Morrow ngồi trong văn phòng, cắn môi một cách lo lắng. Cô có dự cảm rằng chuyện gì đó kinh khủng, mệt mỏi và buồn sẽ tới sau buổi thẩm vấn Kay, rằng đó sẽ là một ký ức không phai.
Đối với Morrow, những vụ khiến đôi mắt nhức nhối của cô phải chớp lia lịa trong bóng tối không phải là những vụ máu me, không phải những vụ tàn bạo như moi mắt, bẻ ngón tay hay trẻ em bị hại. Những ký ức không phai của cô xảy ra khi các sự kiện dường như là không thể tránh khỏi, khi các vụ án khiến cô nghi ngờ khả năng có công lý, nghi ngờ giá trị của những việc họ đang làm. Vụ Sarah Erroll đang bắt đầu cho cô cảm giác đó.
Cô đứng dậy và gạt bỏ nỗi sợ hãi, mở cửa và dừng trước phòng sự vụ. Giờ thì họ đã thoải mái hơn, tưởng rằng cái kết đã trong tầm tay. Hình ảnh hiện trường đã không còn là tâm điểm chú ý của ai nữa, không ai tránh nhìn vào nó nữa. Họ tưởng họ đã phá xong vụ án.
Cánh cửa phòng Bannerman mở hé. Cô gõ cửa và ngó đầu vào trước khi ông ta có cơ hội hỏi “ai đấy?” và ngạc nhiên khi thấy ông ta đang nói chuyện với sếp của họ, McKechnie. Thậm chí Morrow còn không biết ông này có mặt trong tòa nhà.
McKennie là một kẻ tôn sùng thủ tục theo đúng kiểu cũ. Một kẻ chuyên làm chính trị, bụng to, cằm nhọn.
Bannerman đang vươn người trên bàn làm việc, cười toe toét, McKennie thì ra vẻ tự đắc, đặt hai bàn tay lên bụng, dựa người ra sau ghế. Giữa hai người đó luôn có một mối dây liên hệ. Chính McKennie đã đưa Bannerman lên và đang ở đây để chứng kiến hình mẫu của mình vừa ra tay đã gặt hái thành quả.
“Sếp.” Morrow gật đầu.
“Làm tốt lắm, Morrow”, ông ta nói và nhìn vào Bannerman để tìm sự xác nhận.
Bannerman cười khích lệ.
“Rất tốt. Tôi cần Harris ở đây vào ngày mai.”
Họ đã mua vé cho Harris đi London rồi và vé không hoàn lại được.
“Chúng tôi chỉ đi buổi sáng thôi mà, chiều sẽ về.”
“Tôi cần anh ta buổi sáng. Cô mang Wilder theo đi.”
Bannerman đang tách cô ra khỏi Harris, cô lập anh ta. Và ông ta mang chuyện này ra nói trước mặt cấp trên để cô không thể phản đối, bởi vì bất kỳ lời phàn nàn nào sẽ khiến cô trở thành một phần tử của cuộc phản kháng. Cuộc chiến đã nổ ra không cần kèn trống hay pháo hiệu gì cả.
“Được rồi”, cô nói, chớp mắt để cắt ngang lời ông ta. “Tôi sẽ không đi thẩm vấn đâu.”
Bannerman gật đầu.
“Tôi vừa mới giải thích là cô biết nghi phạm.”
“Không, à”, Morrow tóm chặt lấy mép cửa, “Murray không thực sự là một nghi phạm”.
Bannerman gật đầu nhượng bộ:
“Hiểu rồi: Mẹ của các nghi phạm. Mặc dù”, ông ta nhìn vào McKennie, “cô ta có thể là một nghi phạm. Chúng ta phải xem khi lên trên đó”.
“Còn bọn trẻ thì ở đằng sau?”
“Phải, chúng tôi đã gửi mấy đôi giày của chúng đi và mang về toàn bộ đống đồ cổ được cô ta rải khắp nhà.” Ông ta giải thích với McKennie: “Một trong các lính mới của chúng ta đã phát hiện ra chúng khi đến nhà phỏng vấn”.
Ông ta nói chuyện cứ như họ tìm được cả bảo tàng Anh quốc ở đó. Morrow chẳng nhìn thấy mấy thứ trong nhà đó.
