhìn sang chỗ họ đang đứng ở cầu thang và ngập ngừng, không muốn đi sang trong lúc Bannerman vẫn còn ở đây.

Morrow sốt ruột vẫy cậu ta lại. Cô chỉ có thể ra khỏi văn phòng sau khi đã bàn giao đống tiền. Bannerman lườm nguýt, ra vẻ thách cậu ta dám sang.

Họ đang lãng phí thời gian giương oai diễu võ với nhau và cô vẫn còn ông luật sư của Sarah đang chờ được thẩm vấn ở đồn, cần phải làm nốt vài cái báo cáo lặt vặt mới được về nhà. Trong lúc giận dữ, cô đã nghĩ đến chuyện đưa cả hai qua chỗ Sarah Erroll mà không báo trước gì hết, nhưng đã kịp ngăn mình lại:

“Cả hai người nên đi vào từ cửa sau, giờ họ đang chuyển xác cô ấy, không đẹp đẽ gì đâu. Có một cánh cửa bếp ở đằng này và bọn chúng đã đột nhập qua cửa sổ.”

“Cái gì, đi vòng ra sau bởi vì cái xác ở trên này á?” Bannerman bước lên cầu thang. “Tôi chẳng làm sao cả, tôi biết là vụ này tệ rồi...”

“Không, sếp sẽ làm loạn hiện trường. Tiền ở trong bếp cơ.” Cô nhìn qua đầu ông ta, “tài xế này, tên cậu là gì?”.

Cậu ta trả lời cô nhưng giọng nói sau cái kính che mặt bị cản lại nên Morrow chẳng nghe thấy. Cô tự chúc mừng mình vì cung cách lịch sự với kẻ dưới.

“Được rồi”, cô nói, “cậu đi vòng ra sau và nhìn chỗ tiền nhé. Tôi muốn cậu mang nó đi đúng như hiện trường, tức là trên tấm ván ấy”.

“Đằng này à?”. Phía sau nhà rất tối và cậu ta có vẻ miễn cưỡng.

“Ừ, đi vòng ra đằng sau nhà ấy. Đèn bật hết rồi, cậu sẽ thấy cửa mở.

Cậu ta đi bộ qua bãi cỏ cao ngút ướt át, biến mất đằng sau một cái cây.

Bannerman nhìn lên cô:

“Cô thế nào? Ổn cả chứ?”, ông ta hỏi thăm, nghe có vẻ thân thiết.

Morrow giả vờ khó hiểu.

“Ổn chứ.”

“Không quá sức đấy chứ?”. Ông ta gật đầu với ngôi nhà.

“Không, không, tôi không sao. Mặc dù tôi cảm thấy nếu ngày mai mình được ngủ nướng một tí thì tuyệt.”

Bannerman cười mà chẳng có chút gì vui vẻ.

“À, tôi nghĩ tôi thích lúc cô bụng mang dạ chửa hơn. Đám hoóc môn làm cô thoải mái hơn.”

Lúc đó ông ta chạm vào cô, vỗ vào bả vai cô trong lúc đi lên - một việc trước đây ông ta không bao giờ dám làm.

Cô đã thay đổi, cô biết thế, nhưng việc đó chẳng liên quan gì đến hóa học. Bản thân việc mang song thai cũng đã là một sự đổi thay trong đời rồi, và ông ta biết rằng Gerald đã chết. Có vẻ như ông ta nghĩ bây giờ cô muốn nói về cảm xúc của mình, muốn được đụng chạm và được ưu ái. Để tránh không nói ra điều gì ngu ngốc, cô quay mặt về phía cửa ra vào.

“Mấy cậu ấy chẳng quan tâm gì đến vụ này cả”, cô khẽ nói.

“Sao lại thế?”

Cô thở dài với ngôi nhà:

“Ngôi nhà lớn, không có họ hàng thân thuộc khóc lóc bên cô ấy, hàng đống tiền rõ ràng là khuất tất ở trong bếp. Mặt cô ấy thì bị phá hủy”.

