Kay đang chất thịt băm và khoai tây vào đĩa thì chuông cửa reo khiến cô giật mình. John đang đợi bạn nó - Robbie ghé sang. Robbie có cái nhìn tội lỗi của một cậu nhỏ tự thủ dâm nhiều lần, có thể là không phải với những vật bình thường. John đã nói đi nói lại với cô tới ba lần tối hôm đó là Robbie sẽ sang làm bài tập cùng, nên cô biết là chúng không định làm việc đó. Nhưng chừng nào bọn chúng vẫn còn ở trong nhà thì cô vẫn có thể mở cửa phòng ngủ và bước vào bất ngờ. Anh trai của Robbie cũng từng bị bắt vì đánh nhau. Gia đình chẳng ra gì.
Chuông cửa lại reo và cô gọi:
“ John!”.
Thằng bé ra khỏi phòng, mặt đờ đẫn và trông thấy mẹ đang cầm một nồi thịt băm lớn trên chồng đĩa. Đột nhiên, Kay lo có thể thằng bé hút thuốc quá nhiều và tự nhủ lần sau sẽ để ý đánh hơi.
“Chuông kìa. Có thể là Robbie.”
John cầm ống nghe lên và quay mặt khỏi mẹ.
“Vâng?”
Người ở đầu dây bên kia nói dài quá, không thể là cậu nhóc Robbie chỉ biết nói từng câu một được. Chắc là nó đang thanh minh gì đấy. John ấn nút mở cửa hành lang và gác máy.
“Nó có lên không?”
“Hở?”
“Robbie có lên không?”, cô nói chậm lại và gật đầu với nồi thịt. “Nó muốn ăn gì không?”
Trông John rất mơ hồ.
“Không, cảnh sát đấy.”
“Cảnh sát à? Lại đến nữa sao?”
“Để nói chuyện với mẹ.” John nhét áo sơ mi vào quần bò ở đằng sau lưng, cứ như nó có một khẩu súng, và bỏ đi.
Một cách mau lẹ, Kay xúc một môi thịt băm lên cả năm chiếc đĩa rồi chất lên đó khoai tây lẫn đậu luộc. Cô đang xịt tương cà lên bốn cái đĩa thì có tiếng gõ ở khung kính cửa ra vào.
Bước ra ngoài hành lang, cô nhanh chóng gõ cửa phòng Maria và mở ra trước tiếng “Này!” đầy phẫn nộ.
Có hai hình thù méo mó đằng sau lớp kính đục trên cửa, và không ai trông giống Alex. Một người thấp hơn người kia, tóc chải gọn gàng, nhìn xuống hành lang, còn một người thì nhìn thẳng vào tấm kính cứ như nhìn xuyên qua được.
“Đến giờ ăn rồi”, Kay gọi, nhìn cửa trước trong lúc vẫn đi vòng quanh hành lang. “Không có tương cà đâu.”
“Con không muốn...”
“Đừng có vớ vẩn nữa, Marie.”
Cô không có thời gian gõ cửa trước khi mở phòng Joe và Frankie.
“Đến ăn đi.” Cô nghe tiếng chúng ngọ nguậy, gầm gừ khi ra khỏi giường. Cô mở cửa phòng John và hét “thịt băm!” để át tiếng máy nghe nhạc của nó.
Cảnh sát có thể thấy cô đang chạy quanh nhà. Người nhỏ hơn lại đưa tay lên gõ cửa nhưng Kay mở nó ra trước khi người đó chạm vào.
“Vâng?”, cô nói.
Một người đàn ông và một phụ nữ. Người đàn ông có cái miệng quá nhỏ so với khuôn mặt và mái tóc đen khô cứng. Cô đã biết người phụ nữ ở nhà bà Thalaine hôm nọ: Nhỏ bé, da ngăm đen, mũi khoằm to. Nhưng trước cửa nhà Kay giờ đây, trông cô ta khác hẳn, thân quen hơn, giống như một người cô có thể kết bạn.
Họ tự giới thiệu mình. Người đàn ông tên Harris và cô gái tên là Leonard, cô ta mỉm cười lần đầu tiên khi giơ bàn tay nhỏ bé gọn gàng ra, rồi họ hỏi liệu họ có thể vào trong nói chuyện với cô một lát về Sarah Erroll không.
Kay thở dài, tay chống cửa để ngăn họ vào trong sảnh rồi quay lại, cáu tiết hét lên với bọn trẻ: Đến ĂN đi!
Joe hét lại là thằng bé đang ra còn Marie đã ra đến cửa phòng của nó, nhìn ra ngoài, có vẻ khó chịu. Kay chỉ nó vào trong bếp.
“Bữa tối của con đang nguội ngắt trong kia kìa.”
Marie cười khểnh với mẹ:
“Con không đói”.