“Chính xác thì trong nhà có gì?”
Bannerman đẩy một chồng ảnh màu in trên giấy trắng trên bàn về phía cô. Cô bước tới và lật qua chúng.
Mực in bị nhòe một chút. Các đồ vật được chụp cạnh một cái thước và đánh số bên cạnh khiến chúng trông như đồ ăn cắp.
Vật đầu tiên là một cái cốc đựng trứng bằng bạc. Nó được tìm thấy trên nóc tủ đựng chén ở trong bếp, phủ đầy bụi bẩn. Cô vẫn còn nhìn được những sợi tóc bé tí bị dính chặt vào vành cốc.
Vật tiếp theo là một chiếc đồng hồ Art Deco có mặt hình chữ nhật và các viên kim cương xung quanh.
“Tìm thấy cái đó trong một chiếc tất dưới gầm giường”, Bannerman nói với McKennie, giúp Morrow tới bức ảnh tiếp theo, cận cảnh nơi tìm ra đồ vật. Bụi phủ dày dưới gầm giường. Những thứ bị thất lạc rơi rải rác quanh tấm thảm màu xanh hải quân: Đôi tất bó bị cuộn tròn thành hai cục như bánh doughnut, chiếc hộp đèn rỗng, tờ tạp chí thần tượng, chiếc tất màu cam nằm cạnh cái ván trượt.
Rồi đến một chiếc bát tráng men ở mặt ngoài. Nó được tìm thấy trên cầu là và được chụp lại ngay cạnh một vết cháy trên nền vải hoa. Kay đã dùng nó làm gạt tàn thuốc. Chỉ cần tìm kiếm qua loa trên mạng cũng thấy nó đáng giá đến vài ngàn bảng.
“Cũng đâu có nhiều lắm”, Morrow nói, nghe có vẻ cáu kỉnh.
Hai người đàn ông không nói gì nhưng cô biết họ đang nghĩ về cô. Morrow không thấy phiền. Ngay từ đầu, cô đã không hề cảm thấy được họ coi trọng và chẳng bao lâu nữa, cô sẽ ra khỏi đây. Bàn tay cô lại lạc đến bụng để tự trấn an mình, nhưng cô kịp ngăn nó và thả xuôi xuống.
Bannerman lịch sự đổi đề tài, nhìn McKennie và nói:
“Được chưa?”.
McKennie mỉm cười với người được ông ta đỡ đầu:
“Khi nào sẵn sàng”.
Họ đứng lên, đi qua chỗ cô đứng ở cửa. McKennie vui vì một vụ án nghiêm trọng sắp sửa khép lại, còn Bannerman vui vì ông ta là người lên dây cót cho vụ này. Morrow đi theo sau và cách họ một khoảng.
Một hàng ghế duy nhất được bày ra trong phòng quan sát từ xa, tổng cộng có bốn chiếc. McKennie ngồi ở giữa.
“Thưa sếp, đây là cảnh sát điều tra Tamsin Leonard. Cô ấy là người đã phát hiện ra cái gạt tàn dẫn đến cuộc khám nhà.”
Morrow tức tối với Leonard. Cô không được quyền như thế. Leonard đã để ý thấy cái bát, cô ta đâu có đặt nó ở đó, nhưng cô vẫn thấy tức cô ta. Để bồi thường, cô dành cho Leonard đặc ân thông thường không có được, đó là giới thiệu cô ta với cấp trên hơn cô ta tới ba bậc, và lại nói đầy đủ tên họ.
Họ cùng ngồi xuống, Morrow ngồi cạnh McKennie, Leonard ngồi phía bên kia ông ta.
Routher đi vào để kiểm tra máy quay phim trong phòng thẩm vấn và bật chiếc ti vi hộp lên, chỉnh nó hiện hình từ máy quay số 1.
Màn hình trắng xóa biến mất và một căn phòng cao hẹp hiện ra. Chiếc máy quay hướng về phía cửa và hai chiếc ghế trống đối diện nhau, Bannerman và Gobby được quay từ đằng sau lưng nên khuôn mặt họ bị che mất. Họ còn đang bận cởi áo khoác, đặt băng cát xét lên bàn. Khi Gobby rót ra ba cốc nước, Bannerman quay lại và mỉm cười với máy quay phim. Với McKennie thì việc đó quá suồng sã, ông ta nhấp nhổm trên ghế của mình đầy trách móc.