“Họ sẽ hồi tâm thôi, chúng ta sẽ tìm vài bức ảnh của cô ta hồi bé.”

“Sếp à, bọn họ đã bắt đầu nói đùa về cô ấy rồi.”

“Tôi có nghe.” Ông ta khẽ nhếch mép. “Cặp chân...”

Morow không biết phải nói sao với ông ta nhưng đám cảnh sát thấy bị xúc phạm vì bộ phận sinh dục của cô gái cứ bày ra trơ trơ. Họ là những người cổ hủ, biết cảm thông cho phụ nữ khi cô ta biết khép đầu gối lại với nhau và mặc quần lót tử tế. Chỉ một chút dấu hiệu nhỏ cho thấy người phụ nữ này bừa bãi là đã vô hiệu hóa lòng cảm thông của họ. Morrow cố không nghĩ về điều đó quá nhiều nhưng luôn cài khuy áo lên đến tận cổ.

“Khủng hoảng trách nhiệm ấy mà”, ông ta nói lớn. “Rất nhiều người chỉ muốn được trả lương là xong.”

Cô khẽ hừm. Chẳng phải Bannerman đang đưa ra nhận xét gì cả, ông ta chỉ nhắc lại một câu nói phẫn nộ mình từng thốt ra với ông bạn đánh golf nào đó mà thôi. Các cảnh sát có toàn quyền đòi hỏi phần lương của mình, nhưng vấn đề ở đây còn sâu sắc hơn thế, việc thiếu trách nhiệm của họ đã trở nên cực đoan, một loại huy chương danh dự, một thứ mà họ ba hoa với nhau. Tâm lý này càng ăn sâu thì họ càng khó vứt bỏ và các sếp lại càng thất vọng, càng cố khắc phục vấn đề lòng tin và niềm tự hào bằng cách khơi mào những lời đồn thổi về một cơ chế lương thưởng mới.

Người tài xế tái xuất hiện bên hông nhà. Cậu ta bỏ mũ để lộ một khuôn mặt xương xẩu trẻ măng khi bỏ mũ xuống:

“Sếp, chúng ta sẽ cần thêm vài xe nữa. Nhiều tiền quá”.

Morrow đã nhìn thấy chiếc xe tải cậu ta lái tới. Nó có thừa chỗ cho số tiền dưới gầm bàn.

“Không cần đâu, cậu chở hết được mà.”

“Không.” Cậu ta giơ một tay lên và nhắm mắt lại một cách thuyết phục. “Theo quy chế, chúng tôi không được phép chở quá bảy mươi lăm ngàn mỗi lần. Theo tính toán của tôi thì chúng ta sẽ cần đến chín chiếc xe.”

Bannerman nhìn lại Morrow và họ cùng nhếch mép.

“Nhưng mà”, cậu ta buồn bã nói tiếp, “chúng tôi không có sẵn đến bảy chiếc xe. Vậy nên chúng ta sẽ phải đưa tiền lên xe, mang đi, trở lại và mang đi”. Cậu ta nhìn thấy họ cười và hiểu lầm. “Vâng, nhiều tiền thật đấy. Tiền ma túy phải không ạ?”

Morrow cau mày để ngăn mình không cười khúc khích và dựa vào căn nhà, hét to gọi cảnh sát Wilder tới.

“Tôi sẽ để ông giải quyết vụ này”, cô nói với Bannerman, “đảm bảo là giữ nguyên hiện trường...”.

“... cho đến khi chụp ảnh xong, tôi biết rồi, Morrow”, Bannerman cười toe.

Wilder ra khỏi cửa trước, cảm thấy tội lỗi khi nhìn thấy Bannerman và Morrow đang cùng cười với nhau trên bậc thang.

“Wilder”, cô nói khi anh ta gật đầu chào Bannerman, “đưa tôi lên trên đường”.

Morrow và Bannerman trao lời tạm biệt trong lúc Wilder trượt chân trên bậc thang tới chỗ ô tô. Morrow đi theo anh ta, vào xe và họ cùng kéo dây an toàn, lái qua chỗ cửa trước vừa kịp để thấy Bannerman và cậu tài xế bước lên bậc thang vào nhà.