Joe và Frankie vụt ra khỏi phòng bọn chúng, gật đầu chào cảnh sát và John bước ra, lờ họ đi, tiếp tục cúi xuống để cái mũ lưỡi trai che mặt nó.
“Marie, tí nữa con sẽ không được ăn gì đâu đấy”, Kay nói, tức giận vô lối vì xấu hổ khi Marie thô lỗ với mẹ như vậy. “Thế nên đừng có mà nghĩ cứ bỏ bữa tối rồi lại ăn vặt suốt đêm.”
Marie đi vào phòng con bé và đóng sầm cửa lại mạnh đến nỗi nó lại mở toang ra để lộ con bé như là trợ lý của nhà ảo thuật vậy. Xấu hổ, con bé dùng cả hai tay để đóng lại cửa. Joe và Frankie nhìn thấy việc đó khi chúng từ bếp quay ra với bữa tối trên tay và cười trìu mến với con bé.
Đột nhiên, khí giận biến mất khỏi Kay, giống như vẫn thường xảy ra vào cuối một ngày. Cô quay lại đối mặt với cảnh sát...
“Cảm ơn mẹ”, Joe nói từ đằng sau cô và tâm trạng cô tốt hơn hẳn.
Cô dựa người vào cửa.
“Các vị muốn gì?”
Anh chàng Harris dùng tay ra hiệu về hướng phòng khách.
“Chúng tôi muốn vào nhà.”
Kay tặc lưỡi miễn cưỡng. Đây là khoảng thời gian của cô, chỉ độ một giờ gì đó, khi cô chỉ phải là quần áo, hút thuốc, xem ti vi và đột kích vào phòng John mỗi khi đi vệ sinh.
Nhưng họ là cảnh sát. Cô lùi lại và vẫy họ vào phòng khách. Cô để mặc họ đi một mình trong lúc vào bếp, mang đĩa của mình vào phòng khách luôn. Cô sẽ không để bữa tối của mình bị nguội trong lúc pha trà cho họ, Kay tự nhủ như vậy. Không đời nào.
Người phụ nữ ngồi trên ghế bành, quanh đó là ly bia Bru, thuốc lá và bật lửa của Kay.
“Đó là chỗ của tôi.”
Nữ cảnh sát nhìn người kia để xin lệnh. Anh ta khẽ gật đầu nói được, cô có thể di chuyển. Họ còn tệ hơn cả bọn trẻ chết tiệt. Leonard lê chân quanh chiếc cầu là tới chỗ ghế dài và Kay ngồi xuống, đặt đĩa của cô lên đầu gối.
Chiếc cầu là đang nằm ngay giữa bọn họ nên cô thò chân ra và đẩy nó về phía ti vi, cẩn thận không làm lật nó: Cái gạt tàn của cô và một chiếc áo sơ mi đang là dở được đặt ở trên đó. Ti vi vừa bắt đầu chiếu Hollyoaks.
Cô cắt đôi một củ khoai tây luộc và nhìn vào người đàn ông:
“Có chuyện gì?”.
Harris vươn người trên chiếc ghế đệm lún.
“Thế này, cô Murray, như cô đã biết Sarah Erroll bị giết ngày...”
Anh ta tiếp tục nhưng Kay chỉ muốn xem ti vi và ý nghĩ của cô bị phân tán, cô đang dự đoán về các nhân vật trong phim Hollyoaks và chuyện gì sẽ xảy ra với họ.
“Cô tắt ti vi đi được không?”. Kay nhìn Leonard, “điều khiển ở trên cầu là ấy”.
Leonard đứng dậy, tìm được chiếc điều khiển và tắt ti vi đi. Cô ta đứng đó thêm một phút.
Người đàn ông có vẻ không vui gì hết. Anh ta hít một hơi và bắt đầu lại:
“Tại sao hôm nay cô không đến Glenarvon?”.
Đáng lẽ cô phải đến. Cô đã nói mình sẽ đến nhưng lại không dám đối mặt với Alex. Cô vẫn còn giận vì cô ấy đã lên đây một mình, biết rằng cô ấy sẽ không thích chỗ này, ngôi nhà này và chuyện cô vẫn còn hút thuốc.
Cô nhét một miếng khoai vào miệng và nhún vai:
“Đáng lẽ tôi phải đến à?”.
“Đúng, đáng lẽ thế. Cô đã nói cô sẽ đến và cho chúng tôi biết nếu có gì bị mất. Cô đã nói với thanh tra Alex Morrow như thế trước mặt cảnh sát Wilder và chúng tôi đã chờ cô.”
Kay xiên một viên thịt, nhúng nó vào tương cà và bỏ vào miệng. Cô vừa nhai vừa nhìn họ. Người ta cử hai cảnh sát mặc thường phục, lương cao, cô chắc vậy. Họ tới nhà cô để quấy nhiễu vì cô đã không xuất hiện giúp họ. Cô nhướng cặp lông mày lên, thách họ khiển trách mình.