Tất cả mọi người đều đợi. Căn phòng ấy trông bé đến mức ngột ngạt, tường thì cao, bàn thì hẹp, hai gã đàn ông to lớn ngồi ở một đầu, đối diện với cánh cửa, chờ đợi và sẵn sàng để người bị thẩm vấn tiếp theo phải gục ngã.
Cửa mở ra chầm chậm và khuôn mặt McCarthy hiện lên. Anh ta có vẻ lo lắng, không nói gì, dường như đang kiểm tra xem đúng là chiếc ghế có trong phòng không. Kay bước vào và ngồi xuống phía bên kia, nắm chặt hai bàn tay trên mặt bàn trước mặt. Cô thoáng bắt gặp cái nhìn lo lắng của McCarthy, chớp mắt để anh ta biết cô không sao. Morrow tự hỏi liệu họ có biết nhau từ trước không.
Kay nhìn lần lượt từ Bannerman sang Gobby.
“Xin chào”, cô nói trịnh trọng.
Đầu Gobby gật gù. Bannerman bắt chước cách nói lịch sự của Kay nhưng nghe có vẻ hài hước.
“Chào cô Murray”, ông ta giơ những chiếc băng cát xét lên. “Chúng tôi sẽ cho những cuốn băng này vào máy ghi âm để ghi lại cuộc thẩm vấn.”
Đằng sau Morrow, McCarthy đi vào phòng quan sát và kéo một cái ghế ra khỏi góc tường, theo dõi màn hình ti vi. Morrow nhìn anh ta, anh ta nhướng mắt lên để hỏi cô liệu anh ta có được xem không. Cô gật đầu đồng ý. Anh ta lại nhìn màn hình, cau mày, lo lắng và Morrow thấy cảm động: McCarthy không quen Kay. Anh ta chỉ thích cô ấy thôi.
Trong phòng thẩm vấn, Kay nhìn quanh trong lúc Bannerman và Gobby xé bao gói các cuộn băng, đặt chúng vào máy ghi âm. Tưởng mình không bị quan sát, có vẻ như cô ấy nhìn lên, tìm kiếm một cửa sổ, một cánh cửa khác, một đường thoát. Đôi mắt cô ấy bắt gặp chiếc máy quay phim. Trong một giây trước khi nhìn thấy đèn đỏ và nhận ra chiếc máy đang bật, trông Kay có vẻ hoảng hốt và bị dồn vào chân tường.
Bannerman ngồi lùi lại, nói vào máy ai đang ở đó, hôm nay là ngày gì, họ đang ở đâu. Ông ta nói cho Kay biết họ đang được quay phim và vài cảnh sát đang theo dõi họ trong một phòng khác của đồn. Kay nhìn thẳng vào máy quay, đôi mắt căm thù, cứ như cô có thể nhìn vào những kẻ buộc tội mình qua chiếc máy đó.
Morrow chớp mắt để gạt hình ảnh thù hận đó đi.
“Vậy”, Bannerman bắt đầu. Họ có thể thấy ông ta đang cười từ đằng sau lưng. “Cô hiểu tại sao chúng ta lại ở đây, phải không Kay?”
Kay không cười lại.
“Bởi vì các ông đã tìm được trong nhà tôi những thứ mà các ông nghĩ rằng đáng lẽ tôi không nên có?”
“Không phải vậy.” Ông ta ngừng giao tiếp bằng mắt. “Không phải như thế, là bởi cái chết của cô Sarah Erroll. Đó là lý do chúng ta ở đây, vì Sarah Erroll đã bị giết trong nhà cô ấy, cô có thể tiếp cận ngôi nhà và tài khoản của cô ấy và...”, ông ta dừng một chút để nhấn mạnh, “vì trong nhà cô có những thứ dường như không thuộc về cô”.
“Như cái gì?”