“Chúc may mắn”, Wilder lẩm bẩm.

Morrow cảm kích khi anh ta nói thế và thấy mến anh ta hơn. Cô chưa bao giờ thích anh ta. Anh ta hơi mộc mạc, kể cả với tiêu chuẩn của một cảnh sát. Mái tóc anh ta cùng màu với nước da và chưa bao giờ anh ta nói được điều gì thú vị. Cô nghi anh ta là kẻ chủ mưu trong đám lừa cứng đầu ở ca trực của mình, anh ta và Harris, mặc dù cô chẳng có lý do gì để nghĩ như vậy, ngoài chuyện ngay từ đầu cô đã không thích anh ta cho lắm.

Anh ta cẩn thận lái xe qua chỗ chiếc xe chở xác và đi xuống tận cùng của đường dẫn xe rải đá giăm.

Dọc đại lộ, hai ánh đèn pha rọi vào các thân cây lớn và chiếu xuyên qua bụi cây. Những ngôi nhà ở đây được xây lùi vào so với đường, mỗi nhà đều trồng đèn dọc đường dẫn xe giống như đường băng. Họ đến gần cuối đại lộ thì trông thấy một phụ nữ mặc áo mưa đang đi bộ ở ven đường, đầu cúi gằm, túi xách quai mảnh đeo chéo người. Thấy cô ta nhìn lên đèn pha, Wilder tặc lưỡi rồi tấp xe vào lề trước mặt cô ta. Morrow trông thấy vài phần chân tóc có màu nâu và xám trộn lẫn với nhau, hai cầu vai áo đã cong oằn vì thời tiết, còn lớp da giả trên quai túi xách của cô ta đang bong ra.

Mặt cô ta bị ánh đèn phản chiếu, trở nên trắng bệch. Cô ta liếc nhìn chiếc xe, nghiêng đầu trước hai khuôn mặt tối om và nheo mắt trước khi bước tới.

Kay nhìn vào cửa xe, định mở miệng nói nhưng lại cười toe toét, thực sự vui vẻ. Morrow nghẹn thở: Kay Murray, không hề thay đổi.

Morrow bước ra khỏi xe, đóng sầm cánh cửa lại sau lưng.

“Chúa tôi ơi”, Kay nói, “trông cậu cứ như mười hai”.

“Kay”, Morrow muốn chạm vào mặt cô ấy. “Kay.”

“Cậu làm gì ở đây?”

“Tớ là cảnh sát.”

“Không phải chứ!”

“Đúng là vậy đó.”

“Tớ ghét bọn cảnh sát chết tiệt. Sao lại xảy ra chuyện đó?”

“Sa chân.”

Họ đã lớn lên cùng nhau, cùng bám lấy các góc phố với nhau và Morrow thường tự hỏi điều gì đã xảy ra với Kay. Mặc dù vậy, Kay không phải kiểu người thích níu kéo quan hệ: Ai đó hoặc là ở trong cuộc sống của cô ấy hoặc không; Cô ấy không phải kiểu thi thoảng gặp nhau cà phê hàn huyên. Cô ấy là người để ta cùng đi nghe nhạc, cùng theo đuổi đám bạn trai và cùng làm nhiều thứ.

Họ cười toe toét với nhau cho đến khi Wilder rồ ga mà chẳng có lý do gì. Kay nheo mắt với anh ta.

“Ồ, gã kia. Hắn là đồ khốn.”

Morrow nhìn qua kính gió thấy khuôn mặt nhàm chán của Wilder.

“Lúc nãy hắn nói chuyện với tớ cứ như kiểu tớ là bà ô sin chết tiệt hay tương tự vậy.”

“Cậu gặp anh ta ở đâu?”

“Cuối đường, một trong những ngôi nhà tớ đến lau dọn. Tớ từng làm việc ở trên kia.” Cô ấy chỉ về ngôi nhà Glenarvon trên đồi. “Tớ đã nói tớ sẽ lên đó để xem có mất gì không.”