“Ngày hôm nay tôi bận quá. Các anh muốn tôi nói gì?”. Cô nhìn từ người này sang người kia. “Anh tới đây để nghe xin lỗi chắc?”
Anh ta không trả lời. Anh ta với tay xuống cặp táp và lấy ra một chiếc bút cùng một cái bìa kẹp hồ sơ trong lúc Kay vừa ăn vừa nhìn. Họ cũng đã điền vào một cái bìa kẹp hồ sơ như thế lúc ở nhà bà Thalaine. Chắc đó là mẫu tiêu chuẩn họ dùng cho tất cả mọi người.
“Cho tôi biết tên đầy đủ của cô được không?”
“Kay Angela Murray.”
“Tình trạng hôn nhân?”
Kay cụp mắt xuống đĩa.
“Chưa kết hôn.”
Anh ta điền vài dòng trong mẫu hồ sơ mà không cần hỏi, cô có thể thấy anh ta đang điền địa chỉ và đoán cô ở cỡ bốn mươi năm đến sáu mươi tuổi. Cô mới có ba mươi tám.
“Lúc nào cô cũng sống một mình à?”. Leonard mỉm cười một chút, không phải kiểu đểu giả nhưng cũng là thương hại.
“Ý cô là gì?”
“Bọn trẻ...”, cô ta có vẻ buồn.
Kay nhìn thẳng cô ta:
“Tôi không tự mình thụ thai chúng, nếu đó là điều cô đang hỏi”.
Leonard lại cười nghiêm túc:
“Chắc là vất vả lắm...”.
Kay đã quá chán phải trả lời câu đó. Cô ghét cảnh người ta cứ tự cho rằng cuộc sống của cô khó khăn và không hạnh phúc chỉ vì không có một lão chồng chiếm giữ cái điều khiển ti vi và hét vào mặt mình, nhưng cô không nói gì.
Harris hỏi số điện thoại di động của cô và ngày sinh, cô thấy anh ta thay đổi thông tin tuổi tác sau khi nghe trả lời.
“Và tất cả đều là con của cô?” Anh ta gật đầu ngược ra sau khi vào những phòng ngủ.
Kay khịt mũi, vẫn còn bực vì vụ bị mất mặt trong sảnh.
“Anh tưởng tôi để con của người khác nói chuyện với mình như thế à?”
“Không, ý tôi là không có đứa nào là con nuôi hay gì chứ?”
“Không.”
“Cô có Marie và con bé...?”
“Mười ba tuổi. Bé nhất.” Anh ta viết trong lúc cô nói. “Rồi đến John, mười bốn. Rồi Frankie và cuối cùng là Joe: Mười lăm và mười sáu tuổi.”
“Khá dày nhỉ.” Nữ cảnh sát ngu ngốc gật đầu đồng cảm.
Kay ăn thêm một tí.
“Cô có con chưa?”
Người phụ nữ lắc đầu. Cô ta mới ngoài ba mươi, Kay nghĩ, đúng tầm tuổi hay hoảng sợ.
“Cô không biết mình lỡ mất cái gì đâu”, Kay nói.
Câu ấy chỉ dùng được cho những người chưa có con thôi. Chắc chắn là người đàn ông này đã có rồi. Trông anh ta rất hoài nghi.
“Cô không sống cùng bố chúng?”
“Không.”
“Cô có liên lạc với anh ta không?”
“Không.”
Anh ta khóa ánh mắt cô, muốn cô phải thừa nhận rằng có nhiều hơn một ông bố nhưng cô sẽ không nói. Chẳng liên quan quái gì đến anh ta. Sarah Erroll chết chứ có phải cô đâu. Cô hướng sự chú ý của mình trở lại bữa tối.
“Cô Murray, chúng tôi đang điều tra vụ án mạng của cô Sarah, như cô đã biết, và tất cả những người hộ lý chúng tôi gặp đều nói cô phụ trách nhân viên ở Glenarvon.”
“Đúng không?”
“Chuyện đó là như thế nào?”
Anh ta nói cứ như cô định làm gì đó:
“Ý anh là gì?”.
“À.” Anh ta cười. “Cô có bằng cấp gì không?”
Kay liếm một vệt tương cà chua loét trên môi.
“Không. Tôi hợp với cô Sarah và cô ấy tin tưởng để tôi trông nom mẹ cô ấy trong lúc cô ấy đi làm xa. Tôi và bà Erroll: Chúng tôi hợp nhau”.
“Sarah có kể cho cô biết cô ta làm nghề gì để kiếm sống không?”
Kay nhún vai, cô thực sự không bao giờ băn khoăn về chuyện đó. Cô tưởng đó là một công việc chuyên môn gì đó mình không hiểu được nên đã không hỏi.
“Chưa bao giờ kể với tôi.”
Anh ta nhìn mặt cô xem có nói thật không. Việc này khiến cô thấy bị xúc phạm. Rồi anh ta hỏi tiếp:
“Ở trong bếp, cái bàn ở bếp nhà cô Sarah...”.