“Hừm.” Ông ta nhìn xuống danh sách đã viết vào sổ của mình, mở tập hồ sơ, giơ một bức ảnh sao chụp chiếc cốc đựng trứng lên trước máy quay phim. Ông ta quyết định không đi đến đoạn đó ngay bây giờ. Ông ta đóng tập hồ sơ và nhìn lên. “Hãy bắt đầu từ đầu.”
McKennie khẽ lẩm bẩm “ôi không” và Morrow thấy đồng cảm: Bannerman sẽ kéo dài việc này. Theo tính toán của cô thì phải tầm hai tiếng đồng hồ. Đó là khoảng thời gian cần có để một nghi phạm khuất phục những câu hỏi liên tục. Hai tiếng đồng hồ nói về các chi tiết đời tư, thời gian biểu xe buýt và lấy số điện thoại hơi sai khác một chút trước khi nghi phạm buồn chán đến không chịu nổi và họ phải vui vẻ mà giơ tay lên xin hàng. Bây giờ đã là 11 giờ kém 5 phút.
“Sao cô lại làm việc cho bà Erroll?”
Kay chớp mắt, ngưng một chút rồi nói rất chắc chắn:
“Không. Chúng ta sẽ không bắt đầu từ đầu. Hãy đến thẳng vấn đề chính...”.
“Không”, Bannerman biết McKennie đang xem. “Chúng ta sẽ bắt đầu từ đầu...”
“Không”, cô ấy rất cương quyết. “Và tôi sẽ nói cho ông biết tại sao: Vì tôi có bốn đứa con, hai đứa đang ở dưới nhà và chúng đang hoảng sợ, hai đứa khác thì đang ngồi trong nhà hàng xóm và tất cả bọn chúng đều phải đi học vào sáng ngày mai”.
“Tôi nghĩ việc này quan trọng hơn...”, giọng ông ta cao lên.
“Thế à? Ông biết không, tôi thì không thấy vậy”, giọng Kay còn cao hơn.
Morrow vươn người tới, chống khuỷu tay lên đầu gối, bàn tay cô đang chắn trên miệng để ngăn tiếng cười.
“Bởi vì”, Kay nói tiếp, “tôi biết đang có chuyện gì xảy ra. Tôi đã ở đó. Tôi biết bọn nhóc của mình và biết chẳng có gì liên quan đến chuyện này cả”. Đáng lẽ cô ấy đã thắng nếu khăng khăng đòi về, nhưng đột nhiên lòng gan dạ từ bỏ cô. Một đợt hoảng sợ mới dường như dâng lên trong ngực, đẩy cô ngồi lại ghế, bóp méo giọng cô trở thành một tiếng thút thít yếu ớt. “Và tôi biết rồi các ông sẽ tìm ra. Rồi ông sẽ để con tôi về nhà. Và ngủ một chút.” Cô đang khóc, khuôn mặt cô méo mó. Cô đập mạnh tay lên mắt, lắc đầu, miệng cong lên.
“Không cần phải sợ”, Bannerman nghe có vẻ khó chịu.
Kay vẫn bịt mắt và nín thở:
“Ông đang nói về cái quái gì đấy?”.
Đây không chỉ là việc chốt vụ án như McKennie tưởng. Ông ta thôi nhìn màn hình và đang kiểm tra vết nhăn trên ống quần.
Kay đang phùi nước bọt và đôi mắt ầng ậc nước, cô thả tay xuống.
“Có đủ mọi lý do chết tiệt để tôi phải lo sợ.”
“Cô đã làm gì hả Kay? Cô có thể kể cho chúng tôi biết.”
“Không, tôi không thể.” Cô dừng lại để dùng mu bàn tay chùi mũi. “Tôi không hoảng sợ vì mình đã làm gì cả. Tôi sợ vì tôi không tin các ông. Bất kỳ ai trong các ông. Và tôi biết tôi đã không làm gì, bọn nhóc nhà tôi cũng không làm gì hết, nhưng tôi không tin rằng ông sẽ tìm ra điều đó.”
Đó là một khởi đầu tồi tệ. Bannerman không nghĩ được rằng Kay lại ăn nói lưu loát như thế. Ông ta nặng nề thu mình, nhìn cô sụt sịt run rẩy. Khi Kay đã bình tĩnh lại, ông ta lặng lẽ nói:
“Hãy bắt đầu từ đầu nào”.