“Được không?”, Morrow nói, ý thức rõ lúc này họ đang chuyển cái xác đi. “Hay cậu chờ đến mai? Tớ sẽ có mặt ở đó lúc 10 giờ hơn.”

“Và tớ sẽ được gặp lại cậu”, Kay gật đầu, gần như nấc lên vì vui mừng. Cô ấy nhìn vào bụng Morrow. “Khi nào cậu sinh?”

“Năm tháng nữa.”

“Trông bụng cậu to quá đi mất.”

“Song thai.”

“Ác mộng”, Kay khẽ nói.

“Cậu có con chưa?”

“Bốn đứa.” Kay mỉm cười âm yếu. “Bốn đứa trẻ vị thành niên không cha. Làm cuộc sống của tớ thành địa ngục.”

Kiểu hành xử xưa như trái đất, nói xấu con mình trong khi lại tràn đầy vẻ tự hào, cứ như khen con là hành động tự tâng bốc mình vậy.

“Gần đây tớ đã nghĩ đến cậu. Có nghe chuyện về John của cậu. Đúng là thằng bé điên rồ.”

“Nó có phải của tớ đâu...”

Kay chen ngang:

“Có đấy”.

“Không, không, chẳng liên quan gì đến tớ cả.”

“Có, đồ ngốc. Thằng bé là của cậu. Ai đã là của mình thì sẽ là của mình.” Kay nhìn lên đường về phía ngôi nhà sáng trưng một cách sợ sệt. “Có... có chuyện gì ở đấy thế?”

Đáng lẽ Morrow không được nói gì nhưng cô biết Kay và tin tưởng cô ấy.

“Bị đánh”, cô nói, chỉ vào mặt mình.

“Sarah à?”

“Ừ.”

Đột nhiên trán Kay nhăn lại và cô ấy cúi đầu:

“Lạy Chúa”.

“Cậu biết cô ấy không?”

“Có.”

“Cô ấy là người thế nào?”

Kay vẫn cúi gằm mặt:

“Khá tốt. Lặng lẽ”. Cô ấy mỉm cười một chút. ”Bà mẹ thì điên hết chỗ nói.”

Morrow trông thấy một giọt nước lớn chảy trên mặt Kay. Cô tưởng đó là nước mưa cho đến khi thấy một giọt khác. Đột nhiên, cô nhận ra rằng Kay quen với đống bầy hầy ở trong sảnh hồi Sarah còn là một sinh vật sống động, biết di chuyển, và có khi họ còn là bạn bè.

Cô đưa tay ra, chạm vào vai Kay giống như đang cố thu lại câu nói xúc phạm.

“Tớ rất tiếc.”

Kay bước lùi lại.

“Không”. Cô ấy xấu hổ quá nên không dám nhìn lên. “Không, không phải...”

“Tớ đã không nhận ra hai người là bạn.

Kay lùi lại một cách tội lỗi.

“Bọn tớ không phải bạn bè. Tớ chỉ... mau nước mắt. Một cô gái trẻ đã chết. Thật đáng buồn.”

Kay quay người và lao sầm sập về phía hàng cây. Morrow nhìn cô ấy bỏ đi.

“Mai gặp lại cậu nhé?”

“Ừ”, Kay nói vọng lại.

Bên dưới ngọn đèn đường ấm áp, Kay vươn tay ra sau đầu và gãi cổ bằng ngón trỏ. Morrow nghẹn thở. Cử chỉ ấy sao mà thân quen như chính hành động của cô, từ một thời kỳ khác, yên ấm hơn, khi cô chung sống với những người phụ nữ giận dữ và đầy khiếm khuyết, hoang mang và nồng nhiệt. Lúc ấy Morrow chợt nhận ra: Kay nói đúng. Sarah Erroll không chỉ là một bài toán đố bầm dập. Sarah là một cô gái trẻ và cô ấy đã chết.

Thật đáng buồn.