Họ nhìn nhau. Có vẻ như anh ta trông đợi cô trả lời.
“Đó có phải câu hỏi không?”
“Cô có để ý thấy gì lạ ở đó không?”
Cô cố nghĩ.
“Không thể lau sạch được nó à? Trên đấy có nhiều vết ố. Đó có phải là điều anh đang hỏi không?”
“Cô có lau sàn nhà bếp không?”
“Thi thoảng.”
“Và có lau dưới gầm bàn không?”
Cô thực sự bị rối:
“À rõ ràng là tôi không chui xuống dưới gầm bàn nhưng tôi có thò tay vào trong để lau sàn nếu cần thiết. Ở dưới đó có cửa sập hay gì à?”.
Anh ta không trả lời.
“Chiếc tủ quần áo trong sảnh lớn bị mất...”
“Sarah đã bán nó.”
Anh ta ghi lại.
“Ở Christie’s, tôi nghĩ đó là nhà đấu giá Christie’s. Cái tên đó được đề bên thành xe tải. Phải mất bốn người mới lôi được cái tủ vào thùng xe.”
“Cô ấy bán nhiều đồ đạc trong nhà phải không?”
“Anh lại nghe mấy lời đồn đại trong làng phải không? Họ tức giận vì cô ấy bán đồ đi, cứ như ngôi nhà thuộc về họ không bằng, nhưng anh có biết tốn bao nhiêu tiền mới chăm nom được mẹ già tại nhà không? Cả một gia tài chết tiệt đấy.”
“Cô ấy có bán nhiều đồ đạc trong nhà không?”
“Có. Và đằng nào cô ấy cũng dọn đi, ngay sau khi mẹ mất cô ấy sẽ chuyển đến sống ở New York. Cô ấy nói tôi có thể tới thăm cô ấy ở đó.”
Anh ta có vẻ ngạc nhiên.
“Cô thân với Sarah đến thế cơ à?”
Cô bực mình vì anh ta lại ngạc nhiên như vậy:
“Hơi thân”. Nhưng họ đâu có thân nhau. Lời mời ấy chỉ là xã giao, cứ như là cô ấy muốn Kay đến tận New York trong chiếc tạp dề của cô vậy.
“Theo cô thì Sarah là người như thế nào?”
Kay nhún vai:
“Đứa con có hiếu với mẹ cô ấy”.
“Cô ấy có tử tế không?”
Lần đầu tiên cô nghĩ chuyện đó và do dự.
“Cô ấy chăm sóc mẹ. Chi rất nhiều tiền mà mình không có để chăm sóc bà.”
Anh ta cố kích cô:
“Cô ấy có thông minh không? Có suy sụp vì mẹ không? Có cô đơn không?”.
“Tôi không biết.” Kay không có thời gian để suy đoán về chuyện của người khác. “Người ta cư xử thế nào thì tôi nghĩ người ta như vậy. Tôi thích bầu bạn với cô ấy. Cô ấy rất lặng lẽ. Chúng tôi chỉ nói chuyện về Joy, bà ăn gì, khi nào bà đi ngủ.”
“Chắc cô nhớ khoản tiền lương lắm?”
“Tất nhiên. Nhưng tôi sẵn sàng làm không công. Bà Erroll và tôi...” Cô di thức ăn quanh đĩa, “người bạn tốt nhất mà tôi từng có”.
“Bà ấy bị lẫn cơ mà?”
“Ồ phải.” Cô lại cảm nhận lần nữa nỗi đau mất mát của mình. “Nhưng khi bị lẫn, anh sẽ gạt bỏ được rất nhiều chuyện tào lao khỏi đầu. Tất cả những câu chuyện tâng bốc bản thân hay chuyện anh từ đâu đến. Bà ấy không thể nhớ nổi chúng. Bà ấy chỉ là chính mình. Và cái chủ thể ấy rất đáng yêu.”
Cô nhìn vào đĩa thức ăn vơi một nửa của mình. Nhớ lại Joy khiến một cục nghẹn dâng lên cổ họng và cô không nuốt trôi nó được. Cô đặt đĩa xuống cạnh ghế, cầm đồ uống lên. Chuông ở sảnh lại kêu và cô nghe tiếng John ào ra ngoài, nhấc ống nghe, cười thầm với nó rồi ấn nút mở cửa.
“Hừm.” Harris nhìn vào mẫu hồ sơ của mình. “Một vài hộ lý chúng tôi thẩm vấn đã nói rằng cô sa thải họ.”
“Ai đó? Anne Marie Thingmy và một người khác, cái cô gầy trơ xương ấy hả?”
Anh ta đờ người ra.