Kay lại sịt mũi, nỗi hoảng sợ giảm bớt trong khi tức giận len lỏi vào.
“Làm sao cô kiếm được việc ở chỗ bà Erroll?”
Kay liếm môi và ngó quanh mặt bàn. Cô nhìn thẳng vào máy quay, nhìn Gobby rồi tới Bannerman.
“Được rồi”, cô kể, “thế này nhé: Tôi đã làm việc lau dọn cho bà Thalaine và nhà Campbell. Một tối nọ tôi gặp một người giúp việc khác tên là Jane Manus, một cô gái trẻ, cũng đi lau dọn thuê, trên sân ga tàu hỏa và cô ấy nói Sarah Erroll đang tìm người chăm sóc cho mẹ cô ấy...”.
“Ai là Jane Manus?”
“... lương mười bảng một giờ. Vì thế tôi bỏ qua chuyến tàu của mình và đi lên nhà đó, gõ cửa nhà Sarah và nói với cô ấy: Tôi đã nghe quảng cáo tuyển người của cô, tôi không có bằng cấp gì...”.
“Ai là Jane Manus?”
“... hay kinh nghiệm gì. Nhưng tôi ham làm việc và thích người già. Cô ấy cho tôi thử việc. Tôi làm không lương ba ngày. Nửa ca. Tôi và bà Erroll hợp nhau và cô ấy nhận tôi vào làm.”
Morrow liếc qua người McKennie để thấy Leonard đang khẽ mỉm cười khi cô ta đứng về phía Kay.
“Cô Murray, cô không hiểu chuyện đang diễn ra rồi.” Bannerman giơ một bàn tay lên ngăn cô lại. “Tôi là người hỏi và cô trả lời các câu hỏi bởi vì đây là việc thu thập thông tin của chúng tôi. Chúng tôi biết mình cần phải hỏi gì...”
“Ông cần toàn bộ lịch sử công việc của tôi à?”
“Chúng tôi cần ngữ cảnh.”
Morrow đã từng thấy ông ta làm thế này: Ông ta dùng những từ mà mình cho rằng Kay sẽ không hiểu. Khoảnh khắc ai đó cần ngưng lại để tìm hiểu ý nghĩa từ ấy sẽ cho ông ta lợi thế, khiến họ mất tập trung trong câu chuyện. Nhưng ông ta chẳng đánh giá đúng Kay chút nào. Cô thật sắc sảo và suy nghĩ rất nhanh.
“Ông có thể hỏi ngữ cảnh ở chỗ người khác. Tôi có nhiều trách nhiệm. Tôi cần phải làm việc này cho xong”, cô nói.
“À”, ông ta cười khúc khích không thoải mái, “tôi nghĩ nếu nói nhu cầu của chúng tôi được ưu tiên ở đây thì cũng là chuyện công bằng. Chúng tôi đang tiến hành điều tra một vụ giết người...”.
“Và tôi đang giúp đỡ ông. Tôi vui lòng được giúp.”
“Trông cô đâu có vui vẻ gì.”
Trước câu nói đó, Kay nhìn ông ta với vẻ ghê tởm hùng hồn:
“Thế ai sẽ vui nào? Các con trai tôi đang ở dưới nhà chờ đến lượt bị hỏi về chuyện này. Một đứa mười lăm, một đứa mười sáu. Đáng lẽ chúng còn không nên được biết về những chuyện thế này. Và ông đừng có hòng cho chúng xem những bức ảnh bẩn thỉu về người chết đấy nhé. Tôi đã nói chuyện với các ông bốn lần rồi, đây là lần thứ tư...”.
“Lần thứ ba”, ông ta kiểm tra lại ghi chú, “chúng tôi mới nói chuyện với cô ba lần thôi. Cảnh sát Harris và Leonard tới nhà cô, cô gặp Morrow và Wilder trên đường và bây giờ”.
Kay ngồi lùi lại và hóp má, liếc nhìn máy quay.
“Cô thường phóng đại sự việc sao, Kay?”
Cô không nói gì và Bannerman cảm thấy mình đã tìm được một điểm yếu.