“Anne Marie là một mụ bò cái lười biếng, gắt gỏng, còn cái cô gầy gò thì ngày nào cũng đi muộn. Anh không thể chấp nhận một người không đến làm. Joy không được ở một mình một phút nào. Bà ấy vẫn còn đi lại được nếu thích và trong nhà thì đầy đồ đạc để bà bị vấp. Ý tôi là cách nhà không đến năm mươi feet là một con dốc cao. Nếu bà ra ngoài...”
“Sarah có đồ đạc gì quý giá nằm trong nhà không?”
“Tôi không thấy.”
“Hừm.” Anh ta gật đầu như thể điều đó quan trọng lắm.
Ngoài sảnh, Robbie đã đến cửa trước, cô nghe tiếng thằng bé và John thì thào ở ngoài đó. Cô muốn ra đó bảo thằng nhóc hỗn láo cút về nhà nó cho nhanh.
Harris thấy cô mải chú ý đến chuyện ngoài sảnh nên gật đầu ra ngoài đó:
“Ngoài kia có nhiều thùng quá, cô lấy ở đâu đấy?”.
Kay nâng cốc bia Bru lên, lườm anh ta qua vành cốc trong lúc uống thêm ngụm nữa. Khi đã uống xong, cô đặt cốc xuống.
“Thế anh nghĩ là từ đâu ra?”
“Tôi không biết. Sao cô không nói cho tôi?”
“Anh nghĩ chúng bị cuỗm chứ gì? Tưởng tôi là đồ ăn cắp? Hạ cấp tới mức phải đi ăn cắp mấy cái thùng các tông rỗng à?”
Anh ta chậm rãi chớp mắt:
“Sao cô không nói thẳng ra đi?”.
“Bởi vì cách ám chỉ của anh xúc phạm tôi. Sao anh không hỏi Alex Morrow xem tôi đã nói gì khi cô ấy hỏi tôi đống hộp quái quỷ ở đâu ra?”
Kay nhìn anh ta nhìn lại kẹp hồ sơ của mình và nhận ra anh ta đã không biết Alex tới đây một mình. Cô không định tiết lộ. Quy tắc là quy tắc, chuyện bạn thích hay không người đang thực hiện quy tắc ấy cũng không thành vấn đề. Nhưng anh ta là người thông minh và giờ anh ta đã hiểu ra.
Ngoài sảnh, John đóng cửa phòng ngủ của nó rất kiên quyết. Kay đột ngột đứng lên:
“Tôi sẽ mời hai vị ra về ngay bây giờ. Nếu các vị không phiền”.
Cô bước vào sảnh và vươn người tới cửa phòng John, mở toang nó ra.
“Ăn xong bữa tối chưa?”
Một khoảng dừng, sau đó là giọng John ngân nga vọng ra một cách tội lỗi:
“Xong rồi ạ!”.
“Vậy thì mang đĩa của con ra ngoài rồi rửa đi!” Cô liếc vào trong bếp. Bữa tối của Marie vẫn còn nguyên, lạnh ngắt trên đĩa.
Hai cảnh sát đã ra đến sảnh, người đàn ông tên Harris nhét chiếc kẹp hồ sơ của anh ta vào trong túi. Joe và Frankie ra khỏi phòng bọn chúng, Joe mang theo chồng đĩa và dao. Cô xấu hổ khi thấy cái đĩa trên cùng đã bị liếm sạch, vết lưỡi rành rành ở vành đĩa và cô thấy cả hai cảnh sát đều nhìn bọn con trai chỉ trích, ước lượng chúng.
“Mẹ ơi”, Joe thản nhiên nói, “lại một bữa thành công nữa! Hai cô chú đi đấy à?”.
Thậm chí Harris không buồn lịch sự nhìn lên khi Joe nói chuyện với anh ta. Đôi mắt anh ta chuyển từ Joe sang Frankie.
“Chúng tôi cần nói chuyện lại với cô.”
“Lúc nào cũng được”, Kay nói, ghét anh ta vì nhìn từ đầu xuống chân con cô như thế. Cô nắm lấy khuỷu tay anh ta và khẽ đẩy về phía cửa. “Lúc nào cũng được.”
Cô đóng cửa trước mặt họ và nhìn họ lúng túng đằng sau cửa kính, không nói gì. Họ bỏ đi và cô chờ đến khi nghe tiếng cửa nhà mở ra đóng vào.
Từ khóe mắt, cô thấy cửa phòng ngủ của John khép lại rất khẽ.
Bực tức, cô quay sang đó, đá vung cửa và rít lên:
“Tôi biết các anh đang làm gì trong đó đấy”.
Joe đứng đằng sau cô:
“Cứ mặc nó làm đi mẹ, chỉ là tự nhiên vẫy gọi thôi mà”.
Frankie cười rộ lên với câu đó. Thậm chí cô còn nghe tiếng Marie cười trong phòng con bé. Cô đã không nghe thấy nó cười như thế từ nhiều tháng nay.
Morrow và McCarthy không chắc người quản lý khách sạn có thể trông thấy họ nhưng chắc chắn là họ nhìn thấy ông ta: Dẻo dai và lạnh lùng, sự chú tâm có vẻ hơi quá giả tạo. Tuy nhiên ông ta vẫn nhìn chằm chằm vô hồn qua chiếc webcam, cứ như đang dùng một cái kẹp cổ của thợ chụp ảnh từ thời Edward. Ông ta hiếm khi chớp mắt và trả lời các câu hỏi của họ về Sarah Erroll một cách kiêu căng và hơi cáu kỉnh. Morrow hy vọng ông ta không trông rõ cô cho lắm, cô không nghĩ mình qua được màn đánh giá tư cách.
Morrow và McCarthy phải nói rất... rất chậm để vượt qua được rào cản trọng âm, họ phải sàng lọc các từ ngữ Scotland của mình và phát âm chữ t’s. Morrow cảm thấy mình thật lố bịch khi nói:
“Ông có thể cho chúng tôi biết điều gì về Sarah Erroll?”.
Ông ta nói ngay không do dự, cứ như đang đọc bài từ thiết bị lưu lời thoại: Sarah Erroll là một vị khách thường xuyên tới khách sạn. Cô ấy luôn luôn là vị khách quyến rũ. Không, chắc chắn không hề có chi tiết nào cho thấy cô ấy có dính dáng đến mại dâm. Cô ấy luôn chỉ gặp một người đàn ông duy nhất khi tới đó. Thi thoảng ông ta ở lại qua đêm với cô ấy.
“Tôi hiểu”, Morrow nói chậm chạp, chọn lựa từ ngữ cho thật rõ ràng. “Ý ông nói ‘qua đêm’ tức là họ ngủ với nhau ấy à?”
“Có vẻ là như vậy.”
“Ông có biết người đàn ông này không?”
Người quản lý cười mỉa nhưng thực ra trông ông ta có vẻ hơi bị xúc phạm.
“Quý ông ấy tự gọi mình là ‘Sal Anders’. Đó không phải là tên thật của ông ấy.”
Ông ta dừng một chút cho cô hỏi, vì thế mà cô thấy bực mình.
“Tên thật của ông ta là gì?”
Người quản lý gật đầu với vẻ không hài lòng.
“Lars Anderson. Tôi có thể nói cho cô biết như thế là vì ông ta mới qua đời.”
“Khi nào?”
“Tuần này?”. Sự hoài nghi của ông ta truyền qua được cả Đại Tây Dương. “Câu chuyện ấy được đăng tải đầy mặt báo ở đây. Tôi tin là ở toàn nước Anh cũng vậy.”
“Ông ta nổi tiếng à?”
“Rất nổi tiếng.” Ông ta ngừng lời. “Ở đây. Ông ta chết ở chính tại nước Anh này.”
“Vâng, chúng tôi thì ở Scotland. Scotland là một đất nước hơi khác so với Anh nên chắc ở đây nó không phải chuyện gì to tát lắm.”
Trí tuệ của ông ta bị xúc phạm, người quản lý chớp mắt rồi lại nói, giọng điệu y hệt như lúc trước:
“Tôi ý thức được điều đó. Đây là một câu chuyện lớn, chẳng lẽ cô thực sự chưa đọc về nó ư? Công ty Đầu tư Liên minh Hoàn cầu? Hàng tỉ đô la đã bị mất? Lars Anderson?”.
Morrow nghĩ cô đã nghe nói điều gì đó về chuyện này nhưng nhìn sang McCarthy, anh này đang đoán:
“Cái vụ tài chính phải không?”.
“Chính là tâm điểm của một vụ bê bối tài chính.” Người quản lý gật đầu, “hai ngày trước ông ấy đã treo cổ tự vẫn. Cô biết đấy, ở đây có tin đồn nhưng chúng tôi nghe nói báo chí Liên hiệp Anh đã đăng tải những bức ảnh chụp ông ấy treo cổ. Ở đây chúng tôi không có loại báo đó. Ở đây hơi khác...”.
Morrow hỏi làm thế nào ông ta biết tên thật của người đàn ông là Lars Anderson, có phải ông ta đã trông thấy một tấm danh thiếp hay tương tự như vậy không? Người quản lý nhấp nhổm trên ghế và nói đặc thù nghề nghiệp của ông ta là phải biết những chuyện như vậy.
“Mặc dù vậy ông có bằng chứng nào cho thấy đó là ông ta không?”
“Tôi có các hóa đơn thẻ tín dụng ở chỗ các cửa hàng.”
“Bằng tên thật của ông ta à?”
“Đúng vậy.”
“Tại sao ông ta đổi tên khi nhận phòng rồi lại dùng thẻ của chính mình để trả tiền?”
Trông ông ta rất tinh quái khi trả lời câu hỏi đó:
“Tôi không nghĩ quý ông đặc biệt này quan tâm đến chuyện giữ kín danh tính của mình. Tôi nghĩ đó là một biểu tượng. Ông ấy bảo chúng tôi phải kín miệng”.