“Cô có phóng đại sự giàu có của Sarah khi kể về cô ấy với các con mình không? Chắc hẳn cô nhớ số lương cô ấy trả cho cô?” Ông ta ngưng lại. “Cô có biết trong nhà có tiền không?”
“Không.”
“Không đúng, phải không Kay? Chắc chắn cô biết vài chỗ cất tiền. Cô đã trả những người khác bằng tiền mặt. Cô là người điền vào các sổ sách, chúng tôi đã so nét chữ của cô.”
“Sarah để lại tiền cho tôi. Tôi viết vào sổ sách và cô ấy để lại số tiền chúng tôi cần dùng.”
“Cô ấy để lại đúng số tiền ấy à?”
“Đúng, thành từng cọc tiền công. Tôi thậm chí còn không đụng vào chúng.”
“Có thể cô đã dẫn bọn trẻ đến chỗ làm việc, cô cho chúng xem chỗ tiền và chúng quay lại đó vì thế, rồi chúng hoảng sợ và Sarah bị hại.”
“Các con tôi chưa bao giờ tới chỗ tôi làm.”
“À, để xem đã. Cô kiếm được bao nhiêu khi làm việc cho Sarah?”
“Mười bảng một giờ.”
“Cô làm bao nhiêu giờ một tuần?”
“Tám giờ một ngày, năm ngày một tuần.”
“Vậy là khoảng bốn mươi. Bốn trăm bảng trước thuế phải không? Thế là nhiều lắm. Có nhiều với cô không?”
Kay buồn bã nhìn vào máy quay.
“Cô Murray, như thế có là nhiều với cô không?”
Ông ta đang hỏi cô có nghèo không. Cô nhìn vào hai bàn tay mình:
“Có”, Kay lặng lẽ nói.
Dường như sau đó Kay có vẻ bị khuất phục. Cô trả lời các câu hỏi một cách đều đều, hiếm khi nhìn lên, không còn mong mỏi được nể nang hay thấu hiểu nữa. Cô rất cần chỗ tiền đó nhưng vẫn gắng gượng được. Cô không nhận chút tiền nào từ bố bọn trẻ. Đúng, có nhiều hơn một ông bố. Đúng, bọn chúng đều sinh cách nhau khoảng một năm. Kay không phản ứng gì nhiều hơn một cú cong môi khi ông ta lẩm bẩm rằng hẳn cô quên người xưa nhanh lắm, rồi tiếp tục hỏi cô về hành xử của bọn trẻ và chuyện chuyên cần của chúng ở trường.
Morrow có thể viết một lời nhắn và cử Routher mang nó vào trong phỏng thẩm vấn, bảo với Bannerman rằng cô đã đến nhà Kay và cộng cả lần đó thì cô ấy đã nói sự thật: Đúng là bốn lần. Nhưng cô không làm thế. Gửi tin nhắn chỉ nói với Bannerman một điều duy nhất: Morrow đứng về phía Kay. Nếu ông ta biết thế thì ông ta sẽ thẩm vấn cô ấy còn gay gắt hơn nữa, không hề nể mặt Morrow, chỉ vì ông ta nghĩ Kay đang chiếm được lòng khán giả trong phòng quan sát.
Kay mô tả cái chết của bà Joy Erroll bằng giọng đều đều: Bà cụ chuẩn bị đi tắm, Kay chỉ có một mình và cô phải chạy đi lấy cái tời, để lại bà cụ ngồi trong phòng tắm, mặc chiếc áo choàng. Khi cô trở lại thì Joy đã ngã ra khỏi ghế. Kay đặt bà nằm về tư thế phục hồi nhưng Joy đã bị đột quỵ nặng và đã chết khi xe cứu thương tới được đó.
Bannerman hỏi khi ấy cô làm gì nhưng Kay vẫn bị kẹt ở sàn nhà tắm ấy và nắm bàn tay cạn sức sống của bạn mình.
Ông ta phải gõ vào bàn để cô tỉnh lại. Ông ta hỏi về chỗ tiền ở dưới gầm bàn.
“Dưới gầm bàn?”
“Bàn ăn, chúng tôi tìm được bảy trăm ngàn bảng trên một cái ngăn kéo ở dưới bàn ăn.”
Lúc ấy Kay đã làm một việc không hay. Cô không kêu lên hay tỏ vẻ ngạc nhiên mà lại giật đầu như chợt nhận ra:
“Bảy trăm...”.
“Ngàn bảng.”
“Nhiều thế à?”
Nhìn từ đằng sau, Bannerman đang so bả vai lại với nhau.
“Phải”, ông ta nói. Morrow biết ông ta đang nghĩ mình đã tóm được gì đó. Một người vô tội sẽ há hốc miệng và hỏi nhiều hơn về chiếc bàn.
“Cô có biết nó ở đó không?”
“Không.”
Ông ta lật giở đống ảnh, lấy chúng ta khỏi cuốn sổ, đặt chúng lên bàn trước mặt cô. Ông ta chỉ vào bức đầu tiên.
“Chúng tôi tìm được cái đồng hồ này trong một chiếc tất dưới gầm giường cô. Cô lấy nó ở đâu?”
Cô nhặt nó lên và nhìn vào nó:
“Sarah cho tôi cái này khi mẹ cô ấy mất”.
“Chuyện đó như thế nào?”
“Sau đám tang, cô ấy dẫn tôi lên phòng mình và cho tôi xem một hộp nữ trang...”
“Trông nó như thế nào?”
“Lụa xanh, cũ. Hơi rách.” Cô nhìn lên ông ta xem mình có nên tả thêm. “Hình lục giác?”
“Và cô ấy đã nói gì?”
“Chọn một thứ đi.”
“Có phải chiếc đồng hồ là món đắt tiền nhất trong đó?”
“Tôi không biết. Tôi không biết nhiều lắm về những thứ như thế.”
“Những thứ như thế nào?”
“Đồ trang sức Art Deco.”
“Nhưng cô lại biết nó là Art Deco?”
“Sarah bảo thế.”
“Sao cô lại chọn nó?”
Trông Kay rất buồn:
“Vì hình dáng của nó”.
“Nhưng cô không đeo nó?”
“Không.”
“Sao cô lại cất nó trong tất ở dưới gầm giường?”
“Phòng khi chúng tôi bị trộm.”
“Cái này”, ông ta giơ ảnh chiếc bát sứ lên trước mặt cô và Kay thở dài. “Cô lấy ở đâu?”
“Bà Erroll muốn tôi có nó. Bà ấy cho tôi vì biết là tôi thích nó.
“Nhưng bà Erroll bị lẫn...”
“Khi Sarah về nhà, tôi đã hỏi cô ấy rằng liệu tôi có thể lấy nó không, cô ấy bảo là được vì đã hỏi mẹ rồi.”
“Còn cái này? Một chiếc cốc đựng trứng bằng bạc?”
Cô lắc đầu.
“Tôi không nghĩ mình từng trông thấy nó. Tôi không biết cái đó ở đâu ra.”
“Nó ở trên nóc tủ bát của cô. Cô không đặt nó ở đó à?”
Kay sụp người xuống, thảm bại.
“Tôi không biết phải nói gì. Tôi cần hút thuốc.”
Bannerman cho dừng, nói với cuộn băng là họ nghỉ giải lao và McCarthy vội vã vào phòng để đưa Kay đi hút thuốc.
McKennie không thể không nói chen vào:
“Morrow, mang chiếc cốc đi lấy dấu vân tay. Có thể hiểu là cô ta không biết nó có ở đó và bọn nhóc đã mang về sau vụ việc rồi giấu đi”.
“Không”, Leonard nói, “trên cốc phủ đầy bụi bặm dầu mỡ. Nó để lại một vệt trên nóc chiếc tủ cất giấu. Nó đã ở đó nhiều tháng trời rồi”.
McKennie nhìn lên và thấy cô ta lần đầu tiên. Ông ta tưởng Leonard sẽ héo rũ đi trước ánh mắt mình nhưng cô ta không như vậy. Cô ta nhìn thẳng vào mắt ông ta đến khi ông ta đứng dậy và ra khỏi phòng.
Morrow ngồi lùi lại và mỉm cười. Thật dễ chịu khi nhìn thấy người khác sụt hố.