McCarthy ngồi thẳng lên khi chợt nhớ ra:
“À phải, tôi nhớ ông ta đã có vợ?”.
“Vì vậy tôi tin rằng...”
Morrow bắt đầu tóm tắt lại các lời khai của ông ta, đảm bảo là họ đã hiểu đúng để ghi chép ra giấy và fax sang cho ông ta ký: “Sarah và Lars Anderson đang quan hệ tình cảm với nhau...”. “Không.” Ông ta cắt lời cô ngay. “Đây không phải một mối quan hệ tình cảm. Ông ấy mua quà cho cô Sarah từ cửa hàng trong khách sạn, một sợi dây chuyền. Tình nhân không làm như vậy. Một món quà ở khách sạn có nghĩa là ông ấy chỉ nhớ tới cô ấy trên đường vào khách sạn, không phải luôn nghĩ về cô ấy mỗi khi không ở cùng nhau.” Morrow nói có thể là do Anderson đãng trí. Sắc mặt ông ta vẫn biểu lộ trung lập. Làm sao ông ta biết sợi dây chuyền là dành cho Sarah? Ông ta lại nhếch mép, lần này thì thực sự buồn cười, bởi vì Sarah đã tặng nó cho một cô hầu phòng, coi như tiền boa.
“Vậy thì mối quan hệ ở đây là gì? Sóng gió à?”
“Có thể, đây là một sự thỏa hiệp...”, ông ta gợi ý.
Morrow đã quá mệt với ông ta và cái kiểu ẩn ý tinh tế của ông ta.
“Thế có nghĩ là cái quái gì?”
Người quản lý chậm rãi chớp mắt, ông ta cũng phát mệt với cô:
“Họ đang lợi dụng lẫn nhau”.
“Được rồi.” Morrow đứng dậy. Tôi sẽ để đồng nghiệp của tôi tóm tắt lời khai với ông, và anh ta có thể fax nó sang cho ông ký.
Cô bỏ đi không nói lời nào và đi vào phòng sự vụ.
Routher đang nhìn qua vai người khác để theo dõi họ làm việc:
“Cậu kia”, cô nói, “tôi muốn cậu tra cái tên này trên các báo”. Cô viết “Lars Anderson” xuống một tờ giấy nháp và đưa nó cho cậu ta. “Tôi muốn có bản in trên giấy trong hai mươi phút nữa.” Cậu ta lấy tờ giấy từ chỗ cô.
Cô vào văn phòng. Khoảng mười phút sau Routher gõ cửa và đi vào cùng với tờ báo của ngày hôm đó và các bản in vừa lấy ra từ máy in vẫn còn nóng hổi.
“Tôi đã theo dõi vụ này”, Routher háo hức nói. “Ông ta đúng là một nhân vật đen tối điển hình.”
Morrow gật đầu, giả vờ mình có biết về Anderson nhưng cũng không muốn đọc báo.
“Chị có thấy từ ‘here’ trông cứ như ‘hair’ không? Còn ‘Lars’ thì nghe như “liars” ấy.
Cô nhìn vào cậu ta. Routher nói đúng.
“Tốt. Có vẻ như cậu không phải là phường tốn cơm.”
Routher mỉm cười rồi đi ra.
“Nhớ quay lại đây nhé”, cô nói. “Đóng cửa lại.”
Cậu ta nghi ngại làm theo rồi đứng trước mặt cô.
“Thế”, cô gật đầu với cánh cửa đằng sau lưng cậu ta, “có chuyện gì đấy?”.
“Chuyện gì là chuyện gì cơ?”, cậu ta nói cứng ngắc.
“Các cậu đang âm mưu cái gì?”
Cằm cậu ta hơi run và mồ hôi bắt đầu túa ra.
“Routher”, cô lặng lẽ nói, “nếu mặt mà rặn ra phân được thì mặt cậu vừa mới làm đấy”.
Cậu ta chẳng thấy có gì đáng vui. Trông cậu ta cứ như sắp khóc đến nơi.
“Đi ra đi”, cô nói.
Cậu ta hấp tấp ra ngoài và đóng cửa lại. Cậu ta sẽ đi và bảo với họ rằng cô biết sắp có chuyện xảy ra, việc đó có thể dụ được kẻ nào đó lỡ mồm.
Morrow quay lại với câu chuyện chính. Cô bị sốc vì hình ảnh ông ta treo cổ trên trang nhất, cô không biết người ta được quyền in ảnh đó. Cô biết quy tắc đầu tiên trong việc thông báo các vụ tự sát là thường họ tránh nói về nó vì lo sợ sẽ khuyến khích những kẻ bắt chước.
Tựu trung các bài báo lại thì Lars Anderson là một nhà tư bản ở thành phố, gần đây đã trở thành tâm điểm của một chiến dịch thù địch từ giới báo chí. Cô đọc bài giải thích về mưu đồ của ông ta trên tờ Sunday Times đến ba lần mà vẫn không hiểu ông ta đã làm gì để đến nỗi mất nhiều tiền như thế; Báo nói rằng nó lên đến hàng tỷ. Cô chỉ có thể hiểu sơ sơ rằng ông ta cho người khác vay tiền có thế chấp ở một mức lãi họ không trả nổi, nhưng cô thực sự không hiểu nổi tại sao việc đó lại khiến ông ta trở nên đáng căm hận đến thế. Cô tưởng những người đi vay thế chấp tài sản phải kiểm tra kỹ từ trước xem họ có trả nổi hay không chứ.
Bất kể đã làm gì, ông ta cũng kiếm được cả đống tiền. Ngôi nhà ở quận Kent của ông ta được chụp từ trên không và từ dưới đất. Người ta còn cho đăng ảnh ngôi nhà nghỉ dưỡng của ông ta ở Nam Phi, được chụp từ trên không cùng với ảnh nội thất của đại lý bất động sản. Trông cũng không đẹp đến thế. Vợ ông ta được chụp trong lúc lái xe, lúc nào cũng đeo kính đen xì, trông có vẻ sợ hãi nhưng nghiêm nghị.
Vài bức chụp Lars thì được dùng đi dùng lại. Morrow tự hỏi tại sao. Có một vài bức chụp ông ta đang vội vã vào xe, ra khỏi một văn phòng với khuôn mặt bị che đi đằng sau tờ báo cuộn tròn hoặc bàn tay. Nhưng những bức chụp đàng hoàng thì thật xán lạn.
Trong đó, một người đàn ông tóc bạc với vầng trán cao đứng phía trước một chiếc trực thăng có người lái. Áo khoác ông ta mở rộng, ông ta cầm một chiếc cặp táp và trông cứ như vừa dừng lại để chụp tấm này trước khi bước vào trực thăng để tới một nơi nào khác quan trọng. Đây là một bức ảnh được dàn dựng cẩn thận, ông ta đứng tạo dáng và được trang điểm tỉ mỉ nhưng cái bụng thon và chiếc mũi cà chua thì không hoàn toàn là giả. Lars nhìn thẳng vào camera, kiêu căng, ác ý. Hầu hết mọi người sẽ mỉm cười và cố tỏ vẻ dễ chịu, nhưng đây là cách ông ta muốn thế giới nhìn mình. Cô thấy việc đó nói lên nhiều điều. Cánh báo chí tập trung khai thác sự giàu có và tài sản của ông ta, dường như họ bị ông ta làm cho lóa mắt.
Theo các bài báo, các tài khoản ngân hàng của AGI và cá nhân ông ta đã bị cơ quan chống gian lận đóng băng, chờ điều tra thêm. Bà Thalaine có nhắc tới AGI, đó là lúc cô nghe thấy từ này lần trước. Hai ngày trước, Anderson đã rời khỏi một phiên toà dân sự với phán quyết vĩnh viễn tước quyền được bổ nhiệm trong một công ty trách nhiệm hữu hạn của ông ta. Một cuộc điều tra của Văn phòng Chống gian lận Nghiêm trọng có nghĩa là ông ta không thể hoạt động dưới bất kỳ hình thức nào. Ông ta đã đi thẳng về nhà và treo cổ tự vẫn. Ông ta được tìm thấy bốn tiếng trước khi Sarah Erroll bị giết.
Xem lại các tấm ảnh trong iPhone của Sarah, cô tìm được ảnh người đàn ông tóc bạc trong những tấm chụp ở New York. Tuy ảnh không bắt đúng trọng tâm nhưng nếu nheo mắt cô có thể thấy đó là Lars Anderson.
Cô nhấc điện thoại của mình lên, chọn đường dây gọi ra ngoài và gọi tới Văn phòng Chống gian lận Nghiêm trọng ở London. Đã đóng cửa. Lời nhắn thoại nói rằng họ chỉ mở cửa đến năm giờ mười lăm. Công việc ở đó sướng thật.
Có tiếng gõ cửa mạnh và quen thuộc.
“Vào đi Harris.”
Anh ta mở cửa và ngó mặt vào trong.
“Harris, ngày mai anh đi London được không? Tôi đang cố hẹn trước với Cơ quan Chống gian lận Nghiệm trọng nhưng họ nghỉ rồi.”
Anh ta vẫn mặc nguyên áo khoác và có vẻ háo hức:
“Kay Murray có đồ cổ trong nhà, Leonard nói rằng chúng đáng giá rất nhiều tiền, toàn đồ quý hiếm, và bọn trẻ nhà cô ta có cùng kiểu giày da lộn. Cô ta có vẻ thù địch như kẻ đang nói dối. Chúng tôi phải bắt cô ta”.